Số lần đọc/download: 1025 / 8
Cập nhật: 2016-03-20 21:01:46 +0700
Chương 10
L
ewis! Thằng khốn nạn này! Thằng già bẩn thỉu này! Cái thằng khốn khắp người toàn mùi formaldehyde tâm hồn khô khan này!” Những lời này không phải tôi nói ra. Mặc dù tôi rất muốn. Vào rất nhiều lần. Đó là bạn cha tôi, bác G – một người đàn ông mập tròn mặc quần jean màu vàng, áo len đỏ và đeo kính đen.
Ông là một sử gia tên tuổi lẫy lừng chẳng kém gì ngôi sao nhạc rock. Thật là nghịch hợp, nhưng đúng như vậy. Ông viết một cuốn sách về cách mạng Pháp thuộc hàng siêu phẩm. Nó giành hết phần lớn các giải thưởng. Kênh BBC làm cả một xêri phim dựa theo những gì cuốn sách viết. Đạo diễn Lý An thì đang làm phim điện ảnh.
Bác G và cha tôi gặp nhau ở Stanford khi họ là nghiên cứu sinh. Tên thật của bác là Guillaume Lenôtre, nhưng bố gọi bác là G vì lần đầu tiên họ gặp nhau, bố gọi bác là Gwillomay. Rồi Geeyoom. Và rồi bác G rút ngắn tên mình lại chỉ còn chữ cái đầu tiên. Bác G nói tiếng Pháp với chúng tôi.
Ở đây cha tôi và tôi nói tiếng Pháp. Tôi học tiếng Pháp khi còn nhỏ. Cha tôi vẫn đang học. “Ối giời ơi! Ai thế này…” Mắt bác G nhìn xuống chiếc áo jacket da, đống kim loại và tóc tôi. Giọng vui vẻ của ông xịu đi. “…cô gái Visigoth quá đã này? Andi bé bỏng của bác đây ư? Lớn tướng và trang bị sẵn sàng để chiến đấu với lính Roma.” “Và cắn cấu bất kỳ ai,” cha tôi nói.
“Vào đi! Vào đi!” bác G nói. “Lili đang đợi hai người.” Ông dẫn chúng tôi qua cửa, khóa lại rồi đưa chúng tôi vào sân trong dải ánh sáng mờ mờ đầy những thứ phế thải kiến trúc – cột đá hoa cương, đèn đường, vòi phun nước, máng ăn cho xe ngựa, hàng chục bức tượng không đầu.
“Bố có chắc đúng địa chỉ này không thế?” Tôi đã hỏi bố khi xe dừng lại bên ngoài nhà. Người ta chở chúng tôi tới quận St. Antoine, ở rìa phía Đông thành phố, một nơi chả ai biết là đâu. Tôi nhìn ra ngoài cửa xe và tất cả những gì tôi thấy là hai cái cửa sắt khổng lồ bên sườn bức tường đá cao chất ngất.
Trên đó phủ đầy những tranh vẽ grafiti và những bức poster rách nát quảng cáo các chương trình đua xe và câu lạc bộ thoát y vũ. Nơi này trông như bị bỏ hoang. Phía bên kia đường có một cửa hàng bán mỹ phẩm dưỡng da, một quán cà phê Hy Lạp tồi tàn, và một nơi sản xuất ống dẫn nhiệt.
Hết. “Số 18 Rue Saint-Jean. Bố chắc chắn là đây,” bố nói khi ông trả tiền cho tài xế. “Bác G bảo bố nó là một nhà máy đồ nội thất cũ. Bác bảo mới mua chỗ này vài tháng trước.” Bố tìm được cái nút bấm chuông bạc phếch treo lơ lửng trên dây và nhấn vào, vài phút sau bác G mở cái cửa nhỏ xíu trên một cái cửa sắt khổng lồ và hôn hai bố con tôi trên đường.
