Sở dĩ bạn thất bại là do bạn dám tiên phong đi tìm vùng đất mới, phương pháp thực hiện mới, và những cách thức thể hiện mới.

Eric Hoffer

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Upload bìa: Hoàng Huyền
Số chương: 18
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-11-05 19:15:22 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12
i-cô-la Pô-li-nin, người cùng ngồi với Ác-tê-mi-ép trên chiếc xe vận tải loại nhỏ đang lao vùn vụt đến sân bay, không phải như ta thường gọi là một người không có khuyết điểm, anh được bạn bè mến nhưng chẳng bao giờ được cấp trên ưa thích một cách thỏa đáng. Tính nết thẳng thắn, thẳng đến nỗi làm anh gần như trở nên khó tính, nói năng lễ phép nhưng cứng nhắc, đồng thời vừa nhũn nhặn và cả rụt rè cũng tự nhiên như bản tính vốn thế. Những người không hiểu rõ anh thường hay chỉ chú ý đến mặt thẳng thắn đến khó tính, lễ phép đến cứng nhắc và không hoàn toàn tin ở mặt nhũn nhặn và rụt rè thành thật của anh. Nhưng, tất cả những tính chất khác nhau ấy hoàn toàn hòa nhịp trong Pô-li-nin.
Tự đánh giá thấp những đức tính của mình mà không một chút nào giả tạo, anh chỉ nhìn thấy, khi phải nhận xét đồng đội, toàn những phía tốt của họ nhất là ở những người dưới quyền anh, anh không tha thứ một sự bất công dù nhỏ đối với họ ở bất cứ người nào. Khi viết những nhận xét về công tác của cấp dưới anh khen ngợi có khi đến quá đáng và gửi lên cấp trên những bản báo cáo gần như thô lỗ. Nếu trong số những người dưới quyền anh có ai mắc một lỗi không thể chối cãi được, tự anh khiển trách họ một cách tàn nhẫn, nhưng khi báo cáo với trên, anh gần như trút hết trách nhiệm vào phần mình.
«Chúng ta không phải là ở trong nhà tu kín mà là trong quân đội». Anh đã bị thủ trưởng sư đoàn phê bình kịch liệt như thế về một trong những chuyện tương tự, trong một buổi họp Đảng, ít lâu trước ngày anh dời Mạc-tư-khoa. «Chúng ta không phải là những thầy tu, những ông thánh, mà là những quân nhân, những người cộng sản, và những phương pháp giáo dục tu viện ấy không phải của chúng ta».
Pô-li-nin cùng không tìm cách thanh minh. Anh hiểu rằng thủ trưởng của anh nói đúng, nhưng anh cũng biết rằng, để không tái phạm việc đó một lần nữa, anh còn phải đấu tranh gay go với bản thân mình.
Mặc dù đã mười năm công tác trong không quân, cấp bậc trung tá và nhiều huân chương, Pô-li-nin vẫn chỉ huy có một phi đội, và chỉ ở mặt trận, giữa lúc chiến sự đang diễn ra, anh mới được cử làm chỉ huy phó đại đội khu trục đặc biệt này. Những kiến thức và kinh nghiệm quân sự của anh có thể hoàn toàn cho phép anh chỉ huy một trung đoàn; tính nết sống sượng và không thích giao du của anh ngược lại suýt giữ chân anh ở hàng phi công thường. Cuộc sống gần như lấy điểm trung bình, và Pô-li-nin cũng không kêu ca gì. Lúc này anh được chiến đấu, đó là điểm chính, cấp bậc đối với anh chỉ là điểm phụ. Ngồi trong xe bên người thợ chuyên môn trên một đồng cỏ vừa cắt xong, hai tay cầm mảnh vải quét cao-su không thấm nước che lưng và đầu, anh ngạc nhiên nhìn mưa rơi trên thảo nguyên. Những đám mây tụ lại ở chân trời vài giờ trước đột nhiên tiến về giữa vòm trời với một tốc độ không thể tưởng tượng được, và một cơn giông trút xuống thảo nguyên một trận mưa nặng hạt gió đánh ngả rạp xuống.
«Hôm nay lại không bay được rồi Pô-li-nin nghĩ bụng, bực dọc vì anh hy vọng còn có thể bay được vào buổi chiều trước lúc đêm xuống. Có lẽ cả ngày mai nữa. Không hiểu sao mình lại còn nảy ra ý kéo cái anh chàng Ác-tê-mi-ép này đến đây làm gì. Để chịu mưa chăng!»
Anh thích Ác-tê-mi-ép về thái độ đúng đắn và vẻ biết điều của anh ta. Biết điều, đối với Pô-li-nin, là một danh từ thay thế cho rất nhiều danh từ khác và đồng thời có nghĩa là thông minh, hiểu biết chiến thuật, và nhất là khả năng đánh giá những sự việc xẩy ra một cách đúng đắn. Danh từ này trên môi Pô-li-nín là một nhận xét vừa vắn tắt vừa tán dương nhất về một con người, hay đúng hơn, về một người đàn ông, vì suốt đời Pô-li-nin chưa có dịp gặp một người đàn bà nào, theo anh, xứng đáng với sự đánh giá ấy. Nếu anh gặp, chắc là anh đã lấy người đó rồi. Ba mươi tuổi, anh vẫn chưa vợ,
Nghĩa mà Pô-li-nin gán cho danh từ «thái độ đúng đắn» cũng rộng rãi không kém. Tuổi thơ ấu của anh trôi qua trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Cha anh lúc nào cũng say khướt, hay chìm đắm trong những cơn giận dữ đen tối tiếp theo những bữa rượu. Sau khi đã tàn phá hết sức lực của một người khổng lồ, ông cụ kết thúc đời mình bằng cách rơi từ trên cầu cao xuống bến Xa-ra-tốp, chết đuối, năm 1917, ngay trước ngày cách mạng, giữa lúc mới quá bốn mươi một chút.
