Làm tốt thì tốt hơn là nói giỏi.

Benlamin Franklin

 
 
 
 
 
Tác giả: Jean Pouget
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: Nous Étions À Diên Biên Phu
Dịch giả: Lê Kim
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: hoang viet
Số chương: 11
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1365 / 33
Cập nhật: 2016-01-06 15:22:18 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần II: Phụ Lục
TÊN CÁC VỊ TRÍ QUÂN SỰ THEO CÁCH GỌI CỦA PHÁP VÀ CỦA VIỆT NAM
Khi tiến hành cấu trúc các vị trí trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, phía Pháp đặt tên theo thứ tự vần chữ cái A, B, C... tương ứng với thời điểm xây dựng.
Phía Việt Nam gọi theo địa danh sẵn có hoặc đánh số, cũng có những cứ điểm của Pháp ta không ghi số hiệu mà chỉ đánh dấu trên bản đồ.
Nhìn chung, có thể đối chiếu tên gọi các cụm cứ điểm ở Điện Biên Phủ theo cách gọi của Pháp và của Việt Nam như sau:
Anne Marie: cụm cứ điểm đầu tiên được xây dựng ngay sau khi Pháp nhảy dù xuống cánh đồng Mường Thanh, gồm điểm tựa. Ta gọi là Bản Kéo như cách gọi của đồng bào địa phương.
Béatrice gồm 3 cứ điểm sát đường 41 từ Sơn La, Tuần Giáo đi vào Điện Biên. Ta gọi là Him Lam. Đồng bào dân tộc Thái còn gọi là Hin Đăm, có nghĩa là bản (hoặc đồi) Đá Đen.
Claudine gồm 5 cứ điểm thuộc phân khu Trung tâm gần sở chỉ huy của De Castries. Ta gọi Claudine 5 là vị trí 310.
Dominique gồm 6 cứ điểm trên dãy đồi phía Đông. Ta gọi Dominique 1 là đồi E1, Dominique 2 là D1, Dominique 8 là 505, Dominique 4 là 505A, Dominique 5 là D3, Dominique 6 là D2.
Eliane gồm các cứ điểm nằm cùng trên dãy đồi phía Đông. Ta gọi Eliane 1 là đồi C1, Eliane 2 là A1, Eliane 3 là A3, Eliane 4 là C2, Ellane 10 là đồi 506 và 507, Eliane 11 là 508, Eliane 12 là 509.
Epervier là khu vực có sở chỉ huy của De Castries, vị trí này không mang tên thiếu nữ, cũng không mang tên hoa, mà có nghĩa là "chim cắt".
Françoise gồm 1 cứ điểm gần sở chỉ huy trung tâm. Dân địa phương gọi là Càng Na, ta gọi là vị trí 318.
Gabrielle gồm 3 điểm tựa bố trí trên một quả đồi bên cạnh đường cái từ Lai Châu xuống Điện Biên Phủ. Vì đây là một quả đồi đứng trơ trọi một mình nên ta gọi là đồi Độc Lập. Quả đồi hình thuôn dài, lính Pháp gọi là "tàu phóng lôi" (Torpilleur).
Vị trí này do Tổng tư lệnh Navarre chỉ thị xây dựng ngày 17 tháng 12 năm 1953 sau một loạt các vị trí trên, cho nên tuy cùng nằm trong phận khu Bắc với Anne Marie (vần A) và Béatrice (vần B) nhưng lại gọi theo vần G.
Huguette gồm 7 cứ điểm vây quanh sân bay. Ta gọi Huguette 1 là vị trí 206. Huguette 2 là 208. Huguette 4 là 311B, Huguette 5 là 311A, Huguette 6 là 105, Huguette 7 là 106.
Isabelle gồm 5 cứ điểm thuộc phân khu Nam. Ta gọi theo địa danh sẵn có là Hồng Cúm.
Junon gồm 3 cứ điểm sát gần cụm Claudine, bảo vệ cho sở chỉ huy của De Castries ở mặt Nam. Ta chỉ đánh dấu trên bản đồ.
Lily gồm 2 cứ điểm ở phía Tây Nam sở chỉ huy của De Castries, mãi tới tháng 4 năm 1954 sau khi ta đánh lớn mới bắt đầu được xây dựng.
Vì vậy, ta chỉ đánh dấu trên bản đồ mà không ghi số hiệu.
Như vậy là toàn bộ các cứ điểm của Pháp được sắp xếp theo thứ tự từ vần A đến vần L, không có vần K.
Ngoài các tên gọi chính thức như trên, Marcel Bigeard còn đặt tên cho hai quả đồi vô danh, nơi ta đặt pháo 75 mm bắn vào khu Trung tâm của địch quả đồi thứ nhất là Mont Chauve, tức "núi Hói" (núi trọc) vì trên đỉnh trụi hết cây cỏ như người hói đầu, chiến sĩ ta gọi là đồi Mâm xôi; quả đồi thứ hai là Mont Fictif tức "Núi Giả", là nơi ta thường nghi binh cho nổ bộc phá làm giả trận dịa pháo để đánh lừa địch.
Người dịch
Tướng Navarre Với Trận Điện Biên Phủ Tướng Navarre Với Trận Điện Biên Phủ - Jean Pouget Tướng Navarre Với Trận Điện Biên Phủ