“Trông nơi này như chỗ tận cùng thế giới vậy,” lúc này bố nói. “Như thể là phim trường cho một bộ phim ngày tận thế.” “Nơi này là tận cùng thế giới, bạn của tôi ạ! Thế giới thế kỷ mười tám. Lối này!” Bác G nói, dẫn chúng tôi vào trong một tòa nhà cao bằng đá. “Đi thẳng lên cầu thang.
Nào, nào, nào!” Ông tất tả đi trước. Tầng trệt là một căn phòng rộng thênh thang, đầy những hộp với rọ. Một con đường hẹp chạy ở giữa. Tôi phải cẩn thận để không va phải thứ gì trên đường đi. “Chỗ này vẫn chưa sắp xếp gì,” bác G nói, vỗ vào một cái thùng. “Tầng hai thì ngăn nắp hơn,” ông nói thêm.
“Tất cả những thứ này là cái gì thế?” bố hỏi. “Những khúc xương của Paris ngày xưa, bạn của tôi ạ! Những bóng ma của Cách mạng!” Bố dừng sững lại. “Cậu đang đùa tôi đấy hả. Tất cả chỗ này là của cậu? Tôi tưởng cậu chỉ có vài hộp đồ thôi.” Bác G cũng dừng lại.
“Tôi có mười bốn phòng đựng đồ, tất cả đều chất đầy tận nóc, và nơi này mới được rao bán một năm trước và ngay lập tức tôi biết nó sẽ là chỗ hoàn hảo. Vì thế tôi mua và chuyển toàn bộ bộ sưu tập về đây. Giờ tôi có nhà tài trợ rồi, cậu biết rồi đấy. Sáu công ty Pháp và hai công ty Mỹ.
Hai năm – nhiều nhất là ba – và bọn tôi sẽ khởi công.” “Làm cái gì?” tôi hỏi, tự hỏi không biết bác định làm gì với tất cả cái đống này. “Làm bảo tàng, cháu gái của bác ạ! Một viện bảo tàng về Cách mạng. Ở đây trong cái nhà máy cũ này.” “Ở đây á?” bố tôi nghi ngờ nói, nhìn chỗ cửa sổ nứt toác, những thanh gỗ mục ruỗng.
“Thì dĩ nhiên rồi. Còn ở đâu được nữa?” “Có lẽ là trung tâm Paris chăng? Nơi có khách du lịch ấy?” Tôi gợi ý. “Không, không, không! Nó phải ở đây, St. Antoine!” bác G nói. “Đây là khu phố của công nhân, ngay trung tâm của cách mạng. Từ đây những cơn giận dữ, máu và sức lực đã thúc đẩy cuộc tranh đấu.
Danton tranh cãi là ở Hội đồng. Desmoulins thì gào lên bảo Cung điện Hoàng gia. Nhưng khi các nhà chính trị cần một việc được thực hiện, thì họ kêu gọi ai? Kêu gọi những cơn thịnh nộ ở St. Antoine! Các công nhân nhà máy, những người bán thịt, các bà bán cá và thợ giặt. Những con người nghèo đói tức giận khổ sở.
Và vì vậy bảo tàng phải ở đây. Nơi đây, nơi những con người đó sống, tranh đấu, và chết.” Đây là cách bác G nói chuyện. Lúc nào cũng vậy. Ngay cả khi bác không quay phim cho BBC. Bố đẩy bác qua một bên để nhìn rõ hơn một thứ ở sau lưng bác. “Đây có phải là thứ mà tôi nghĩ không thế?” ông nói, lật rìa tấm vải dầu lên.
“Nếu cậu nghĩ nó là chiếc máy chém thì đúng rồi đấy,” bác G nói, quẳng tấm vải dầu ra sau. “Nó được tìm thấy vài năm trước trong một kho chứa đồ cũ. Tớ phải may mắn lắm mới mua được nó đấy. Chỉ còn lại vài cái từ thế kỷ mười tám. Nhìn xem thiết kế tiện lợi thế nào này – một chút gỗ, một lưỡi dao bén, thế thôi.
