Nguyên tác: The Gold Hunters
Số lần đọc/download: 1263 / 24
Cập nhật: 2017-03-13 15:46:43 +0700
Chương 10: Phát Súng Bí Ẩn
C
ả hai đứng lặng lẽ nhìn về hướng Bắc. Dưới chân họ trải dài cánh đồng cỏ rộng lớn nơi Mukoki đã giết con tuần lộc. Phía ngoài xa là những cánh rừng rậm rạp, đan xen lẫn vào những khoảng đất đất và cánh đồng cỏ ở nơi này nơi khác. Hàng chục hồ nước lấp lánh dưới ánh hoàng hôn đỏ vàng của mặt trời đang xuống. Cách đây mấy tháng, khi Rod nhìn xuống vùng đất đó lần đầu, nó là một thế giới của băng và tuyết, một bức tranh trắng toát, giá lạnh và sáng chói, trải dài từ nơi anh đứng tới tận Bắc Cực. Giờ đây nó đang thức giấc dưới chiếc đũa thần kỳ diệu của Chúa Xuân. Từ xa, hai chàng trai trẻ nhìn xuống dòng suối mà họ sẽ ngược dòng để lên hẻm núi. Mùa đông trước nó là một khe nước bé xíu, còn bây giờ nó phồng to lên bằng kích thước của một con sông.
Đột nhiên, khi họ đang nhìn, hai vật thể sậm màu chầm chậm hiện ra ở một khoảng đất trống cách đó một dặm. Ở khoảng cách đó, có vẻ như chúng to hơn những con chó, và Rod, tâm trí còn tràn ngập những ý nghĩ về con sói, khẽ thốt lên:
- Những con sói!
Ngay sau đó, anh trấn tĩnh hơn và nói:
- Nai sừng tấm!
Wabi nói:
- Một con nai cái và con của nó.
Rod hỏi:
- Sao cậu biết?
Wabi kêu lên, nắm lấy cánh tay người bạn:
- Kìa, cứ nhìn chúng xem! Con mẹ đi trước, và ngay cả từ đây tôi cũng có thể thấy rằng nó đang đi nhanh. Một con nai sừng tấm không bao giờ chạy nước kiệu hay nước đại, mà chỉ bước nhanh, sử dụng cả hai chân của một bên cùng một lúc. Hãy chú ý cách con nai con nhảy nhót. Một con nai già không bao giờ làm thế.
Rod đáp, vẫn còn hoài nghi:
- Nhưng cả hai con trông có vẻ như cùng kích thước.
- Nó là một con nai con hai tuổi, gần như lớn bằng mẹ nó. Thực ra, nó không còn thật sự là một con nai con vì đã quá lớn. Nhưng miễn là con nai còn đi theo mẹ, chúng ta vẫn gọi nó là nai con. Tôi biết nai mẹ và nai con đi với nhau trong ba năm.
Chàng trai da trắng thì thào.
- Chúng đang tiến về chỗ này!
Hai con nai quay lại, hướng về phía chân núi trên đó họ đứng. Wabi kéo bạn mình tới sau lưng một tảng đá lớn. Từ đó cả hai có thể nhìn xuống mà không bị phát hiện.
Anh nói:
- Hãy im lặng! Chúng tới để ăn chồi cây vân sam trên sườn núi. Rồi sẽ lên khe uống nước. Chúng ta sẽ có trò vui đấy.
Anh đưa một ngón tay vào miệng rồi đưa lên đầu, phương pháp để tìm ra hướng gió thổi của người mở đường già. Dù gió có thổi nhẹ đến đâu, một phía của ngón tay khô trước, trong thoáng chốc, và ấm, trong khi đó phía kia vẫn còn ướt và lạnh. Phía tay khô chính là hướng gió thổi tới.