Mẹ anh đã hết sức chịu đựng chồng lúc sống, một sức chịu đựng ít có, sau khi chồng chết bà lại lao vào việc nuôi nấng con cái và dạy dỗ cho chúng nên người. Bà thành công với sự giúp đỡ của chính quyền xô-viết. Pô-li-nin yêu và kính trọng mẹ trên tất cả mọi thứ ở đời. Sau khi đã bảo đảm việc giáo dục các con, bà sống như bà vẫn thường quen nói «như bà lớn» một mình, trong một căn nhà nhỏ hai buồng mà trên cấp cho Pô-li-nin trong một khu quân sự ở gần Mạc-tư-khoa.
Từ lúc trẻ thơ, Pô-li-nin đã mang một lòng thù ghét sâu xa đối với mọi biểu hiện dù nhỏ nhất về sự chè chén, về sự tục tĩu, về tất cả những cái đã làm mẹ anh hết sức đau khổ. Và cha anh là tượng trưng cho những cái đó. Anh không chịu được những chữ tục tĩu hay những sự đùa nghịch bất nhã. Tính anh vừa đột ngột vừa dễ mến trong quan hệ với mọi người thường lúc mới tiếp xúc, người ta hay có ấn tượng anh là một người lạnh lùng và quá tin ở mình.
Ấn tượng đầu tiên đó không tồn tại lâu, nhưng có phải lúc nào người ta cũng có dịp gặp nhau một lần thứ hai trong đời để có thể sửa lại những ấn tượng đầu tiên của mình đâu, và Pô-li-nin, cũng như rất nhiều người thành thực khác, thường không được những ai không sống sát hoặc chỉ biết sơ qua về anh ưa anh lắm.
Bè bạn hiểu anh, rất quý anh khi anh ở dưới đất và nhất là khi anh cất cánh, vì anh nhận xét rất đúng sự diễn biến của một trận đánh, và nếu một người nào lâm nạn anh sẽ lao đến cứu không một giây suy nghĩ đắn đo đến sự nguy hiểm cho chính bản thân mình.
Sau khi đi vòng một quãng xa để tránh những đám đất chua mặn, trời mưa, không vượt qua được, chiếc xe băng qua những vùng nước lớn đến sân bay. Sân bay này giống hệt như sân bay ở Tam-xắc Bu-lắc mà Ác-tê-mi-ép đã nhìn thấy: một mầu thảo nguyên, không gì ngăn cách và làm cho khác biệt với cánh đồng phẳng lặng ở chung quanh. Trên đường bay, những chiếc khu trục đậu ngổn ngang không cách xa nhau mấy, trông bé xíu. Một căn lều, mưa làm cho sẫm màu, dựng lên xa xa.
Những giọt mưa xiên chếch đến độ dừng trú dưới cánh máy bay cũng chẳng ăn thua gì. Khi họ đến gần người lính gác ướt sũng, báo cho biết là chiếc xe cuối cùng chở phi công vừa mới khởi bánh và Pô-li-nin suy ra rằng sớm ngày hôm sau thời tiết theo dự đoán vẫn không có gì thay đổi. Anh ra lệnh lái xe đến số 7, chiếc khu trục của anh. Họ đến đó theo đường bay.
Tất cả đều ở trong trật tự hoàn toàn đúng phép.
- Chẳng ai đụng đến số «Bảy» của anh khi anh đi vắng cả - người thợ chuyên môn ngồi trong ca-bin cạnh Pô-li-nin nói, giọng hầu như bực tức - Thế anh không tin ở Ghi-đa-tu-in của anh sao, đồng chí trung tá?
Người thợ chuyên môn phụ trách việc chuyên chở bằng xe hơi, và không trực tiếp đến công việc máy bay, nhưng Ghi-đa-tu-in người thợ máy của Pô-li-nin là bạn anh, nên anh cảm thấy có điều xúc phạm cho Ghi-đa-tu-in.
- Sao anh lại nghĩ là tôi không tin Ghi-đa-tu-in? Tôi rất tin anh ta - Pô-li-nin nói. Nhưng anh vẫn xuống xe và đi quanh chiếc khu trục ba vòng. Anh hoàn toàn tin cậy ở Ghi-đa-tu-in, nên anh ta và coi là người thợ máy khó nhất của đơn vị: lúc này anh chỉ cảm thấy thèm đi chung quanh chiếc máy bay của mình, thế thôi.
Sau khi đã xem xét chiếc khu trục, Pô-li-nin trèo lên ca-bin và ra lệnh cho người lái xe tiếp tục đi. Cách sân bay bốn cây số, trong một kho nhỏ, ngoài mấy chiếc y-uốc-ta, người ta dựng lên hai căn lều nữa và trên bốn chiếc cột trồng xuống trong thảo nguyên một tấm lưới phủ cỏ dùng làm phòng ăn.
Lúc Pô-li-nin và Ác-tê-mi-ép đến, chỗ này đặc biệt trông chẳng có vẻ gì là luyến khách cả. Mưa rơi qua lưới cỏ lốp bốp trên mặt bàn, rơi ầm ĩ trên những thùng xăng và thùng nước, lều và y-uốc-ta trớt sũng đến độ người có thể bảo rằng, không phải mưa mới có một tiếng đồng hồ, mà đã từ một tuần dài dặc rồi.
Pô-li-nin theo sau là Ác-tê-mi-ép, bước vào chiếc y-uốc-ta thứ hai vì mưa nên lỗ cửa trên mái phải đóng lại, ánh sáng hoàng hôn mờ nhạt chỉ lọt vào dưới mảnh bạt vén lên một nửa làm cửa.
