Số lần đọc/download: 0 / 66
Cập nhật: 2020-11-14 06:29:22 +0700
Phần Thứ Ba: Mặt Trận Nam Cửa Việt (1)
Đ
ại đội tôi hành quân theo một hàng dọc, nhằm hướng đông nam thẳng tiến. Đang đi có lệnh tạt vào một làng tìm chỗ nghỉ, đợi cho C10 phía trước qua sông hết đã. Lại nhờ Bọ, Mạ thổi cơm hộ. Lại một bữa cơm đỏ lòm ớt bột, mà tôi chỉ ngồi há mồm chảy nước mắt không ăn được vì cay quá. Mỗi mình anh Thanh B phó là chén tốt.
Tối mịt cả đại đội mới ra tới bờ sông. Bãi ruộng bị B52 đánh tơi tả, đầy bùn nước, lội thụt tới đầu gối. Mưa to, cả lũ chạy vào mấy ngôi nhà hoang ngồi chờ thuyền. Ngôi nhà nhỏ có hầm ở dưới nền, chật cứng người cả trên lẫn dưới. Tối om, ướt, lạnh. Gió mưa đập vào mái tôn rào rào. Ngồi cạnh Trường “Khâm Thiên” A6, nó hát bài “Cuộc đời sương gió/ Chiến chinh nơi miền xa/ Qua những vùng xa lạ quá…”. Nghe buồn não ruột…. Đến nay thỉnh thoảng nhớ những ngày mưa Quảng Trị tôi vẫn hát...
Lúc ra thuyền, Chính “con” để thụt mất dép. Thuyền máy khá to, chở được cả trung đội. Lên bờ, gặp Chí Thành đeo máy 2W xuống phối thuộc cho đại đội tôi, cậu ta cho Chính con một đôi giày cao cổ. Cả lũ đi mò trong đêm. Tôi bị ngã vào vũng nước, ướt sạch, quai dép bị đứt, đành phải đi đất. Hình như bị lạc rồi, ánh hỏa châu chập chờn khắp nơi. Đường bờ ruộng trơn như đổ mỡ, tôi nghiến răng dùng hết sức bấm ngón chân xuống đất mà vẫn ngã. Mỗi bưới đi là một bước ngã. Súng ống đồ đạc quật oành oạch, quần áo bẩn thỉu như trâu vấy. Nhiều lúc mệt quá, tôi cứ chống hai tay ngồi phệt dưới bùn mà nuốt nước mắt: cuộc đời chưa bao giờ bị cực khổ như thế này!
Tôi đi men xuống bờ cỏ cho đỡ trơn, nhưng mà sao nhiều gai xấu hổ thế. Chỉ một chân có dép nên bước thấp bước cao, một tay xách chiếc dép đứt quai kia, thất thểu như bại trận, Chính con phải dắt đi. Được nghỉ giải lao ở một bãi tha ma, hai đứa cùng chui xuống một ngôi mộ, nằm lăn ra cạnh hai cậu lính 12ly7 chốt ở đó. Đấy là hầm của họ, vách hầm còn thấy một góc quan tài chòi ra. Những người khác thì nằm dọc lề đường mà ngủ vì quá mệt, mặc ướt, mặc sương và muỗi.
Đến lúc nghe có tiếng gọi í ới, tôi và Chính chui lên thì không thấy ai cả. Hai thằng cắm cổ chạy, Chính bắn đạn lửa để liên lạc. Thấy nhiều lối rẽ, chúng tôi đã hoảng, nhưng cứ đi bừa. May quá, gặp anh Phùng, Chính trị viên đại đội và cậu liên lạc đang đứng đợi. Anh xạc cho một trận, tôi cúi đầu nghe nhưng trong lòng rất mừng vì không bị lạc.
Trời đã sáng bảnh mà chúng tôi vẫn loanh quanh hết làng này đến làng khác. Qua một đêm đứa nào cũng mệt phờ râu. Có lệnh tản ra nghỉ. Chí Thành và cậu Bắc thông tin treo ăng-ten lên cây thông, mở máy vô tuyến 2W liên lạc với Tiểu đoàn, nhưng không được. Tôi xin mấy hột cơm sấy của bọn B3, ngồi nhấm nháp. Mọi người đã định nấu ăn thì có lệnh đi tiếp vì đã tìm được tiền trạm. Như vậy là ngày hành quân thứ hai bắt đầu.
Đoàn quân băng qua đồng, qua làng, qua nghĩa địa công giáo với những ngôi mộ đen to tướng có cắm thập ác. Đến gần một cổng làng, thấy bên trên có hàng chữ đắp nổi đã tróc sơn “Tri ân Ngô Tổng thống”. Làng này cũng bị B52 đánh be bét, tre chuối rũ rượi, cành lá vương vãi khắp nơi. Đất hố bom mới đào xám đen, địa hình trống trải. Ở đây chúng tôi gặp anh Khuông “Quảng Bình”, trước là B trưởng B1, nay vừa lên Đại đội phó, người chỉ huy đi tiền trạm. Tất cả tập hợp ở một ngôi nhà gần đấy. Chí Thành lại mở máy gọi Tiểu đoàn bộ. Tôi ngồi ngay cạnh, chợt nghe có tiếng léo nhéo trong máy: một giọng nói lạ, một tên địch!. Chí Thành đối đáp cò cưa với hắn vài câu, rồi tắt máy.