Hồi chế độ cũ, quý tộc bị kết tội chết là bị chém đầu. Thường dân thì treo cổ – đau đớn hơn nhiều. Những người làm cách mạng mong muốn sự công bằng ở tất cả mọi chuyện – ngay cả trong cái chết. Ăn mày, thợ rèn, hầu tước – dù địa vị thế nào, tất cả kẻ thù của nền cộng hòa đều gặp một kết cục như nhau.
Cái này được coi là nhanh và nhân đạo. Nhìn riêng cái này thôi là thấy có vẻ như nó đã được sử dụng khá nhiều. Cậu thấy không?” Bác chỉ ra phía trước cỗ máy. Thanh gỗ bên dưới nơi đặt đầu nạn nhân bị chặt có màu nâu rỉ sét. Nhìn nó, tôi tự hỏi liệu những người bị cái máy này chặt đầu có coi cái chết của họ là nhanh chóng và nhân đạo không.
“Ở đỉnh cao cách mạng, hàng trăm người đã bị chém chỉ ở Paris thôi,” bác nói. “Nhiều người chỉ bị buộc tội mà không có được một phiên tòa tử tế. Máu chảy thành dòng. Chính xác là như vậy đấy. Việc xử tử là một cảnh tượng hoành tráng. Những người đến xem tìm những chỗ để nhìn thấy rõ nhất, và…” “Guillaume!” một giọng gọi lên từ chỗ nào đó bên trên chúng tôi.
“Thôi giảng bài mà đưa khách lên lầu đi. Họ mệt và đói rồi!” Đó là Lili, vợ của bác G. Tôi nhận ra giọng cô. “Lên ngay đây, tình yêu của anh!” Bác G hét đáp lại. Chúng tôi đi lên tầng hai. Bác G mở các thứ trong thùng và hộp khi chúng tôi đi qua. Bác chỉ cho chúng tôi cờ cách mạng, một biểu ngữ lớn có dòng Nhân quyền in trên đó, và một huy hiệu hình hoa hồng đỏ, bị xuyên qua và có máu nhỏ, ở ngay chính giữa.
“Cái này có từ hồi thế kỷ mười lăm,” ông nói. Nó là huy hiệu của bá tước xứ Auvergne. Nó treo trong lâu đài của gia đình cho tới khi Cách mạng bùng nổ, khi vị bá tước cuối cùng và vợ của ông bị đưa lên máy chém vì đã bảo vệ đức vua. “Từ máu hoa hồng, lili mọc lên,” tiếng Latinh nói vậy.
Cậu thấy không? Bông hoa hồng này nhỏ máu của nó lên hoa ly trắng, biểu tượng của nhà vua nước Pháp. Những bá tước hùng mạnh xứ Auvergne luôn trung thành với nhà vua, chiến đấu vì họ, và đôi khi bỏ mạng vì họ.” Chúng tôi đã đi qua tầng ba – là studio của cô Lili – đến tầng bốn, nồng nặc mùi tỏi, gà, và củi cháy.
Cô Lili đứng đợi chúng tôi ở chiếu nghỉ. Cô hôn chúng tôi, và khi bố tôi và bác G vào trong, cô lại hôn tôi và ôm tôi thật chặt. Tôi ôm cô. Cô mặc hai chiếc áo len nhàu nhĩ. Mái tóc đen của cô xám đi vì bụi đá hoa cương. Cô đưa chúng tôi vào nhà – một căn phòng lớn ở tầng trên cùng của nhà máy cũ.