Wabi nói:
- Gió thổi sai hướng, sai chết người. Nó thổi thẳng tới chỗ chúng. Trừ khi chúng ta ở trên cao đến mức mùi của chúng ta lướt qua bên trên chúng, không thì chúng sẽ chẳng dám tới gần hơn.
Một phút sau Rod thúc khuỷu tay vào Wabi.
- Chúng đã ở trong tầm bắn.
- Phải, nhưng chúng ta không bắn. Chúng ta chưa cần thịt.
Khi chàng trai trẻ nói, con nai mẹ dừng lại thật đột ngột khiến Wabi thốt lên một tiếng rủa vui vẻ.
- Tuyệt! Nó đã đánh hơi thấy chúng ta, cách tới một phần tư dặm. Hãy nhìn xem cách nó ngẩng đầu, hai tai nó dỏng ra phía trước để lắng nghe, mũi nó ngóc lên trời! Nó biết có nguy hiểm trên ngọn núi này. Nào...
Anh không nói hết. Như một tia chớp, con nai mẹ nghiêng vai thúc con nai con quay lại, và trong thoáng chốc cả hai chạy nhanh về hướng Bắc, lần này con nai mẹ chạy phía sau thay vì dẫn đầu.
Wabi nói, đôi mắt long lanh:
- Tôi yêu những con nai sừng tấm. Anh có nhận thấy là tôi không bao giờ bắn chúng không Rod?
- Chưa bao giờ! Tôi chưa từng suy nghĩ về điều đó. Lý do là gì?
- Có nhiều lý do lắm. Dĩ nhiên tôi phải bắn chúng, khi thật cần thịt. Nhưng đó là một công việc khó chịu đối với tôi. Cậu gọi sư tử là vua của các loài thú. Chà, không phải đâu. Nai sừng tấm mới là chúa tể của muôn thú. Cậu đã thấy con nai mẹ hành động ra sao rồi đó. Nó dẫn con nai con khi tiến tới, vì nếu có nguy hiểm nó sẽ đương đầu. Và khi nó phát hiện ra điều nguy hiểm, nó đẩy con nai con chạy trước, để nếu có nguy hại gì thì nó sẽ gánh chịu trước tiên. Có phải đó là bản năng của một bà mẹ con người không? Còn nai sừng tấm đực thì thật tuyệt vời! Vào mùa giao phối nó sẽ đương đầu với cả chục người để bảo vệ vợ nó. Nếu con cái ngã xuống trước nó sẽ đứng giữa thân thể con cái và những khẩu súng của các thợ săn, bám chặt móng guốc vào mặt đất, mắt tóe lửa thách thức, cho tới khi nó ngã quỵ vì những viên đạn. Có lần tôi nhìn thấy một con nai cái bị thương, và khi nó lảo đảo đi xa, con nai đực lớn không bao giờ để cho con cái lộ ra trước tầm súng, mà đưa thân hình của chính nó hứng lấy những viên đạn. Lòng can đảm của nó đẹp đến nỗi cậu không biết là nó bị thương cho tới khi nó ngã lăn ra chết, gần như bị xẻ ra thành từng mảnh. Cảnh tượng đó đã khiến tôi thề rằng sẽ không bao giờ giết chết một con nai sừng tấm nữa, trừ phi bắt buộc.
Rod im lặng. Con nai mẹ và nai con đã biến mất khi anh quay sang Wabigoon.
Anh nói:
- Tôi mừng vì cậu đã kể cho tôi nghe chuyện đó, Wabi. Mỗi ngày, cậu đã dạy cho tôi những bài học mới của vùng đất mênh mông này. Tôi đã bắn một con nai sừng tấm. Tôi sẽ không bắn chúng nữa trừ khi chúng ta cần có thịt để sống.
Họ quay trở về cái trại cũ, vừa lúc Mukoki trở lại với chuyến mang vác thứ hai trong màn đêm buông xuống. Món thịt gấu nướng ngon lành, cà phê và bánh “bích qui đá-nóng,” như Rod gọi món bánh nướng hỗn hợp từ bột mì, nước và muối, chẳng bao lâu đã sẵn sàng.