Trung đội tôi được dẫn sang làng khác, đóng ở mấy nhà ven làng. Một nhà có cây khế rất sai, quả to, cả bọn ào ào vượt qua mương vào vặt ăn. Khế rất ngọt. A5 và A6 được bố trí ở hai nhà khá tốt. A4 được phân vào một nhà chả ra sao: một cái hầm thì có nước, một cái khác thì trơ sườn. Tôi rất cáu với ông Trung, B trưởng, nhưng anh Thanh thì lại đang đi hội ý vắng, biết nói với ai.
Cái làng này bị bỏ hoang trông thật điêu tàn, không một bóng người. Cỏ dại mọc tùm lum trong vườn và trong các ngõ xóm, cao đến đầu gối. Đường làng bị tay tre ngả ra che kín lối, muốn đi nhiều chỗ phải chui, gai tre cào rách cả da.
Trên sân nhà tôi ở, lúa đã mọc thành bụi. Khi bước vào nhà, một mùi ẩm mốc xông lên. Cả gian giữa là cót thóc, ở một góc mạ đã mọc xanh rì. Quần áo cũ một đống; bát đũa nồi xoong vung vãi, dưới bếp còn có cả một chĩnh đậu đen. Chúng tôi nấu cơm ăn. Anh Thanh vừa về cũng rất bực kiểu phân nhà của ông Trung.
Tôi lội vườn sang mấy nhà bên cạnh xem xét, thấy cũng hoang tàn như vậy, còn có thêm vài cái xe đạp hỏng nằm chỏng gọng. Nhưng được cái có mấy cây ổi con mà nhiều quả chín, ăn ngọt phết. Lại thêm mấy vạt rau muống mọc lẫn cỏ và một luống rau dền to, non.
Buổi chiều tập hợp Trung đội để công bố một cái lệnh làm tất cả chúng tôi ngạc nhiên: Ông Trung được điều đi công tác khác, anh Thanh lên làm B trưởng. Việc ông Trung được điều đi làm chúng tôi rất mừng, nhưng ngoài mặt ai cũng tỏ ra như không có chuyện gì cả. Một số cậu xỏ lá cứ ca cẩm: “Anh Trung mất đi, tổn thất này thật là lớn lao, đau thương này thật là vô hạn…”. Một Trung đội phó mới được cử về, tên là Tài, người Thanh Hóa. Anh khoảng 20-21 tuổi, dáng vẻ lù đù, rất ít nói, và sẽ thường xuyên đi với A6. Còn anh Thanh vẫn tiếp tục đi với A4 của tôi.
Cái nhà A6 là tươm tất nhất. Xây bằng gạch, có tràng kỷ, giếng nước đàng hoàng. Vườn ổi trái to và sai.
Hôm nay đến lượt Quang “Bạch Mai” nấu cơm. Rỗi rãi nên tôi nhặt mấy quyển sách giáo khoa trong nhà lên xem. Đây là sách của các lớp dưới, tương tự quyển Luân lý và Khoa học thường thức ở Miền Bắc, được in nhiều mầu khá đẹp và giấy rất tốt. Thấy có chồng báo mốc meo ở góc nhà, tôi đem ra đọc. Báo “Sóng thần” thì phải, trong đó có bài tường thuật trận đột kích của đơn vị Biệt động quân Cọp rằn vào một Trạm Giao liên trên đường mòn Hồ Chí Minh. “…Bị đánh bất ngờ, các con cháu của Đảng và Bác đã quăng cả súng mà chạy, quên mất lời thề thứ 8 của họ là đến chết không rời vũ khí… Cọp rằn tịch thâu được 4 súng Cộng đồng và 12 súng cá nhân…”. Nội dung không có gì mới nhưng cách hành văn buồn cười quá.
Buổi tối, tôi và Chính chui xuống hầm dưới tát cạn nước rồi trải rơm nằm ngủ. Còn anh Thanh và Quang, Bích thì nằm trên hầm hở sườn.
Đã sang ngày thứ ba của đợt hành quân.
Sáng sớm Quang đi với Bích lên D bộ lấy gạo. Tôi tha thẩn lượn ra ven làng chơi. Cái xóm trước mặt sao mọc nhiều chuối thế. Chợt tôi thấy trên bờ ruộng cách khoảng 200m có một con chó đang chạy lon ton. Tôi vội lao vào nhà vớ lấy khẩu AK, nhưng tới nơi thì nó đã lủi đâu mất, tiếc thật. Đành tự an ủi: xa quá, có bắn chưa chắc đã trúng. Thực ra bọn chó hoang nhiều con ăn cả thịt người chết, nhưng lính ta bắn được vẫn đem chén ngon lành. Có cậu bên C10 bắn được con lợn hoang to tướng, đen sì. Nhưng nhìn cái mặt nó ghê quá, có 2 răng nanh dài, vểnh lên, chẳng ai dám ăn.