- Thế nào, những ngày bệnh viện kết thúc rồi phải không? - Một phi công người lòng khòng nói giọng rất trầm, vừa ở trên một chiếc giường nhỏm dậy và hớn hở lắc tay Pô-li-nin. Anh ta nói tiếng Nga theo giọng U-cơ-ren - Người ta không đợi cậu. Thời tiết như thế này, chúng mình cứ tưởng cậu sẽ ở lại viện.
- Chúng mình đi trước khi mưa, bắt đầu mưa thì đã ở trên đường rồi. Đây là một đồng chí ở trong lục quân. Mình mời đồng chí đại úy ở đây chơi với chúng ta một ngày. Trong bệnh viện, giường chúng mình ở kề nhau.
- Cậu cũng đo giường à? - Người phi công nói giọng riễu cợt - ước gì mình được thấy cảnh lạ ấy!
Ác-tê-mi-ép tự giới thiệu.
- Gơ-rít-xcô - đến lượt anh phi công nói, vừa lắc bàn tay trái của Ác-tê-mi-ép đưa ra bắt tay, mạnh đến nỗi Ác-tê-mi-ép cảm thấy đau nhói ở vết sẹo tay phải.
- Kìa cẩn thận! - Pô-li-nin nói - anh ấy bị thương đấy.
- Xin lỗi nhé - và như để cho ổn thỏa cả, anh xiết nhè nhẹ một lần thứ hai, bàn tay Ác-tê-mi-ép.
- Xô-cô-lốp đâu.
- Mi-sen đang ở chỗ thủ trưởng, Vat-xi-li đi ngủ... đằng kia - Gơ-rít-xcô vừa nói vừa hất đầu chỉ về phía một chiếc giường trên đó một người đang nằm dài.
- Tôi không nhìn thấy - Pô-li-nin nói - Cậu ta có thời giờ ngủ từ bao giờ thế?
- Ngay sau khi về. Cậu ta trầy trật lắm mới vượt được mấy bước chân từ xe đến y-uốc-ta.
- Cậu ta bay đấy à? - Pô-li-nin hỏi khẽ, giọng hơi lạnh lùng
- Phải - Gơ-rít-xcô trả lời, vẻ ngượng nghịu, tay để đằng sau gáy - cậu ta đã bay ba chuyến. Lần đầu, cũng không dễ dàng gì. Nên lúc này lăn ra ngủ thế kia cũng chẳng có gì lạ.
- Tôi đã nói rõ rằng - giọng Pô-li-nin trở nên hoàn toàn lạnh lùng và khó chịu - phải đợi đến lúc tôi về cậu ta mới được bay chuyến đầu tiên với phi đội của tôi cơ mà.
- Cậu ta đến xin phép thủ trưởng và được thủ trưởng đồng ý.
- Được - Pô-li-nin vẫn lạnh lùng, và sau một lát im lặng, anh nói thêm, giọng đã khác hẳn - đề nghị cậu sang chỗ Xi-tin, ở đấy có thừa một chiếc giường, nhờ cậu đem về hộ, còn bọn mình ở nhà sẽ kê những chiếc giường này xích lại với nhau. À, mà khoan đã, còn một việc nữa - anh vừa nói vừa giữ Gơ-rít-xcô lại - thế nào cậu cũng phải tạt qua chỗ phòng ăn, và thu xếp để họ dọn cho chúng mình ăn ở trong y-uốc-ta nhé.
Gơ-rít-xcô đi kiếm giường, trong lúc đó Pô-li-nin cả hai tay, và Ác-tê-mi-ép, một tay trái, bắt đầu kê xích mấy chiếc giường lại gần nhau khắp chung quanh y-uốc-ta. Khi đến lượt chiếc giường trên đó có một phi công đang trùm ca-pốt ngủ, Ác-tê-mi-ép do dự và ngừng lại.
- Không sao - Pô-li-nin nói - hắn không tỉnh dậy đâu. Và nếu có dậy cũng mặc kệ. Chúng tôi mới nhận hắn vào đơn vị có ba ngày, theo một báo cáo của người anh hắn. Tôi đã ra lệnh phải đợi tôi trước khi để hắn xuất trận lần đầu tiên. Người ta đã không làm theo như điều tôi dặn, mà theo ý thích của hắn. Một trận đánh đầu tiên, bao giờ cũng như vậy: khi trở về người ta hỏi phi công xem mọi việc xẩy ra như thế nào, anh ta mù tịt. Anh ta chỉ nhìn phía trước và có nhìn thấy gì ở phía sau đâu; hầu như không có một phi công nào, trong trận đánh đầu tiên lại biết được những chuyện xảy ra đằng phía sau mình. Trừ một vài trường hợp cá biệt ít ỏi lắm, còn thì trong trận đánh, phải đặc biệt chú ý đến những người mới.
- Còn anh, trước kia có ai chú ý đến anh không?
- Không. Cả phi đội chúng tôi cùng tiến hành lễ thử lửa một lần. Chẳng có ai để chú ý theo dõi chúng tôi hết. Và rồi sau thế nào? - Anh nói thêm, mắt ngước nhìn Ác-tê-mi-ép và bực tức - Tôi quay về với mười sáu vết đạn ở buồng máy. Việc đó mới xảy ra một cách khác, thì có phải tốt hơn không? Gơ-rít-xcô đem chiếc giường về. Chỉ còn vừa đủ một khoảng giữa chiếc giường anh phi công đang ngủ và cửa y-uốc-ta.
- Thưa đồng chí trung tá? - Có tiếng gọi ở ngoài.
- Cứ vào.
- Báo cáo đồng chí trung tá - người chiến sĩ nói vừa bước vào và vừa cho tay lên ca-lô - chỉ huy trưởng muốn gặp đồng chí.