Sau bữa ăn, cả ba ngồi một lúc lâu bên đống lửa, vì trời bên ngoài hơi se lạnh, và trò chuyện. Hầu hết về con sói và những chuyến phiêu lưu của nó. Trong ngôi nhà xa xôi ở thế giới văn minh Rod đã từng đọc và nghe kể nhiều điều sai lầm về những con thú hoang, và tin rằng con sói sẽ phát hiện ra họ đã quay lại với vùng hoang dã và sẽ tìm đến với họ, và để củng cố niềm tin đó anh kể lại nhiều câu chuyện đã xảy ra tương tự. Wabigoon nhã nhặn lắng nghe, đó là cách xử sự của người da đỏ. Rồi anh nói:
- Những câu chuyện như thế là sai, Rod. Khi tôi đi học với anh tôi cũng đã đọc nhiều truyện về các con thú hoang, và rất ít truyện có thật. Có mọi loại người viết về đời sống hoang dã, thế nhưng chỉ có một phần trăm trong số họ đã từng sống ở vùng hoang dã thật sự. Và một vài người trong bọn họ đã bịa ra những hành động của bọn thú hoang một cách tuyệt vời!
Rod vươn thẳng người lên. Anh tuyên bố:
- Tôi chỉ ở đây được vài tháng, Wabi, thế nhưng tôi đã nhìn thấy nhiều điều tuyệt diệu về những con thú hơn là những gì từng đọc trong sách.
Người đồng đội của anh đồng ý:
- Dĩ nhiên là vậy. Có một điều tôi muốn làm rõ. Thú hoang là những con vật tuyệt diệu nhất trong sự sống, và nếu chúng giống con người, chúng hẳn sẽ cười bò ra khi đọc thấy những thói quen và các cuộc mạo hiểm của chúng được kể lại theo cách đó. Bởi những nhà văn của cậu đã sai lầm khi đưa chúng tới quá gần với con người, khiến chúng trở thành nửa con người. Con sói ở với chúng ta vì nó không biết cái gì khá hơn. Chúng tôi bắt nó khi nó còn là một con sói sơ sinh, và khi nó lớn lên, cả tôi và Mukoki đều thấy đôi khi nó có một vẻ khao khát điên dại được tới với đồng loại của nó. Chúng tôi biết điều đó sẽ xảy ra. Nó sẽ không bao giờ quay lại với chúng ta.
Mukoki khẽ hắng giọng, và Rod đột ngột quay về phía ông.
- Ông tin như vậy chứ, Mukoki?
- Con sói đã đi!
Rod khăng khăng với những người mà cuộc thảo luận là điều thú vị:
- Nhưng loài thú cũng có suy nghĩ, phải không? Chúng nhớ, chúng suy luận!
Wabi đáp:
- Chúng làm tất cả những điều đó. Và còn hơn thế. Tôi đã đọc những câu chuyện gọi là lịch sử tự nhiên đưa ra ý tưởng rằng các loài thú không có những khả năng tinh thần, và đổ phần lớn những hành động của chúng cho bản năng. Những câu chuyện đó cũng sai lầm y như những câu chuyện gán cho loài thú hoang những thiên tư của loài người. Loài thú có suy nghĩ. Cậu có cho rằng con nai mẹ đã suy nghĩ khi nó dừng lại ở trảng cỏ không? Không phải là nó đã cân nhắc hoàn cảnh trong đầu nó sao, nếu cậu muốn nói về điều đó như vậy, và tinh thần nó lập tức xác định mối nguy hiểm đang nằm ở đâu, và nó nên chạy trốn về hướng nào? Và ngoài lý trí, loài thú hoang có bản năng. Một chứng cứ cho điều này là giác quan thứ sáu của chúng; giác quan của... cậu gọi đó là gì?