Anh Thanh về gọi tôi đi họp. Cậu Minh người Thái Bình, A trưởng A5 và ông Tin người Hải Phòng, A trưởng A6, đã đứng đợi sẵn. Cả bốn người khoác súng đi loanh quanh mãi mà không tìm thấy C bộ. Một cuộc tham quan phong cảnh bất đắc dĩ. Chúng tôi vào xem cả đình làng, băng qua hết hàng rào này đến vườn cây khác. Chợt nghe có tiếng ì ầm như máy bay phản lực. Nhưng không phải, đó là tiếng xay lúa ở ngôi nhà gần đấy. Hóa ra có hai o du kích địa phương cùng một ông già đang xay và sàng gạo. Chúng tôi ghé vào hỏi đường. Hai o du kích tuổi chừng đôi tám, xinh lắm, miệng tươi như hoa, nói cười ríu rít. Nhưng tôi chẳng hiểu họ nói gì cả, ví dụ: “Ô tề ôông tra tề... Răng tui nhủ ôông ngồi lổ ni ôông lại đi ra tê rứa?” Theo tôi hiểu thì một o chế o kia là quan tâm đến tôi quá mức, hay là mê tôi rồi.... O kia tức quá đỏ mặt quát: “Tau xán cho mi một đọi trửa mặt bây chừ...” (???).
Chúng tôi lại phải loanh quanh đi tìm mất một lúc nữa, tưởng muộn rồi nhưng khi đến nơi thì cuộc họp mới bắt đầu. Anh Hộ Đại đội trưởng đã đi chuẩn bị trận địa từ mấy hôm trước, nên anh Phùng Chính trị viên chủ trì. Anh nói về tình hình của E64 và D1 của Trung đoàn tôi đang tác chiến. Chúng ta đã đánh bại bước đầu cuộc hành quân “Sóng thần 36” của địch, các Tiểu đoàn 2, 4, 8 thuộc Sư đoàn Thủy quân lục chiến ngụy đang hoảng loạn. D1 đâu đã diệt được một đại đội địch và đánh thiệt hại nặng một đại đội khác. Nghe anh nói chúng tôi rất phấn khởi. Sau đó đến mục đăng ký diệt địch: B này chỉ tiêu phải diệt bao nhiêu tên, bắn cháy mấy xe tăng, A kia bắt sống mấy tên, bắn cháy bao nhiêu xuồng máy... Thực sự thì tôi không tin vào tiết mục này lắm. Mấy cậu A trưởng của Trung đội 1 ngồi bên cạnh tôi đang xem hai quyển sách Giáo khoa lớp 6-7, nội dung cũng hay hay. Cuối cùng anh Phùng phổ biến kế hoạch hành quân tối nay và lệnh cho các A nấu cơm nắm.
Trên đường về, bốn đứa B2 chúng tôi còn bươn ra ngoài làng, nhảy lon ton trên mấy cái mả to tướng, hái được một lô rau muống. Quang và Bích mới đi lấy gạo về còn mệt nhưng cũng phải chuẩn bị hành quân. Bích không phải làm anh nuôi trung đội nữa, nên đi lĩnh vũ khí là một khẩu AK “mẻ nòng” về. Như vậy cả ba khẩu AK của tiểu đội tôi đều là loại “mẻ nòng”. Sở dĩ gọi thế vì nòng loại AK này vát nhọn ở phía dưới, thân súng sơn xì đen, không gỉ bao giờ. Súng này nhẹ, báng và ốp che tay bằng gỗ dán, thước ngắm 10, đạn đi rất căng. Tôi rất quý khẩu súng của tôi mang từ Hà Nội vào, còn nhớ số súng là 0057.
Mỗi tay súng AK mang 200 viên đạn và 4 quả lựu đạn. Khoảng 5 giờ chiều, trời mù vì trần mây thấp, thế mà vẫn có một loạt bom tọa độ đánh trúng vào cái làng nơi chúng tôi sắp tới tập trung. Tuy vậy tất cả vẫn nai nịt gon gàng và lên đường.
Tôi bước đi, trong lòng rất thanh thản, vui vẻ ngắm cảnh vật bên đường, có biết đâu những nguy hiểm khủng khiếp sắp xảy tới với mình. Hình như có điềm xấu báo trước thì phải. Khẩu AK đeo trước ngực thỉnh thoảng khi đi tôi vẫn nghịch bóp bóp cò súng. Hôm nay vừa sờ đến cò thì “đoàng” 1 phát, viên đạn lửa lao vút ra khỏi nòng, bay đi xa mãi. Tôi hết cả hồn vía. May mà không có ai đi bên cạnh, vì đoàn quân theo đội hình hàng một, không thì chắc có cậu đã bỏ mạng. Anh Thanh đi ngay trước tôi, quay lại nhìn có vẻ trách móc nhưng không nói gì.
Qua mấy cái vườn mới bị bom tọa độ, đất đen thui khói còn khét lẹt, chúng tôi bước vào chỗ tập trung. Thấy mấy người lính B3 đang xúm quanh Châm “Bà Triệu”, còn gọi là Châm thối tai, băng bó đầu gối bị thương vì mảnh bom cho cậu ta. Châm nằm trên thềm nhà, mặt tái nhợt, thỉnh thoảng kêu khóc đau đớn, máu ở đầu gối vẫn thấm đỏ qua mấy lần băng trắng. Chúng tôi tản vào mấy ngôi nhà quanh đó ngồi chờ. Tất cả đều cảm thấy một nỗi sợ mơ hồ.