Không nói nửa câu, Pô-li-nin khoác áo mưa lên vai, đội ca-lô vào trên chỗ băng bó và đi ra với người chiến sĩ theo sau.
Gơ-rít-xcô nói:
- Chúng tôi chẳng có gì đặc biệt để thết anh cả. Chắc là ngày nào anh cũng ăn thịt cừu.
- Ngày nào cũng vậy.
- Thế thì chiều nay anh lại dùng thịt cừu, chẳng có gì mới. Nhưng để chào mừng trời mưa và chào mừng anh, ta có thể làm một cốc rượu.
- Và nếu tôi không có mặt?
- Điều đó còn tùy. Nói chung, nếu cả ngày công tác không đến nỗi tồi thì trước bữa tối có làm một cốc rượu, Pô-li-nin thấy cũng chẳng nói gì.
- Còn chính anh ta?
- Anh ta ấy à? - Gơ-rít-xcô hỏi lại vẻ ngạc nhiên - Theo tôi thấy thì anh chưa hiểu Pô-li-nin, anh ta là một người xuềnh xoàng. Chỉ khi nào tác chiến anh ta mới đòi hỏi mọi người làm như mình, nhưng một khi chân bước xuống đất, thì chính anh ta lại như người khác.
- Đồng chí đại úy - Ác-tê-mi-ép hỏi - xin cho biết Gơ-rit-xcô là họ hay là tên của đồng chí?
- Vừa là họ mà cũng vừa là tên, Gơ-rít-xcô mỉm cười trả lời. Có lẽ tôi bị một anh cố đạo hà tiện dùng luôn họ đặt tên cho tôi cũng nên. Bạn thân gọi tôi là Gơ-rít-xcô, những người khác họ gọi đồng chí Gơ-rít-xcô. Nếu anh không sợ dài, anh có thể gọi Gơ-ri-gô-ri Mê-phô-đi-ê-vít.
Vừa nói, Gơ-rít-xcô vừa sửa soạn một chiếc đèn bão, lau bóng và trau lại bấc. Cuối cùng anh châm lửa, đặt nó trên chiếc bàn ở giữa y-uốc-ta, lấy ở dưới gối ra hai tờ báo, giải lên trên bàn, quỳ xuống, bò vào gầm giường lấy ra một chiếc phích, hai hộp cá sốt cà chua. Tháo một chiếc dây buộc dao nhíp đeo ở thắt lưng, anh làm nhiệm vụ mở nắp mấy hộp cá. Chắc anh phụ trách việc nội trợ trong y-uốc-ta này, không sai.
- Anh đựng gì trong phích thế? - Ác-tê-mi-ép hỏi.
- Anh thử đoán xem. Chiếc phích này là mẹ tôi làm quà cho khi tôi từ Khéc-xon đi. Đặc biệt dùng vào việc ấy!
- Đặc biệt để đựng rượu à? - Ác-tê-mi-ép mỉm cười.
- Rất đặc biệt để chăm sóc bản thân tôi.
Ngọn lửa bùng lên trong chiếc đèn bão, người ta tức khắc cảm thấy không khí trong y-uốc-ta thoải mái. Những giọt mưa vẫn rơi lốp bốp trên vải lều. Mưa gió chết muỗi, không nghe thấy tiếng muỗi vo ve có vẻ gần như kỳ lạ.
Gơ-rít-xcô tiếp tục kéo ở dưới gầm giường ra đủ các thứ linh tinh: mấy cái cốc, một chiếc ca tráng men, muối và hạt tiêu đựng trong bao diêm. Cuối cùng đến lượt một khúc dồi Mạc-tư-khoa to tướng, lấy trong va-li ra.
Thấy con mắt đầy thiện cảm của Ác-tê-mi-ép chằm chằm nhìn vào khúc dồi Gơ-rít-xcô nói:
- Món này Pô-li-nin thú nhất, với rượu khai vị. Bao giờ anh ta cũng cố dự trữ trong va-li. Tôi còn nhớ là trong bưu kiện nhận được nhân dịp ngày lễ vừa rồi một nữa là xúc-xích, có lẽ cũng là tình cờ, nhưng mà thật đúng lúc... À, người anh của Xô-cô-lốp kia kìa - anh nói tiếp, khi trông thấy một phi công cao lớn, vai rộng, tóc cắt bờm, vẻ mặt trẻ con bướng bỉnh đang đi vào - Hai anh làm quen nhau đi, đây là đồng chí đại úy sẽ ở lại đêm ở đây với chúng ta, đồng chí ấy là khách của trung tá.
Xô-cô-lốp ngồi trên giường. Cứ nhìn nét mặt anh thì biết anh đương có gì muốn nói chuyện với Gơ-rít-xcô nhưng còn do dự không muốn nói trước mặt Ác-tê-mi-ép. Nhưng anh do dự cũng không lâu.
- Thật mình không còn hiểu ra làm sao nữa! Sao chỉ huy trưởng lại có thể tha thứ một việc như thế được?
- Cái gì thế - Gơ-rít-xcô hỏi.
- Cách Ni-cô-la nói với anh ấy khi hắn nổi cáu. Ni-cô-la thưa gửi, và tất cả cái đó bằng một giọng nghi lễ như là hai người từ trước chưa hề gặp nhau bao giờ. Tôi vừa ở chỗ anh ta...
- Anh ta gọi cậu lên làm gì thế? - Gơ-rít-xcô cắt lời.