Rod đề xuất:
- Sự định hướng chăng?
- Phải, đúng vậy. Sự định hướng. Một con gấu, chẳng hạn, không mang theo la bàn trong mình nó, như một số nhà văn viết về tự nhiên muốn cậu tin như vậy, thế nhưng nó có thể đi từ ngọn núi này thẳng tới một cái hang cách đây một trăm dặm như một con chim có thể bay. Đó là bản năng.
Rod trầm ngâm:
- Vậy con sói...
Chàng trai Da đỏ kết thúc:
- Đang sống với bầy đàn.
Mukoki nói nhỏ, như tự nhủ với chính mình.
- Mùa đông trước tuyết rơi, còn bây giờ tuyết thành nước. Hai mùa trăng trước, sói đã thuần hóa. Giờ nó hoang dã. Thần linh Vĩ đại nói rằng điều đó đúng, tôi cho là vậy.
Wabi nói:
- Ý ông ấy đó là lẽ tự nhiên.
Một giờ sau, khi hai người kia đã cuộn mình trong những tấm da, Rod ngồi một mình bên đống lửa, lắng nghe và suy nghĩ. Sau đó anh đi ra bìa rẻo đất bằng, ngắm vầng trăng mùa xuân đang chầm chậm lướt qua trên vùng đất hoang vu lặng lẽ và rộng lớn. Sự quạnh hiu thật tuyệt vời làm sao, hàng bao nhiêu triệu người của thế giới văn minh hiểu biết về chúng thật ít ỏi làm sao! Trong khoảnh khắc ngắm nhìn ánh sáng lung linh của miền Bắc đang trải xa tít tắp, Rod chợt nghĩ rằng ở đây ắt hẳn Thượng đế phải gần với trần thế hơn bất cứ nơi nào khác trên trái đất. Lần đầu trong đời, tâm hồn anh tràn ngập một cảm giác gì đó hầu như là tình yêu đối với Thần linh Vĩ đại của người da đỏ. Và tại sao không? Tại sao vị Thần linh Vĩ đại đó lại không phải là Thượng đế của chính anh? U buồn, quạnh vắng, im lặng, đầy bí ẩn, cả một thế giới trải ra trước mặt anh. Một thế giới là quyển Thánh kinh của người da đỏ, hàm chứa trong nó những bài học cho người da đỏ ở miền Bắc và giọng nói của Đấng sáng tạo muôn loài. Một trận gió nổi lên và đang vi vu lướt qua những dải đồng cỏ. Anh nghe thấy giọng nói thầm thì của những cành dương run rẩy, và từ xa phía dưới vọng đến tiếng rúc trầm trầm gọi bạn của một con cú mèo. Đôi mắt anh dần khép lại, và anh nghiêng người nằm xuống tảng đá đang ngồi. Sau đó anh mơ thấy những thứ đã ngắm nhìn. Đống lửa trại lụi dần. Mukoki và Wabiggon đang ngủ ngon lành, không biết đến sự vắng mặt của anh.
Rod không rõ mình đã ngủ thiếp đi trong bao lâu. Anh đột ngột thức giấc bởi một âm thanh làm anh ớn lạnh đến tận xương, một tiếng gào khủng khiếp gần sát bên tai anh. Anh ngồi bật dậy, toàn thân run rẩy. Trong một thoáng anh cố kêu lên, nhưng lưỡi của anh như tê cứng lại. Cái gì đã xảy ra? Đó là Mukoki hay Wabi?