Gần tối mới tập trung đủ, chúng tôi tức tốc lên đường. Đi đầu là B1 rồi tới B2. Vừa đi khỏi làng khoảng 200m thì một loạt hơi phần phật thổi tới làm cả bọn nằm bẹp xuống đất. Lại bom tọa độ rồi. Tôi ngoảnh lại nhìn, thấy hoa cà hoa cải vung lên tung tóe ở đội hình B3. Mảnh bom bay vèo vèo trên đầu, một mảnh rơi xịt vào vũng nước cạnh tôi. Cũng may khi dứt loạt bom, chỉ có Dũng “Pa-ti-nhom” bị sức ép, còn toàn đơn vị không sao cả.
Chúng tôi đi rất nhanh. Khổ nhất là mấy cậu khiêng cáng Châm, đã nặng lại còn phải chạy. Đi mãi mà không đến nơi, hình như bị lạc rồi. Trời tối như mực, đường bờ ruộng thì nhỏ, lính ta trượt chân ngã oành oạch. Khi tôi ngã, thường Chính con quay lại nâng. Lúc Chính ngã, tôi phải lôi mãi cậu ta mới dậy được. Ngã đau nên cậu ta hay cáu vô cớ. Đôi dép đúc bị tuột quai liên tục, cứ mỗi lúc nghỉ đều phải tranh thủ rút lại. Bắt đầu lội xuống ruộng nước, nhưng may không có bùn, kiểu ruộng khô mọc cỏ mới bị ngập nước. Chúng tôi cứ băng đi ào ào. Rét quá, lác đác có hột mưa. Chợt hiện ra mấy cái gò nhỏ, hình như sắp tới sông, tất cả lăn ra trên gò nằm nghỉ. Rồi lại vội vàng choàng dậy vì anh Thanh đã hô: “B2, đi!”.
Mưa. Gió. Trời tối đen, rét căm căm. Những bàn chân lội nước ào ào, đoàn quân đã ra đến bờ sông Thạch Hãn.
Đó là đêm 28-11- 1972. Bến Gia Độ thì phải.
Những chiếc xuồng cao su cập bến, mỗi tiểu đội lên một chiếc. Xuồng của tôi có 6 người: cậu công binh chèo thuyền ngồi một đầu, anh Thanh B trưởng ngồi một đầu. Tôi với Bích ngồi đối diện ở hai mạn thuyền, đứa này bá vào vai đứa kia. Chính và Quang làm thành một cặp tương tự. Khẩu súng tôi đặt xuống đáy thuyền. Vừa bước lên, xuồng đã bập bềnh chao đảo, cậu công binh phải gò người giữ. Anh Thanh lội đẩy xuồng ra rồi nhảy lên. Nó chòng chành rất mạnh làm chúng tôi sợ. Tuy vậy tôi vẫn nói cứng với cậu công binh: “Ra khơi nhờ tay lái vững, lo gì!”. Trời vẫn tiếp tục mưa. Ra đến giữa sông, sóng to quá, ào cả vào xuồng làm ướt hết quần áo. Bất thần một cơn sóng dâng cao làm nghiêng xuồng, chúng tôi hốt hoảng nhổm cả dậy. Nhưng đã muộn, tôi cảm thấy mình ngã lộn qua đầu Bích, rơi tõm xuống nước, miệng vẫn còn thảng thốt: “Ô…chìm à?”. Đối với tôi lúc đó cái chết tưởng như không gì cứu vãn nổi. Thứ nhất, tôi là người bơi rất kém. Bình thường thì từ đây vào bờ cũng không thể bơi nổi, huống hồ sóng to gió lớn lại tối mịt như lúc này. Thứ hai, cái ba-lô quá nặng với 200 viên đạn và 4 quả lựu đạn đang như tảng đá kéo tôi chìm xuống. Lại thêm tấm vải mưa cứ quấn lùng nhùng vào đầu trong khi tôi quẫy lộn ùng ục. Một ý nghĩ đau đớn thoáng qua: “Không có lẽ mình chết? Mình chết một cách vô lý, một cách uổng phí như thế này ư?”. Cái chết như 1 bóng đen khổng lồ đang lạnh lùng ập đến…
Nhưng số tôi chưa chết. Lúc đó tôi vẫn giữ được bình tĩnh, nín thở, ra sức khỏa tay nhoi lên. Cái túi ni-lông bọc quần áo cho khỏi ướt trong ba-lô trở thành 1 chiếc phao giúp tôi ngoi tới mặt nước. Tình thế vẫn tuyệt vọng, thì bỗng một cái gì đó đập vào đầu tôi. Ngoảnh lại, tôi thấy chiếc xuồng cao su tuy bị lật nhưng vẫn nổi. Tôi vội vàng bám vào ngay.
Lần lượt anh Thanh, Bích, Chính, Quang cũng bám vào được. Tôi dùng một tay tháo ba-lô cho trôi theo dòng nước, đành phải bỏ của cứu người. Cảm thấy mệt lắm rồi, hai tay bíu xuồng cứ từ từ rời ra. Tôi sờ được một đoạn thừng buộc thuyền bèn quấn chặt cổ tay mình vào đó. Cả lũ kêu cứu nhưng không hét to được vì mệt và rét. Những tiếng kêu run run trong đêm nghe thật thảm thương. Nghe rõ cả tiếng hàm răng anh Thanh đập cành cạch. Tôi vẫn động viên mọi người giữ bình tĩnh.