- À, không anh ấy có gọi mình đâu. Chẳng là anh ấy ốm, đang lên cơn sốt. Và hơn nữa, anh ấy cảm thấy buồn. Mình ngồi chơi, gợi lại những kỷ niệm cũ. Đang lúc ấy thì Ni-cô-la đến cho tay lên mũ: «Báo cáo, có mặt» - Chỉ huy trưởng bảo «Ni-cô-la, cậu lại ngồi đây, và kể cho bọn mình nghe người ta chữa cho cậu ra làm sao». Nhưng Ni-cô-la tiếp tục «Xin phép được hỏi xem đại úy Xô-cô-lốp có báo cho anh biết là tôi đã cấm không cho trung úy Xô-cô-lốp đi làm nhiệm vụ trước khi tôi trở về không». Lẽ dĩ nhiên là mình không nói gì, nhưng chỉ huy trưởng cố dàn xếp «Thôi Ni-cô-la ạ hắn có đi nhưng mọi sự đều trót lọt cả. Chẳng phải trở lại chuyện đó làm gì cho mệt. Ngồi xuống đây». Nhưng Ni-cô-la đáng lẽ ngồi xuống lại cà khịa với mình trước mặt chỉ huy trưởng «Tại sao anh không báo cáo lại đề nghị của tôi? Thế nghĩa là thế nào?» Anh ta nói những cái đó với tôi, nhưng lại nhìn chỉ huy trưởng như là thật ra để nói với anh ấy. Và thế này và thế kia đến nỗi cuối cùng chỉ huy trưởng phải yêu cầu tôi về. Tôi ra khỏi y-uốc-ta vẫn nghe thấy Ni-cô-la chuyển sang một câu hỏi khác, nhưng vẫn tiếp tục cùng một giọng:
- «Anh đã đồng ý với đề nghị của tôi về việc cho bố trí máy bay cách nhau hai trăm thước, đề phòng trường hợp bị ném bom. Tôi đã yêu cầu mọi người thi hành điều đó, theo lệnh của anh, nhưng hôm nay ghé qua sân bay tôi thấy bố trí cách nhau không được đều cả một trăm thước! Phải cắt nghĩa việc đó như thế nào?» - Và cứ như thế, đủ các thứ trên đời! Rồi thế nào anh ta cũng bị lôi thôi cho mà xem, mình bảo đảm với cậu như vậy, thế nào rồi cũng lôi thôi! Mặc dù họ rất thân với nhau và chỉ huy trưởng thật là tốt.
- Anh ấy tốt mất cả phần của Ni-cô-la - Gơ-rít-xcô đột nhiên xẵng giọng nói.
- Sao?
- Rất đơn giản. Từ khi Ni-cô-la làm chỉ huy phó thì bao giờ cũng là Ni-cô-la đòi hỏi và anh ấy tha thứ. Chính vì thế mà Ni-cô-la càu cạu và anh ấy tốt.
- Chỗ này thì cậu đi quá xa rồi đấy - Xô-cô-lốp nóng mặt nói - Lẽ dĩ nhiên là tôi cũng kính trọng Ni-cô-la, nhưng với đại tá tôi biết anh ấy từ ba năm nay rồi.
- Một người cậu kính trọng, và một người cậu quen biết. còn hiểu thế nào được...
- Để mình cắt nghĩa cho cậu nghe - Xô-cô-lốp cắt lời.
- Cho mình ấy à? Chẳng cần. Nếu có nói thì nói với Ni-cô-la ấy.
Ác-tê-mi-ép không được nghe đoạn cuối của cuộc tranh cãi, vì cũng người cần vụ vừa rồi đến tìm Pô-li-nin, lại vào y-uốc-ta và báo với anh rằng chỉ huy trưởng muốn gặp Ác-tê-mi-ép.
Vật thứ nhất đập vào mắt Ác-tê-mi-ép khi anh vừa nhấc tấm bạt cửa để vào trong y-uốc-ta của chỉ huy trưởng là một tấm ảnh ghim vào vách bằng dạ: Na-đi-a.
Giữa căn lều là một chiếc bàn lớn, trên có ghim một tấm bản đồ trải rộng. Pô-li-nin ngồi trên một chiếc ghế bên cạnh bàn, và Cô-xi-ri-ốp nằm trên giường, dưới cả một núi chăn và ca-pốt. Anh bị sốt rét... Từng giọt mồ hôi lớn vã trên trán, mái tóc nhạt màu dính chặt vào thái dương.
- Chào cậu! - Cô-xi-ri-ốp lẩm bẩm vừa khó nhọc chống khuỷu tay ngồi dậy, ngẩng đầu, lúc ấy đang hầm hập cơn sốt. Anh đưa tay cho Ác-tê-mi-ép bắt một bàn tay nóng ran và ốm yếu - Xin lỗi đã cho mời cậu đến dây, nhưng mình tha thiết được nhìn mặt một người bạn cũ như cậu quá. Đáng lẽ mình đến tận nơi đấy, nhưng bị com sốt đóng đinh tại dây. Cậu tha lỗi cho mình nhé.
- Trái lại - Ác-tê-mi-ép trả lời vu vơ, không muốn hoặc cậu cậu mình mình hoặc anh anh tôi tôi với Cô-xi-ri-ốp. Kể ra anh không nói dối hay không nói dối gì lắm. Việc gặp gỡ Cô-xi-ri-ốp thật ra không làm anh sung sướng, nhưng cũng làm anh vui vui. Sự có mặt của anh ta những chỗ này không làm anh ngạc nhiên. Chính những người như Cô-xi-ri-ốp phải có mặt trước những người khác ở Mông-cổ.
- Theo như Pô-li-nin nói, cậu bị thương phải không? - Cô-xi-ri-ốp nói - Có nặng không?
- Cũng chẳng có gì đặc biệt.
- Cậu có nhớ hôm ở tiệm ăn, mình nói với cậu rằng những người như cậu, chưa từng biết chiến tranh, chưa phải là những quân nhân thực sự không? Chẳng phải đợi cũng chẳng phải chuột? Cậu còn nhớ chứ?