“Cô rất vui khi bố Lewis của cháu gọi báo là cháu sẽ đi cùng!” cô nói. “Bố cháu bảo cháu sẽ làm một công trình nghiên cứu khi ở đây. Thích nhỉ!” “Vâng. Thích lắm ạ,” tôi nói dối. Cô hỏi thăm mẹ tôi, và khi tôi kể chuyện xảy ra, mắt cô ngấn nước. Họ là bạn cùng phòng hồi còn học ở Sorbonne, cô Lili và mẹ tôi.
Cô đưa mẹ tôi tới một bữa tiệc tại căn hộ của bác G. Cha tôi cũng ở đó. Bố mẹ tôi gặp nhau như thế. Tôi biết cô Lili và bác G từ khi còn đỏ hỏn. “Ôi, Marianne khốn khổ tội nghiệp,” cô nói. Cô dùng tay áo lau mắt và lại ôm tôi. Người cô đầy mùi thức ăn và nước hoa. Hadrien.
Mẹ tôi cũng dùng loại nước hoa này. Bà cũng thường nấu nướng, như cô Lili. Nhà tôi từng có mùi tỏi và húng tây, thay vì nỗi buồn. Cô Lili hỏi tôi thế nào và tôi bảo cô tôi khỏe. Cô ôm mặt tôi bằng đôi bàn tay nhà điêu khắc mạnh mẽ của mình và nói, “Cháu thực sự thế nào?” “Cháu ổn mà, cô Lili.
Thật đấy,” tôi lại nói, cố nặn ra một nụ cười. Tôi không muốn khơi ra chuyện. Tôi không muốn khóc lóc ở nhà cô. Chuyến đi đã khiến tôi mệt mỏi và mụ mẫm và tôi muốn cứ để yên như thế. Như thế dễ dàng hơn. Tôi hỏi cô để áo khoác ở đâu. Cô bảo là tôi cứ mặc áo. Lò sưởi điện thì thất thường mà lò sưởi thường cũng chả ấm gì mấy.
Cô bảo còn một tiếng nữa mới tới bữa tối, rồi đưa cho tôi một cái khay có ly và một chai rượu. Tôi lại chỗ bố và bác G, hai người đang ngồi cách cái bếp mấy mét tại một bàn gỗ dài. Tôi rót rượu cho họ nhưng họ mải xem giấy tờ và ảnh iếc không buồn nhìn lên. “Quỹ chỉ cho phép chúng ta một mẩu nhỏ xíu để xét nghiệm,” bác G nói với bố tôi.
“Chỉ một chút xíu thôi. Tổng cộng khoảng một gram.” “Một gram cho ba phòng thí nghiệm á?” bố tôi hỏi, trông quan ngại. “Brinkmann và Cassiman đồng ý với việc này chứ?” “Họ buộc phải đồng ý. Nhận được thế nào thì làm thế đó thôi. Không nhiều hơn.” Bố không kể cho tôi nhiều lắm về công việc ông đang làm.
Chỉ biết là bác G có liên quan tới tổ chức Sử học gì đó và ông gọi bố tới Paris để làm vài xét nghiệm DNA cho họ. Nếu bạn hỏi tôi thì chuyện này như kiểu dùng dao mổ trâu để giết ruồi. Như thể yêu cầu Stephen Hawking giải thích một cái ròng rọc hoạt động như thế nào. Bác G và bố tiếp tục nói chuyện công việc, vì vậy tôi đi quanh xem căn phòng.
Khi nhìn quanh, tôi thấy phải cẩn thận đi lại giữa đống thùng với hộp, khỉ nhồi bông, manơcanh, một bộ sưu tập súng hỏa mai dựng thẳng đứng trong một cái thùng cũ, và một cái mặt đồng hồ khổng lồ. Tôi nhìn thấy một vòng hoa làm bằng tóc, những biển hiệu cửa hàng, nhãn cầu bằng thủy tinh, và một hộp bằng các tông được buộc bằng một sợi ruy băng.