Rồi cuối cùng một chiếc xuồng khác cũng đến cứu. Tôi phải đạp vào người Bích mới lên được, sau này Bích cứ trách tôi mãi. Xin lỗi bạn nhé, tôi không cố ý…
Tới bờ, cả bọn ướt lướt thướt run rẩy bước lên. Đồ đạc súng ống mất hết, tôi chỉ còn độc một chiếc dép. Hàm răng người nào cũng gõ liên hồi.
Từ đó hàng năm ngày 28-11 trở thành ngày Phục sinh của tôi. May là cái bến có tên gọi Gia Độ, chứ không phải Tiền Đường...
Tìm mãi mới thấy đơn vị. Năm đứa lê gót như mộng du vào một ngôi nhà, nằm vật xuống sàn đất ướt lạnh và thiếp đi.
Sau một đêm ngủ như chết, sáng dậy tôi đi lĩnh khẩu súng mới. Phải mượn dép Ngô Duy Minh A5 mà đi vì trời mưa, đường trơn. Tới B1 người ta đưa cho tôi khẩu AK của Lâm Thành, một cái bao đạn kiểu đeo trước bụng và 60 viên đạn. Nói là súng mới, nhưng thực ra khẩu AK Trung cộng này rỉ ngoèn, và đã qua tay Chí Thành, Lâm Thành trước khi tới tôi. Nhưng thôi, có còn hơn không. Biết tôi bị mất hết đồ đạc, Lâm Thành xé cho một nửa cái võng.
Khi quay lại, thấy cả tiểu đội đang nấu cơm. Anh Thanh cử tôi ra bờ sông hôm qua lấy về cho mỗi người một quả cối 60 nghĩa vụ (mang hộ cho Tiểu đội hỏa lực A10). Dọc bờ sông thấy hàng hóa chất đống. Bao gạo ngổn ngang trên bờ, dưới sông. Hòm đạn đủ loại đủ cỡ: 6,72ly, 7,9ly, 12,7ly, rồi ống nhựa đựng đạn cối 60ly, 82ly, B40/B41, liều phóng….xếp chồng lên nhau. Đầu tiên tôi tranh thủ phá hai bao gạo lấy mấy túi ni-lông về làm ba-lô cho tôi và cho Chính. Rồi lục tìm lấy đủ số đạn cối 60 về cho tiểu đội. Chợt thấy mấy cái ống trụ màu vàng bằng sắt tây cỡ cổ tay, có đề “Đạn phóng dùng cho AK”, tôi xách về hai hộp. Tới nhà tôi và anh Thanh mở ra, thì là mấy quả phóng lựu AT Việt Nam. Loại của Tàu tôi đã thấy ở Cam Lộ, đựng trong hộp nhựa. Xem quyển sổ nhỏ hướng dẫn sử dụng, thấy súng AK của mình thiếu phụ tùng lắp ở đầu súng để phóng. Chúng tôi bèn quẳng đi tuốt, chỉ giữ lại mấy viên đạn hơi đem bắn chơi. Nói chung cái loại AT này không thông dụng bằng B40.
Đang ăn cơm thì cậu liên lạc đại đội xuống kêu anh Thanh mang đầy đủ trang bị đi trinh sát trận địa. Anh gọi ông Tài sang bàn giao Trung đội, và chỉ định tôi làm B phó thay Tài.
A5 được phân sang nhà bên cạnh để ở, nhưng các cậu ấy không muốn đi vì sang đấy phải dọn hầm bẩn. Anh Thanh phải quát lên ra lệnh họ mới đi.
Anh Thanh đi rồi, A nào chỉ biết A nấy, ông Tài không có ý kiến gì cả làm tôi rất bực.
Buổi chiều tôi cùng Chính con ra vườn hái rau, còn Bích và Quang nấu ăn. Cái nhà mà bọn tôi ở nằm ngay ven làng, phía trước có con đường chạy ngang rồi tới một cái ngòi dài nối với sông vượt hôm qua. Một toán lính của đơn vị nào đó đang đi lấy gạo qua chỗ chúng tôi. Chợt nhận ra cậu Đạt, trước cùng huấn luyện ở C49, sau được bổ sung về D1, tôi vội chạy ra hỏi tình hình và hỏi về Lê Thanh Bình, bạn học cùng lớp 10B của tôi. Đạt cho biết, địch đang ở cách đây khoảng 7 km, vùng này hay bị bom tọa độ, còn Lê Thanh Bình thì đã bị thương hỏng một mắt, và đã ra Bắc rồi. Biết vậy nhưng tôi lại thấy mừng cho Lê Thanh Bình từ nay thoát nạn, và vội đi vào nhà giục mọi người củng cố hầm hố.
Trời mù nên máy bay địch không hoạt động nhiều. Tôi và Chính con đang hái những cây rau muống còi cọc đã mọc hoa tím, chợt “X…é…t! X…é…t”, hai tiếng rú khủng khiếp làm chúng tôi vội nằm mọp xuống. Rồi nghe có tiếng lao xao, thì ra các cậu pháo binh DKB gần đấy vừa phát hỏa. Dù biết như thế, nhưng mỗi lần nghe phóng DKB, một loại đạn phản lực cỡ 122ly, chúng tôi vẫn không kìm được nỗi hoảng hốt. Quân địch khiếp sợ DKB của ta cũng phải. Các chiến sĩ DKB khi bắn phải nút tai, nên họ hô khẩu lệnh rất to, chúng tôi ở cách đó vài trăm mét mà vẫn nghe rõ.