- Nhớ lắm.
- Sau đó mình xin lỗi cậu, cậu có nhớ không?
- Đúng thế.
- Cậu thấy không! Thật như thế có nghĩa là mình xin lỗi cậu là đúng, nếu không thì mình thật ngượng với cậu.
- Thế nào, cơn sốt có đỡ không? - Ác-tê-mi-ép hỏi, vẫn chưa quyết định nên gọi Cô-xi-ri-ốp bằng cậu, hay nên anh anh tôi tôi với anh ta.
- Từ mười hôm nay rồi, cứ hai ngày lại dâng một cơn, đúng như đồng hồ. Cứ một hôm mình khỏe mạnh bình thường như tất cả anh em và hôm sau lại rơi vào một tình trạng như thế này đấy!
- Thế còn việc bay?
- Hai hôm mình mới bay một chuyến.
Pô-li-nin vẫn ngồi im lặng cho đến lúc này mới nói:
- Ngày nào cũng bay. Ví dụ như hôm nay.
- À, vì cậu không có nhà.
- Mà anh ta cũng hạ được một tên Nhật - Pô-li-nin tiếp tục như không nghe tiếng - Và người ta phải lấy cáng khênh anh ta từ sân bay về. Buổi sớm, anh đã hạ nhiệt độ ở ống cặp để đánh lừa bác sĩ.
Nghe nói Cô-xi-ri-ốp vui vẻ nháy mắt với Ác-tê-mi-ép, và muốn nói điều gì nhưng Pô-li-nin cắt ngang lời anh vẫn cùng một giọng hằn học bình tĩnh:
- Anh ta hạ tên Nhật đó như thế nào. anh ta cũng chẳng biết. Anh ta đang sốt. Chắc lại một tên lính mới, bay lần đầu tiên tự mình lao vào luồng đạn của anh ta như là anh chàng Vát-xi-li Xô-cô-lốp của chúng ta chẳng hạn.
- Cậu thật khó tính, Ni-cô-la ạ - Cô-xi-ri-ốp thở dài.
Chẳng nói chẳng rằng, Pô-li-nin đứng dậy và đội mũ.
- Cậu đi à.
- Nếu anh cho phép - Pô-li-nin nói.
- Cậu có thể kéo các cậu ấy đến ăn ở đây. Chúng ta sẽ cùng ăn với nhau - Cô-xi-ri-ốp nói, hòa giải.
- Nếu anh cho phép, chúng tôi sẽ tiếp đồng chí Ác-tê-mi-ép ở chỗ chúng tôi. Ở đấy tất cả đã chuẩn bị xong và anh hiện thời, người còn đang nóng thế này cần yên tĩnh và cần ngủ. Tôi sẽ bảo bác sĩ đến. Tôi đã có thể đi được chưa?
Cô-xi-ri-ốp nghiến răng, cố nén vì có Ác-tê-mi-ép ở đấy và chỉ nói một giọng khàn khàn:
- Được.
Vừa đi ra, Pô-li-nin vừa nói với Ác-tê-mi-ép.
- Chúng tôi chờ anh, khi nào anh nói chuyện xong...
- Đó là cậu chỉ huy phó giúp việc mình - Cô-xi-ri-ốp nói khi Pô-li-nin đã đi khỏi - Về phía công tác thì không có gì phải nói nhưng về tính nết thì tệ hết chỗ nói! Ừ, thì mình đã đi, đã hạ một tên, nhưng mình đã trở về. Nhưng nào đã xong, còn phải biện bạch cặn kẽ với hắn.
- Nhưng câu chuyện thật ra như thế nào? - Ác-tê-mi-ép hỏi lại.
- Lẽ dĩ nhiên thật ra, thì cũng chẳng cần thiết, anh em họ cũng có thể tự giải quyết được. Nhưng cậu hãy nghĩ xem! - Cô-xi-ri-ốp lại chống khuỷu tay nhỏm dậy. - Cậu hãy nghĩ xem! Tất cả mọi người đều cất cánh chỉ còn một mình mình nằm đây, như con chó. Nóng quá! Đầu bốc cháy, miệng đắng như ngậm ký ninh, bốn chung quanh muỗi như chấu. Và hơn nữa, mình buồn...
Anh quay đầu và nhìn hồi lâu bức ảnh Na-đi-a treo trên tường, phía đầu giường, vẻ mặt cảm động, rồi quay về phía Ác-tê-mi-ép và đề che giấu sự xúc động, anh nói giọng gần như cầu kinh:
- Vả lại thêm vào đấy mình nhớ cái của nợ Na-đi-a ấy quá! Đấy, lý do tại sao mình đã bay chuyến vừa rồi. Có cần thiết hay không, không cần nói, điều rõ ràng là hiện giờ bớt đi một tên Nhật. Có phải không?
- Đúng như vậy, nhưng cũng có thể xảy ra khác thế.
- Mọi sự đều có thể xảy ra, và người ta vẫn cứ có thể bị hạ, ngay cả với ba mươi sáu độ năm - Cô-xi-ri-ốp nói, với một giọng hết sức thành thật, chứng tỏ một bản chất dũng cảm lớn đến độ khiến Ác-tê-mi-ép nhớ đến mấy phút do dự của mình ngày tham gia trận đánh đầu tiên, với một cảm giác nặng nề.
Cô-xi-ri-ốp thò tay ở dưới chân ra lấy ở trên bàn hai liều ký ninh, để lên lưỡi nuốt với một chút nước, nuốt xong anh nhăn mặt, và nằm ngả phịch trên gối, nom vẻ mệt bã vì mấy cử động đó.