Những lá thư cuối cùng của tử tù, 1973 được viết trên hộp bằng kiểu chữ ngày xưa. Tôi mở hộp và cẩn thận lấy một lá thư ra. Giấy mỏng tang. Chữ viết tay rất khó đọc. Tiếng Pháp cổ cũng rất khó hiểu. Xin vĩnh biệt, vợ và các con. Xin hãy yêu thương các con tôi, nói với chúng tôi từng là người như thế nào, hãy yêu chúng hộ cả tôi nữa… Đời tôi kết thúc vào ngày hôm nay… Tôi nhặt một lá khác lên: Chiếc ga trải cuối cùng thì bẩn thỉu, tất bốc mùi, quần mòn xơ cả sợi vải.
Anh chết vì đói và buồn chán… Anh sẽ không viết cho em nữa, thế giới thật bỉ ổi. Vĩnh biệt! Và lá thứ ba: Cha không biết, người bạn nhỏ của cha ạ, liệu cha có được gặp con hay viết cho con nữa hay không. Hãy nhớ mẹ của con… Vĩnh biệt, con yêu dấu… Rồi sẽ đến lúc con đủ lớn để hiểu được cha đã phải cố gắng đến mức nào vào lúc này để không khóc òa lên khi nhớ đến con.
Cha mãi mãi thương nhớ con. Vĩnh biệt… Chúa ơi, tôi thật là một kẻ vô công rồi nghề. Tôi không thể đọc thêm nữa, vì vậy tôi bỏ thư xuống, đóng hộp lại, và tiếp tục dò dẫm xung quanh. Có một cái máy chém đồ chơi ở trên sàn, đầy đủ đao phủ, nạn nhân, và cái đầu làm bằng giấy bồi của nạn nhân kinh hoảng nhìn lên từ một cái rọ bằng liễu đan nhỏ xíu.
Một đôi giày lụa màu xanh có đính hạt cườm nằm trên một cái giá. Những biểu ngữ đỏ, trắng, và xanh, đã phai màu và rách nát, chăng trên tường. Trên đó có các dòng chữ Tự do, Bình đẳng, Bác ái, và Nền cộng hòa muôn năm. Đàn ông và phụ nữ với mái tóc rắc phấn nhìn tôi từ trong những bức tranh mạ vàng.
Có một bức tranh vẽ cảnh xử tử vua Louis XVI và một hình hoạt họa trông rất kinh khủng vẽ một người treo cổ trên một cái đèn đường, chân ông ta đá vào không khí. Kẻ phản bội Nhảy điệu Carmagnole, dòng chữ viết hoa đề. Những cuốn sách cũ chất thành chồng trên bàn ghế. Một cái xương sọ nhe răng cười từ trên nóc tủ búp phê.
Những vật này không im lặng. Chúng chộn rộn. Nhìn chúng thôi mà tôi có thể thấy những bà bán cá của Paris đang kéo tới cung điện Versailles, ca hát, nhổ nước bọt và gào thét đòi bánh mì. Tôi có thể nghe thấy tiếng đám đông hò reo cổ vũ khi vua bị xử tử và máu nhỏ xuống từ cổ ông ta.
Tôi với lên và chạm vào mép một tờ biểu ngữ đã rách tơi tả và ước gì giá mình đừng có làm thế. Nó khô khốc và đầy bụi, như tro tàn và những cái xương cũ. Có cảm giác như nó dễ truyền nhiễm. Tôi muốn tránh xa những thứ này nhưng không thể; chúng ở khắp mọi nơi. Tôi quay lại bàn, vấp phải cái gì đó, và ngã vào một cái thùng, đầu gối đập xuống.
Không ai để ý. Cô Lili đang nấu ăn. Bố và bác G thì vẫn bàn bạc công việc và không để ý gì dù cho trần nhà có sập xuống đi nữa. Tôi lồm cồm đứng dậy, xoa xoa đầu gối, và rồi tôi thấy thứ tôi đã vấp phải – một cái thùng gỗ dài – loại đựng đàn guitar. Trên mặt thùng có những hoa văn hình xoáy ốc, hình những chiếc lá và dây leo, nhưng nhiều miếng chạm khảm không còn nữa, chiếc thùng ố bẩn và xỉn màu.