Buổi tối, Bích và Quang xuống cái hầm bé tí nằm ngủ. Tôi và Chính đành tặc lưỡi: “thôi nằm trên vậy, chết bỏ!...”. Hai thằng rút rơm từ cây rơm ngoài sân đem vào rải ra sàn rồi mắc màn ngủ. Tôi nói với Chính: “ D3 của ta sắp vào thay D1. Hai đứa mình phải bám chắc nhau trong chiến trận, nếu một thằng bị chết hoặc bị thương thì thằng kia phải cố sức mang ra. Không ai thương mình đâu… Phải học thuộc địa chỉ của nhau ở Hà Nội: Chính, Tập thể P18 Hoàng Hoa Thám; Vinh, nhà B1 KTT Nguyễn Công Trứ, để có gì còn về báo cáo với gia đình…”. Đã thấy nhớ anh Thanh. Tiếng pháo kích vu vơ lúc xa lúc gần đưa chúng tôi chìm dần vào giấc ngủ.
Buổi sáng hôm sau chúng tôi đi lấy thêm gạo rồi lau chùi vũ khí. Đến gần trưa thì anh Thanh về. Tối qua các cán bộ của C11 đã bò vào gần làng địch để trinh sát. Anh báo tin vui là anh đã có Quyết định kết nạp Đảng ký hôm 28-11-1972, thật là một ngày khó quên…
Tiểu đội tôi vừa ăn cơm xong thì liên lạc đại đội xuống báo chuẩn bị hành quân ngay. A5 vẫn chưa ăn xong, A6 thậm chí còn chưa thổi cơm. Anh Thanh cáu quá, quát ông Tài ầm ĩ.
B2 ra tập trung chậm, bị anh Khuông C phó xạc cho 1 trận. Cả bọn phải chạy để đuổi kịp đại đội.
Phía bên phải là một con sông nhỏ, chúng tôi đang đi xuyên qua những làng ven bờ. Nhà cửa nhiều chỗ tan hoang quá. Trên một số bức tường đổ, được quét vôi xanh dương hoặc xanh trời, còn thấy các khẩu hiệu “Quân dân Triệu Phong quyết đập tan cuộc hành quân tái chiếm của địch” hoặc “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”… Nhưng tôi cũng từng thấy những khẩu hiệu khác, trong một ngôi nhà của Lý trưởng hay trụ sở Hương thôn gì đó. Khắp nơi dán những băng giấy ghi “Người cày có ruộng”, “Cần kiệm liêm chính”, “Nhân vị” (Vì dân)... nghe quen quen. Cả những khẩu hiệu đao to búa lớn hơn như kiểu “Tổ quốc trên hết”, “Tổ quốc, Danh dự, Trách nhiệm”... Có cảm tưởng hình như Lý tưởng của bọn nó cũng giống của mình, chỉ có điều bọn nó thực hiện sai?...
Chúng tôi đi qua một làng D1 đang đóng, thấy mấy cậu C49 cũ vẫy tay, trong đó có cả Mai Xuân Hiển. Dọc đường hành quân nhiều lần phải dừng lại để dồn đội hình. Nghe nói sắp phải vượt sông. Đoàn quân đi trên đồng, gió thổi ù ù. Tôi vẫn một chân dép, một chân không, khổ quá. Chợt thấy mấy cậu lính đi ngược lại, toàn người quen cả, trong đó có Luận gẩy ghi-ta giỏi ở C49. Các cậu ấy đang gánh chiến lợi phẩm, một đầu là bó súng M16, đầu kia là hai khẩu đại liên M60.
Gặp nhau tay bắt mặt mừng, tuy nhiên tôi cũng nghe tin thêm là một số bạn đã chết: anh Ngạn giáo viên, cậu Ngọ… vv. Luận đang đi một đôi giày Thủy quân lục chiến Mỹ, sau cóc ba-lô nhét 1 đôi dép đúc. Tôi bèn xin đôi dép, nhưng Luận lại cởi đôi giày ra đưa cho tôi. Đôi giày Mỹ này cỡ 5W, màu đen, đế cao su, hai bên mép có lỗ thoát nước, lội nước rất tốt, tôi đi rất vừa. Tới bờ sông, cả bọn tản vào mấy cái lôcốt xây liền nhau ở đó. Tôi khoe đôi giày với Ngô Duy Minh, người cũng đang khổ sở vì tuột dép. Sông quãng này hẹp, chúng tôi lại vượt bằng xuồng cao-su. Trên xuồng vẫn đủ thành phần 6 người như bữa nọ. Nhiều lúc xuồng tròng trành mạnh, tôi đưa mắt nhìn anh Thanh, thấy anh cười. Cuộc vượt sông an toàn, tôi ngồi nói chuyện với Duy Minh. Cậu ta hỏi: “Tao tưởng mày lên B phó rồi chứ?”. Anh Thanh quay sang bảo Duy Minh: “Thằng Vinh nó sắp thay tao được, B phó là cái gì…”. Khi lội qua những đoạn đường ngập ngụa, tôi thấy đôi giày Mỹ tốt thật, thoát nước rất nhanh. Anh Hưởng, Chính trị viên phó đã đứng đợi sẵn, bảo bọn tôi vào một ngôi nhà gần đó ngồi đợi. Trong nhà chất đầy những bao tải thóc gạo. Hộp ghi-gô, bát đũa, xoong nồi, lưới đánh cá…quăng khắp sân. Tôi nói chuyện với anh Đạm B phó C49 cũ.