- Mình nhớ Na-đi-a - anh nói, sau một lát im lặng - Chúng mình đã làm lễ cưới, cậu biết không. Anh mở mắt nhìn Ác-tê-mi-ép. Mình cũng có gọi dây nói cho cậu, mình đã hỏi Na-đi-a số dây nói của cậu, định mời cậu đến dự, nhưng bà cụ ở nhà bảo cậu đi rồi.
Ác-tê-mi-ép không trả lời.
Chẳng nói chẳng rằng, Pô-li-nin đứng dậy và đội mũ.
- Cậu đi à.
- Nếu anh cho phép - Pô-li-nin nói.
- Cậu có thể kéo các cậu ấy đến ăn ở đây. Chúng ta sẽ cùng ăn với nhau - Cô-xi-ri-ốp nói, hòa giải.
- Nếu anh cho phép, chúng tôi sẽ tiếp đồng chí Ác-tê-mi-ép ở chỗ chúng tôi. Ở đấy tất cả đã chuẩn bị xong và anh hiện thời, người còn đang nóng thế này cần yên tĩnh và cần ngủ. Tôi sẽ bảo bác sĩ đến. Tôi đã có thể đi được chưa?
Cô-xi-ri-ốp nghiến răng, cố nén vì có Ác-tê-mi-ép ở đấy và chỉ nói một giọng khàn khàn:
- Được.
Vừa đi ra, Pô-li-nin vừa nói với Ác-tê-mi-ép.
- Chúng tôi chờ anh, khi nào anh nói chuyện xong...
- Đó là cậu chỉ huy phó giúp việc mình - Cô-xi-ri-ốp nói khi Pô-li-nin đã đi khỏi - Về phía công tác thì không có gì phải nói nhưng về tính nết thì tệ hết chỗ nói! Ừ, thì mình đã đi, đã hạ một tên, nhưng mình đã trở về. Nhưng nào đã xong, còn phải biện bạch cặn kẽ với hắn.
- Nhưng câu chuyện thật ra như thế nào? - Ác-tê-mi-ép hỏi lại.
- Lẽ dĩ nhiên thật ra, thì cũng chẳng cần thiết, anh em họ cũng có thể tự giải quyết được. Nhưng cậu hãy nghĩ xem! - Cô-xi-ri-ốp lại chống khuỷu tay nhỏm dậy. - Cậu hãy nghĩ xem! Tất cả mọi người đều cất cánh chỉ còn một mình mình nằm đây, như con chó. Nóng quá! Đầu bốc cháy, miệng đắng như ngậm ký ninh, bốn chung quanh muỗi như chấu. Và hơn nữa, mình buồn...
Anh quay đầu và nhìn hồi lâu bức ảnh Na-đi-a treo trên tường, phía đầu giường, vẻ mặt cảm động, rồi quay về phía Ác-tê-mi-ép và đề che giấu sự xúc động, anh nói giọng gần như cầu kinh:
- Vả lại thêm vào đấy mình nhớ cái của nợ Na-đi-a ấy quá! Đấy, lý do tại sao mình đã bay chuyến vừa rồi. Có cần thiết hay không, không cần nói, điều rõ ràng là hiện giờ bớt đi một tên Nhật. Có phải không?
- Đúng như vậy, nhưng cũng có thể xảy ra khác thế.
- Mọi sự đều có thể xảy ra, và người ta vẫn cứ có thể bị hạ, ngay cả với ba mươi sáu độ năm - Cô-xi-ri-ốp nói, với một giọng hết sức thành thật, chứng tỏ một bản chất dũng cảm lớn đến độ khiến Ác-tê-mi-ép nhớ đến mấy phút do dự của mình ngày tham gia trận đánh đầu tiên, với một cảm giác nặng nề.
Cô-xi-ri-ốp thò tay ở dưới chân ra lấy ở trên bàn hai liều ký ninh, để lên lưỡi nuốt với một chút nước, nuốt xong anh nhăn mặt, và nằm ngả phịch trên gối, nom vẻ mệt bã vì mấy cử động đó.
- Mình nhớ Na-đi-a - anh nói, sau một lát im lặng - Chúng mình đã làm lễ cưới, cậu biết không. Anh mở mắt nhìn Ác-tê-mi-ép. Mình cũng có gọi dây nói cho cậu, mình đã hỏi Na-đi-a số dây nói của cậu, định mời cậu đến dự, nhưng bà cụ ở nhà bảo cậu đi rồi.
Ác-tê-mi-ép không trả lời.
Cô-xi-ri-ốp cũng đã nhiều lần tỏ ra thô lỗ và anh biết rằng mọi người chung quanh anh cũng đã quen, và vì những phía tốt của anh họ không chấp và còn tha thứ cho anh nữa. Nhưng lần này anh cũng hiểu là mình đã đi quá, và anh cảm thấy xấu hổ. «Ngày mai mình sẽ mời lão ta đến và việc gì đó và nhân tiện mình sẽ xin lỗi lão ta», anh nghĩ bụng như thế nhưng vẫn ngại nếu bác sĩ còn nói nữa, anh sẽ không thể tránh được không thốt ra một lời nói cục cằn khác. Nhưng bác sĩ không nói gì; anh ta quay đi châm thuốc hút.
Cô-xi-ri-ốp nhắm mắt và cố gắng khắc phục cơn sốt và sắp xếp lại trật tự trong đầu, anh nghĩ đến chuyện vừa xảy ra với Pô-li-nin. Hai người giận nhau, điều đó không còn nghi ngờ gì nữa. Anh đã cố nhịn đi không nói với Pô-li-nin dù chỉ là một trong những lời anh đã cảm thấy thập thò ở đầu lưỡi, anh biết rất rõ Pô-li-nin còn lâu mới có thể tha thứ cho anh về việc đã phớt hai mệnh lệnh của anh ta, nhất là vì anh ta đúng. Cô-xi-ri-ốp cũng biết rõ như thế. Bây giờ Pô-li-nin sẽ cứ khăng khăng nhất định gọi anh là «ông» và dừng đủ các thứ câu nghi thức hành chính, chừng nào mà anh còn chưa nhận những sai lầm của mình, ít nhất giữa hai người với nhau.