Một sợi dây da buộc quanh nó. Tôi cúi xuống bằng bên đầu gối không bị đau và thấy rằng cái hộp không đóng kín. Cây gậy chống hộp đàn bị kẹt ở cuối thùng. Tôi tháo sợi dây da, mở nắp hộp ra, và há hốc mồm vì đột nhiên nhìn thấy chiếc đàn guitar đẹp nhất trên đời. Nó làm bằng gỗ hồng sắc và gỗ vân sam với cổ đàn bằng gỗ mun.
Hình hoa hồng và hoa văn trang trí bên rìa được chạm trổ bằng bạc, ngà voi, và xà cừ. Tôi khẽ chạm vào nó. Lướt ngón tay trên bề mặt gỗ. Vuốt mép ngoài. Tôi búng sợi dây và hai sợi đứt. “Ồ! Cháu đã tìm thấy cây đàn!” bác G nói, nhìn lên từ đống giấy tờ. “Cháu… thành thực xin lỗi, bác G,” tôi lúng búng.
“Lẽ ra cháu không nên chạm vào nó.” “Vớ vẩn! Nó rất tuyệt phải không nào?” bác vừa nói vừa tiến lại chỗ tôi. “Nó là một cây Vinaccia. Cháu có nhìn thấy cái tên trong hộp không? Nó được làm ở Ý hồi cuối những năm 1700. Cực kỳ hiếm. Mà cũng rất đắt. Cái khóa bằng bạc.
Tiếc là nó bị kẹt rồi. Có lẽ là bụi biếc gì đó chui vào bên trong. Vua Louis XVI sở hữu một chiếc đàn thế này đấy. Có tranh vẽ ông ấy cầm đàn. “Bác mua cái đàn này ở đâu ạ?” “Bác mua nó ba mươi năm trước từ một gã tìm thấy nó trong hầm mộ. Một công nhân. Có một đường hầm bị sập.
Sự việc này gây ra rất nhiều tổn thất. Những người đi xuống đó dọn dẹp đống đổ nát thì phát hiện ra một cái buồng nhỏ. Lối vào đã bị giấu đi từ lâu – thực ra là bị rất nhiều lớp xương chặn kín. Một người trong số họ tìm thấy cây đàn guitar nằm bên dưới mấy bộ xương.
Những bộ xương không đầu. Đó là dấu hiệu của cuộc khủng bố thảm sát. Mọi người nghĩ là cái đàn đã bị phá hủy – nằm dưới mặt đất hơn hai thế kỷ – nhưng không. Có lẽ không khí lạnh đã bảo tồn nó. Bác đã trả một ngàn franc để mua nó. Lúc đó là một khoản tiền lớn nhưng so với giá trị cây đàn thì không là gì.
Chơi thử đi, Andi.” Tôi lắc đầu, sợ cả cây đàn sẽ vỡ vụn ra thành cám nếu tôi lại chạm vào nó. “Không được, bác G. Nó mỏng manh quá. Nó cần phải được tái tạo đã. Nó cần có một chuyên gia để…” “Nào, chơi đi,” bác nói. Bác muốn giúp tôi. Tôi biết vậy. Có lẽ bác nghĩ cây đàn sẽ là một dạng liệu pháp chữa bệnh.
Nhưng tôi không giỏi tiếp nhận sự giúp đỡ lắm. “Được rồi,” tôi nói với bác. “Ý cháu là cháu có mang theo đàn. Cháu không cần cây này.” Bác G tiến lại, nhấc cây đàn ra khỏi hộp, và đưa cho tôi. “Có lẽ nó cần cháu,” ông nói. Tôi chưa sẵn sàng cho chuyện đó. Nó khiến tôi bất ngờ.