Cách đó chừng mười bước là một tảng đá lớn, và khi nhìn lên anh trông thấy có vật gì đó đang di chuyển bên trên, một thân hình dài, uyển chuyển, ánh lên màu trắng bạc dưới ánh trăng, và anh biết đó là một con mèo rừng. Rod len lén cầm lấy khẩu súng đang đặt giữa hai đầu gối. Trong lúc đó, con mèo rừng lại cất một tiếng gào làm đông cả máu. Ngay cả lúc này, chàng trai trẻ cũng ớn lạnh vì tiếng gào đó. Nó giống như tiếng gào khủng khiếp của một người đang đau đớn giẫy chết. Anh giơ súng lên. Một tia chớp lóe lên dưới ánh trăng, tiếng súng nổ, và một tiếng hét từ khu trại. Trong khoảnh khắc kế tiếp, Rod đứng lên, hối tiếc vì đã nổ súng. Anh vừa chợt nghĩ ra rằng lẽ ra anh có thể ngắm nhìn con mèo rừng, một trong những tên cướp đêm của vùng hoang dã lạ lùng này, và tấm da của nó, vào mùa này là vô giá trị. Anh thận trọng bước tới tảng đá. Con mèo rừng không có ở đó. Anh đi vòng quanh tảng đá, khẩu súng trong tay sẵn sàng nhả đạn. Nó đã chạy mất. Anh đã bắn trượt!
Mukoki và Wabigoon gặp anh ở phía sau của tảng đá.
- Lại là một con mèo rừng hả?
Người mở đường già cười, nhớ lại cuộc mạo hiểm trước của Rod trên cùng rẻo đất bằng này.
- Đã giết nó?
Rod đáp gọn:
- Bắn hụt. Tiếng kêu thật kinh khủng!
Lần này anh vào ngủ với hai người bạn, và thẳng giấc cho tới sáng. Ban mai là một trong những món quà hiếm hoi của mùa xuân vừa đến, ấm áp và ngan ngát mùi hương ngọt ngào của sự sống mới. Vẻ đẹp của nó như một liều thuốc bổ đối với ba nhà mạo hiểm. Những nỗi sợ hãi của họ ngày hôm trước đã biến mất, và vừa ca hát, huýt sáo, hoặc hú lên vui vẻ, họ vừa xuống núi. Mukoki đi trước với túi hành lý. Hai chàng trai đi chưa hơn hai trong số sáu dặm trong chuyến tải vật dụng băng qua cánh đồng cỏ khi ông gặp lại họ, quay lại cho chuyến mang vác thứ hai. Tới trưa, chiếc thuyền và những hành lý đã được chuyển tới khe suối an toàn, và những người thợ săn nghỉ cho tới sau bữa ăn. Dòng suối nhỏ mà Rod đã nhảy qua chẳng ướt bàn chân một cách dễ dàng cách đó vài tuần đã phình lên thành một con sông rộng, và ở đôi chỗ dòng nước chảy tràn của nó đã tạo thành những chiếc hồ nho nhỏ. Khác với sông Ombabika, chảy tràn xuống từ vùng núi cao, đây chỉ là một dòng nước nhỏ, một sự kiện làm Mukoki và các bạn đồng hành rất đỗi hài lòng.
Người da đỏ già nói:
- Chúng ta cần làm lều tối nay. Tôi sẽ đưa đồ xuống thuyền.
Suốt hai giờ chèo ngược dòng suối Mukoki không nói gì, và khi họ tiến gần hơn tới nơi đã chiến đấu với bọn Woonga mùa đông trước và suýt mất mạng, ông thậm chí không thèm gật đầu hay ừ hử gì trong cuộc trò chuyện giữa hai chàng trai. Một lần Wabigoon lại nói chuyện về con sói, và trong thoáng chốc người da đỏ già, đang ở mạn thuyền, hơi quay người sang họ, và chiếc mái chèo của ông vút lên giữa không trung hai lần. Từ đuôi thuyền, Wabi tiến về phía trước và thúc chỏ vào Rod, và chàng trai da trắng hiểu. Sau Minnetaki và Wabigoon, có lẽ là chính anh nữa, anh biết người mở đường trung hậu yêu mến con sói nhất; rằng ông ta đang khó chịu với cơn điên giận thỉnh thoảng xuất hiện trong đầu khi nhớ lại tấn thảm kịch khủng khiếp đã xảy ra trong đời ông nhiều năm trước đó. Khi những người thợ săn đến điểm cuối của chặng ngược suối, Mukoki lặng lẽ vác các món hành lý lên bờ. Ông không nói một lời, không ra một dấu hiệu gì.