Pô-li-nin cũng bận trí về những ý nghĩ tương tự như Cô-xi-ri-ốp, trong suốt bữa ăn, cứ lầm lì không nói một câu, vẻ mặt căng thẳng, trong bụng tin chắc là mình đúng. Lúc ở sân bay khi nhìn thấy những chiếc phi cơ xếp quá gần nhau, nết vui tính của anh đã thấy giảm bớt đi, còn đến lúc này nó hoàn toàn bị dìm chết hẳn, và nếu không có khách anh sẽ đi ngủ không đụng đến bữa ăn.
Ác-tê-mi-ép cũng không phải không có lý do để không muốn nói chuyện. Cô-xi-ri-ốp không gây cho anh một cảm giác hằn học gì, nhưng lúc này dù sao anh cũng tự nói với mình rằng số phận rất có thể miễn cho anh một cuộc đi thăm đúng vào đội không quân này.
Xô-cô-lốp anh vẫn còn tức Pô-li-nin vì đã khiển trách anh ngay trước mặt đồng chí chỉ huy trưởng, nhưng bản chất thẳng thắn và ngay thật của anh không giữ kín điều gì trong bụng, và khi Pô-li-nin trở về, anh nói hết ý nghĩ của mình. Pô-li-nin im lặng nghe và không trả lời vì vừa hay lúc đó Ác-tê-mi-ép bước vào và tất cả ngồi vào bàn ăn. Xô-cô-lốp, vừa nói với Pô-li-nin mấy lời quá tàn nhẫn mà chưa thấy trả lời, nên cũng cảm thấy không được thoải mái và cố lấy lòng Pô-li-nin bằng cách đẩy gần về phía anh chiếc phích, một khúc dồi và đĩa đùi cừu.
Vào lúc giữa chừng bữa ăn, Xô-cô-lốp em, một trung úy rất trẻ, tỉnh dậy và cũng nhập bàn, khuôn mặt trẻ măng xinh đẹp còn ngái ngủ. Pô-li-nin im lặng khiến anh cảm thấy nặng trĩu. Mặc dù tự biết mình có lỗi, anh vẫn hồi hộp chờ đợi một người nào đó nói về sự kiện lớn lao của đời anh, về trận không chiến đầu tiên của anh. Nhiều lần, mặt đỏ bừng, anh đã suýt buột mồm nói, nhưng đến phút cuối cùng, lại không đủ can đảm.
Bữa ăn không hào hứng lắm, mặc dù mỗi người lúc đầu đã uống một cốc rượu, và sau lại uống nửa cốc nữa. Chỉ có một mình Gơ-rít-xcô là nói nhiều, không phải vì anh là người hay nói, nhưng vì anh muốn dàn xếp mọi sự như bất cứ ai có ý thức về tình đồng chí cũng phải làm trong những trường hợp tương tự.
Cuối cùng sau gần một tiếng đồng hồ khi phích rượu đã cạn và xúc-xích lẫn đùi cừu cũng hết, Pô-li-nin nói:
- Nói thật ra chúng mình không tìm được cách gì cho vui, phải không đồng chí đại úy? Thành thật ra anh nghĩ thế nào?
- Nói thật thì cũng không được vui cho lắm - Ác-tê-mi-ép trả lời.
- Chính tôi hôm nay đã làm hỏng cả - Pô-li-nin nói - hay đúng hơn, người ta đã làm khổ tôi trước, và rồi tôi, tôi cũng không đừng được, tôi lại làm khổ người khác. Thế cũng chẳng sao - anh nói như để xin lỗi Ác-tê-mi-ép - về mọi chuyện đó, ngày mai, ở sân bay sẽ khác. Nếu tôi không lầm, thì ngày mai sẽ tốt trời. Anh đi xem đồ biểu xem - Suốt cả buổi tối, đây là những lời đầu tiên Pô-li-nin nói với Xô-cô-lốp em. Sung sướng vì thấy Pô-li-nin đã đổi giận làm lành và cuối cùng đã nói với mình, mặc dù đó là một mệnh lệnh, Xô-cô-lốp em nhỏm phắt dậy và đi ra khỏi y-uốc-ta.
- Còn về phần cậu - Pô-li-nin nói với Xô-cô-lốp anh khi người em đã đi khỏi - cậu cứ khăng khăng làm theo ỷ mình chẳng chịu nghe ai cả, nhưng cận không được quên rằng cậu chỉ có một đứa em, không có hai. Mình cho rằng cần phải quan tâm đến em mình hơn là đến lòng kiêu ngạo của mình, nhất là khi sự kiêu ngạo ấy lại ngu ngốc. Còn những lời thô bỉ của cậu, mình đét cần, mình đã quên rồi. Thôi ta cạn cốc chúc cậu sức khỏe!
Pô-li-nin cạn ngụm rượu còn lại trong cốc. Xô-cô-lốp hớn hở, mặt rạng lên. Anh vừa định nói thì em anh về nói rằng đúng là đồ biểu báo tin tốt trời nhưng ngay như không có đồ biểu cũng có thể báo đảm là sẽ nắng, nền trời vằng vặc không thiếu một vì sao. Pô-li-nin nói:
- Nếu vậy, ta đi ngủ thôi. Chúng ta chỉ còn bốn tiếng đồng hồ.
Bạn Chiến Đấu Bạn Chiến Đấu - Công-Stăng-Tanh Xi-Mô-Nốp Bạn Chiến Đấu