Đại đội lại tiếp tục hành quân. Chúng tôi đi men theo con sông, lúc này đã ở bên trái. Tới chỗ này nó trở thành mênh mông, giữa dòng nổi lên một hòn đảo rộng, cỏ mọc xanh rì. Một đàn trâu rất đông đang ung dung gặm cỏ trên đảo, vì ở đó chúng cảm thấy an toàn. Nếu chúng ở bên này, thể nào cũng bị lính ta bắn rồi xẻ thịt. Tôi đã nhìn thấy những xác trâu trương phềnh, hai đùi sau bị cắt mang đi mất. Gió thổi ào ào, thoáng nghe tiếng ì ầm của biển, sóng đánh oàm oạp vào bờ. Bãi cát ven sông thấy nhiều con cá biển bị dạt lên đã chết khô, cùng nhiều bèo bọt rác rều.
Chúng tôi đi vào một làng có tên gọi Vân Tường hay Lệ Xuyên gì đó. Trong làng còn thấy hai gia đình dân và một tổ du kích trụ lại. A4 được phân vào một nhà có cái hầm khá tốt. A5 và A6 bị phân vào 2 cái nhà hoang, phải đào hầm, nên các cậu ấy có vẻ bực bội. Buổi chiều ăn cơm theo Trung đội, nấu nướng ở nhà A6. Có lệnh tối nay đi chiến đấu, nên phải nấu thêm cơm và nắm cho mỗi người 1 nắm. Ăn xong tất cả về sửa soạn vũ khí. Anh Thanh ra lệnh cho mọi người tìm vải trắng buộc vào cánh tay để nhận ra nhau khi chiến đấu ban đêm. Tôi đi vào 1 nhà bỏ hoang để tìm vải. Vẫn cảnh ngổn ngang quen thuộc, và rất nhiều quần áo vứt bừa bộn. Tôi lôi ra 1 cái áo dài trắng. Một mình trong ngôi nhà vắng, trong khung cảnh tịch mịch của hoàng hôn, cái áo dài trắng lay lắt như sống động làm tôi thấy rờn rợn. Tôi bèn vứt nó đi và lấy 1 cái may-ô trắng mang về.
Buổi tối, chúng tôi nai nịt gọn gàng, ngồi đợi lệnh dưới hầm trong nhà. Cái hầm chữ A này rộng thật, hai đầu là hai thùng phuy to, đỡ một cây cột vuông dài làm đòn nóc. Hai sườn hầm toàn là những súc gỗ to nặng, vuông vắn, đất đắp lên như cái gò con. Thấy hầm chắc chắn, cậu Trường “Khâm Thiên” ở A6 chạy sang rúc vào ngồi với chúng tôi, bị anh Thanh đuổi về.
Cuối cùng lệnh tập hợp cũng đến. Cả Trung đội nhanh chóng mang vũ khí ra khỏi hầm. Trời tối như mực, lại hơi mưa, tôi bị vấp vào dây thép gai ở hàng rào, may không việc gì.
Các trung đội khác cũng đã tới, cùng tản vào mấy ngôi nhà của tổ du kích ngồi nói chuyện. Còn phải đợi bộ phận đại liên và DKZ phối thuộc tới nữa. Lệnh tập hợp đại đội phát ra. Chúng tôi nhanh chóng đứng vào đội hình, im lặng. Trước trận đánh đêm nay, sao tôi thấy hồi hộp thế. Đó cũng là tâm trạng chung của mọi người. Chỉ mấy tiếng nữa thôi, ai trong số những chiến sĩ đang đứng thẳng người nghe mệnh lệnh này sẽ vĩnh viễn ngã xuống? Có thể là mình chăng?...
Anh Phùng, Chính trị viên đứng trước hàng quân động viên đơn vị. Tôi tự nhủ thầm: “Anh cứ yên tâm, tôi sẽ chiến đấu một cách xứng đáng”. Tiếp đó anh Hộ, Đại đội trưởng, lên phổ biến kế hoạch tác chiến. Đại khái B2 của tôi có nhiệm vụ đánh chiếm một đồi cát nhỏ nào đó. Nhưng cái giọng nói bình thản, thân ái của anh đã làm cho chúng tôi ấm lòng. Anh nhắc mọi người kiểm tra tất cả lại lần cuối, dặn chúng tôi bình tĩnh. Chiến đấu cùng một đại đội trưởng như vậy thấy rất yên tâm. Thực ra chúng tôi chỉ ngại mỗi vấp phải mìn, nhất là mìn định hướng.
Tất cả lại lên đường. Trời tối nhanh thật. Tôi nhìn những ngọn hỏa châu ở góc trời, bụng tự hỏi: địch ở đó chăng? Ta đang đi đến đó chăng?... Hành quân vất vả quá. Chẳng hiểu ai dẫn đường mà phải lội nhiều thế, nhiều chỗ lội tới bụng, nước lạnh buốt. Mưa bắt đầu nặng hạt. Tôi quàng tấm nilông làm bằng bao gạo, rồi trùm mũ mưa lên. Cái mũ mưa vải bạt này là do Lâm Thành cho, vì tôi bị mất cả mũ tai bèo lẫn mũ cối.