Wabigoon nói, khi Rod có cử chỉ như muốn đi theo và dừng chân người đồng đội già lại:
- Chẳng có tác dụng gì. Chẳng lời nào có thể lay chuyển Mukoki trong lúc này. Ông ấy muốn tới khu trại cũ tối nay, nơi con sói đã biến mất. Ông sẽ không trở lại cho tới sáng.
Mukoki đi, không hề ngoái lại lần nào, cho tới lúc hai chàng trai không nhìn thấy bóng ông. Nhưng khi đã ra khỏi tầm nhìn của họ, cử chỉ của ông đột nhiên thay đổi một cách kỳ lạ. Ông hạ chiếc túi đang đội trên đầu xuống ngực, để có thể giữ nó bằng một tay và quay đầu một cách tự do. Đôi mắt ông ánh lên ngọn lửa đầy kích động; những bước chân sải nhanh, nhưng đầy cảnh giác, mỗi cử động của ông đều hàm ẩn sự lắng nghe và quan sát đầy kỳ vọng. Nếu có ai đó quan sát người lính già có thể nói rằng ông đang cảnh giác cao độ trong một cuộc săn hay trước một mối nguy cơ. Thế nhưng khẩu súng ông vẫn khoá an toàn, một vết chân gấu mới tinh khôi không làm ông chú ý, và khi nghe thấy tiếng sột soạt trong một bụi cây bên tay phải, nơi một con hươu đã đánh hơi thấy ông, ông chỉ nhìn về hướng nó một thoáng. Ông không tìm kiếm một con mồi. Cũng không phải vì sợ hãi một nguy cơ nào đó. Ở những nơi đất mềm và ẩm ông đi chậm lại, mắt dán trên mặt đất, và ở một trong những chỗ đất như thế ông đột ngột dừng lại. Truớc mặt ông là những vết chân rõ ràng của một con sói.
Với một tiếng kêu khẽ, Mukoki ném chiếc túi ra và quỳ xuống. Giờ đây đôi mắt ông cháy lên dữ tợn. Có cái gì đó điên dại trong cách ông nằm phục trên mặt đất mềm, bò từ dấu chân này tới dấu chân khác, và dừng lại ở những nơi bàn chân phải của con sói để dấu lại. Chính bàn chân ấy đã biến con sói thành tù nhân trong chiếc bẫy của Mukoki, và nó bị mất hai ngón. Ở đây không có gì mất mát cả, và người mở đường già đứng lên, nét mặt đầy vẻ thất vọng.
Năm lần trong buổi chiều hôm ấy Mukoki quỳ xuống bên những vết chân sói, và năm lần tia sáng hy vọng trong đôi mắt ông tắt ngúm trong thoáng chốc. Trời đã hoàng hôn khi ông leo lên đỉnh núi để tới chiếc hồ nhỏ nằm ẩn sau vùng đất trũng. Khi ông đặt túi hành lý xuống gần những tàn than của căn lều cũ, chỉ còn một luồng sáng nhợt nhạt còn le lói trên bầu trời phía sau những cánh rừng. Ông nghỉ ngơi một lúc lâu, đôi mắt chìm vào những hồi ức về trận chiến kinh hoàng trong mùa đông trước. Dòng máu hoang dã của ông lại chảy mạnh với ý nghĩ về trận chiến, về cuộc chạy trốn tuyệt vọng, khi mà ông và Rod vượt qua ngọn núi để tới căn lều đang cháy, và việc họ cứu thoát Wabigoon. Đột nhiên, đôi mắt ông bắt gặp màu trăng trắng của một vật gì đó ở cách chừng năm mươi bước. Ông đứng lên, bước tới gần, lầm bầm và chắc lưỡi trong niềm vui hơi dữ tợn. Bọn Woonga không quay lại để chôn những đồng bọn chết, và những chiếc xương mà ông đứng bên cạnh là của tên cướp mà Wabigoon đã giết, được gặm rỉa sạnh trơn bởi những con thú nhỏ của rừng.