Thông thường thì hầu như không ai hay bất cứ thứ gì cần đến tôi. “Vâng. Ừm… Được ạ,” tôi nói. Tôi đặt lại cây guitar vào trong hộp, lấy túi của mình, rồi vội vã quay lại, như thể Gollum với chiếc nhẫn “Precious” của mình, sợ bác G đột ngột tỉnh ra mà lấy lại đàn. Nhưng bác và bố tôi lại mải mê công việc.
Tôi lấy ra bộ dây dự phòng, và một cái Ziploc đầy những thứ đồ cho guitar – chất bôi trơn dây, chổi quét bụi, dầu nhờn, dụng cụ lên dây, sáp, vải đánh bóng. Rồi tôi bận rộn với cây đàn. Những cái chốt cứng đơ. Phím đàn thì đầy bụi bẩn. Gỗ xám xịt. Cô Lili mang tới một chai rượu nữa.
Cô biến mất lại vào trong bếp. Đến lúc cô mang đĩa và dao dĩa ra – một tiếng sau – cây đàn guitar đã được bôi sáp, đánh bóng và căng lại dây. Tôi lên dây đàn và khi tôi xong việc, bác G bảo: “Chơi một bản cho mọi người nghe nào.” Tôi nhìn bác, vẫn ngại ngần. “Nó vẫn nguyên vẹn qua một cuộc Cách mạng.
Nó sẽ nguyên vẹn dưới đôi tay cháu,” bác nói. Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu. Tạo ra âm nhạc từ một nhạc cụ như chiếc đàn này có cảm giác như đang ở bên một chàng trai cực kỳ hấp dẫn, và đột nhiên bạn phải hôn lên khắp người chàng. Tôi hít vào một hơi và bắt đầu bản sonata Scarlatti.
Rồi tới bài “Come As You Are.” Tôi tiếp tục chơi Rameau. Rồi Bach. Rồi vài điệu của Gomez. Và tôi dừng lại vì người tôi mồ hôi mồ kê nhễ nhại và thở không ra hơi, tiếng vỗ tay làm tôi giật mình. Bởi vì tôi quên mất. Quên mất họ đang ở đây. Quên mất tôi đang ở đây. “Hoan hô!” Cô Lili hét lên.
“Chơi thêm đi! Chơi thêm đi!” bác G nói, vỗ tay như một gã điên. Bố cũng đang vỗ tay. Hai tay giang rộng ra mà vỗ. Như thể ai đó bắt ông phải vỗ. Tôi cho đàn vào lại thùng và đến bàn ngồi cùng họ. “Cháu có tài năng kiệt xuất đấy,” cô Lili nói. “Tốt nghiệp xong thì cháu tiếp tục học ở đâu?” “Vâng… Cháu đã xem trường Julliard và Manhattan School,” tôi nói.
Bác G đập tay. “Quên New York đi. Tới Paris. Tới nhạc viện.” Tôi nhìn bố, ông đang nhìn vào ly rượu. “Vâng… có thể,” tôi nói. “Cháu chưa có kế hoạch rõ ràng ạ.” Cô Lili rót thêm rượu. “Guillaume, món gà sẽ xong ngay đây. Anh dọn dẹp mấy thứ đó hộ em cái,” cô nói, hất đầu về đống giấy tờ ảnh iếc.
“Cháu sẽ dọn ạ,” tôi nói. Tôi bắt đầu thu dọn đống giấy, nhưng rồi nhìn thấy một tấm ảnh. Tôi cầm nó lên. Trong ảnh là một chiếc lọ thủy tinh cổ, có hình như quả trứng, hình mặt trời và một chữ L ở cạnh. Bên trong lọ có gì đó. Một thứ vừa đen vừa nhỏ. Tôi không thể rời mắt khỏi nó.