Mukoki quay lại chỗ chiếc túi ngồi xuống. Khi bóng tối buông xuống xung quanh, ông không buồn đốt lửa. Ông có mang theo thực phẩm, nhưng không ăn. Bóng tối trong cánh rừng ngày càng đậm đặc, màn đêm bao trùm lên những ngọn núi cũng dầy hơn. Ông vẫn ngồi yên, im lặng, lắng nghe. Những âm thanh của đêm vọng đến tai ông: tiếng những vỗ cánh của những con chim săn đêm vừa thức giấc, tiếng rúc của một con cú mèo, tiếng gào của một con mèo rừng từ xa vọng lại, tiếng một con chồn vizon nhảy xuống hồ nước. Lúc này gió bắt đầu rít lên trong những cụm vân sam, khẽ hát bài ca lâu đời của nó về sự cô đơn, sự quạnh vắng, và những bí mật của miền đất hoang dã. Mukoki vươn thẳng người và đưa mắt nhìn lên vầng trăng đỏ lừ đang nhô lên khỏi ngọn núi. Một lúc sau ông đứng lên, cầm lấy khẩu súng, và bò lên đỉnh của ngọn núi. Từ đó, trải dài hàng trăm dặm giữa ông và Bắc Băng Dương là cả vùng đất hoang mênh mông mà đâu đó bên trong nó là con sói của ông!
Trăng lên cao dần. Nó soi rõ người da đỏ già, bất động như một tảng đá, lưng tựa vào một thân cây trắng không có vỏ trong đó dòng nhựa đã khô cứng từ lâu. Rồi ông nghe một âm thanh, và quay mặt về hướng đó. Âm thanh đó phát ra từ một đống đá cuội như tiếng rơi của một hòn đá lên một tảng đá lớn hơn. Và khi ông nhìn, từ bóng tối của đống đá lóe lên ánh chớp của một phát súng và tiếng nổ, và tiếp đó, khi Mukoki ngồi thụp xuống, có một tiếng kêu kinh khủng, không phải của con người, làm máu đông cứng lại, đến nỗi người lính già cũng thốt lên một tiếng kêu. Ông nằm như đã chết, dù không có ai chạm đến. Bản năng chứ không phải lý trí đã buộc ông khi nghe thấy tiếng động của phát súng bí ẩn. Một cách thận trọng, ông đưa khẩu súng lên vai. Nhưng từ đống đá không có một chuyển động nào khác.
Rồi, từ khoảng giữa sườn núi, lại xuất hiện một lần nữa tiếng kêu kinh khủng đó, và Mukoki biết rằng không có con thú nào trong những vùng hoang dã này có thể phát ra nó, mà do một con người, thế nhưng nó vẫn hung tợn hơn bất cứ thứ gì từng làm linh hồn ông khủng khiếp. Run run, ông bò sát mặt đất, nỗi sợ không tên làm máu ông giá lạnh. Rồi tiếng kêu lại phát ra, lặp lại, ngày càng xa dần, lúc này đã tới chân núi, rồi tới cánh đồng cỏ, rồi tới hẻm núi, dội lại và đồng vọng giữa những đỉnh núi, lắng dần trong im lặng. Người lính già không cử động một bắp thịt nào cho đến khi từ xa, nhiều dặm, dường như tiếng vọng cuối cùng đã tắt, và chỉ còn tiếng gió vi vu lướt qua đỉnh núi.