Bắt đầu bước lên một doi cát dài. Thấy có mùi vừa tanh vừa thối: chắc quanh đây có xác trâu bò chết. Chúng tôi đi ven theo rìa cát. Hàng rào của dân cũng làm bằng dây thép gai, vấp vào đau điếng. Đoàn quân đi đã rất lâu, nhiều người bị lạc, cán bộ phải bấm đèn pin gọi. Cuối cùng cũng có lệnh nghỉ. Quân ta chui hết vào hai ngôi nhà gần đấy. Mưa rơi rào rào. Trong ngôi nhà tôi trú, lính đông nghẹt. Anh Hộ và anh Phùng đang ngồi cạnh cậu thông tin 2W, tìm cách bắt liên lạc với Tiểu đoàn. Chợt có lệnh gọi các A cử người đi lấy thêm đạn: mỗi A phải mang thêm 3 quả B40 hoặc DKZ nữa. Tôi và anh Thanh đi lĩnh về giao cho anh Tài phân phát. Lính mình lười thật, cứ đùn nhau, chẳng ai chịu nhận. Sao đợi lâu thế không biết? nửa đêm rồi còn gì. Cuối cùng anh Phùng tuyên bố hoãn cuộc tập kích tối nay, tất cả thở phào nhẹ nhõm. Lúc đi ra khỏi nhà, tôi vớ nhầm tấm ni-lông của ai khá rộng, lại thắt nút quanh cổ rất khít. Thấy anh Hộ cứ loay hoay tìm mãi mà chỉ thấy tấm ni-lông của tôi bỏ lại, tôi cứ lờ đi. Bây giờ thấy ngượng quá, xin lỗi anh nhé…
Đoàn quân quay trở về. Lại ngòi nước ngập bụng lạnh giá, lại doi cát, mùi hôi, và mưa. Mưa ào ào. Những giọt mưa to thô lố, quất phũ phàng vào mặt. Nhiều lúc rát quá, tôi phải nhắm mắt lại. Có một lần vì thế mà bị lạc. Khi Chính con đi sau gọi, tôi mở mắt ra thì chẳng thấy người trước đâu, mà phía sau là cả một đoàn người. Tiếng mưa át hết tiếng chân người đi trước. Chúng tôi phải chạy, thỉnh thoảng lại gọi to và cúi sát đầu xuống đất nhìn lên để tìm bóng người. Thấy bốn bề đều như nhau, tiếng chửi bới phía sau cất lên ầm ĩ. May quá, cuối cùng cũng theo kịp người đi trước. Hú vía, lơ mơ dễ đi lạc vào làng có địch chứ chả chơi.
Chúng tôi lại chui vào căn hầm quen thuộc, nằm lên cái dát giường bằng tre ọp ẹp, bên dưới sàn toàn nước, che nilông hai cửa hầm và ngủ mê mệt.
Ngày 01-12-1972
Buổi sáng chúng tôi dậy muộn. Trời mây mù, không gian yên tĩnh. Tiếng pháo biển bắn suốt đêm qua, bây giờ im hẳn. Chỉ nghe tiếng hàng thông vi vu và tiếng ì ầm của sóng biển đâu đây. Tôi ngồi buộc lại chiếc gùi, trong đó có nửa cái võng, một quả đạn cối 60 nghĩa vụ, và một ít truyền đơn địch vận…
Đến chiều nghe phong thanh rằng tối nay lại đi tập kích. Một đơn vị mới đến, muốn tiếp nhận mấy cái hầm của chúng tôi. Đó là các chiến sĩ của Sư đoàn 325. Anh Thanh chỉ cho họ sang mấy ngôi nhà hoang chưa có lính ở.
Chúng tôi nấu cơm ăn no, cho cơm nắm vào gùi, buộc khăn trắng vào tay. Vừa sẩm tối lại tập trung đại đội. Vào nhà C bộ đóng tôi thấy có mấy o du kích và hai đứa trẻ con. Ba lô của B1 xếp đống trong nhà. Anh Hộ, Đại đội trưởng cao lênh khênh, chân đi giày cao cổ, thắt lưng Mỹ gài lựu đạn mỏ vịt, cổ quấn võng dù, đang gọi mấy cậu lính hỏa lực phối thuộc ra tập hợp.
Đại đội xuất phát. Hôm nay nhất định đánh rồi. Đi hơn một tiếng thì có lệnh nghỉ. Cả bọn tạt vào một ngôi nhà. Tối om, mấy cán bộ đại đội đang tụ họp ở cái hầm trong góc nhà bàn bạc. Tôi vào bếp, thấy còn đốm đỏ, bèn cời than ra sưởi. Quang, Bích thì châm thuốc hút. Tôi đang buồn vì không có Chính đi cùng hôm nay. Lúc sắp lên đường thì tự nhiên cậu ta đau bụng dữ dội, Y tá phải chạy đến khám, nên cu cậu nằm nhà. Dù sao có Chính cùng chiến đấu tôi vẫn yên tâm hơn.
Hơn 20h rồi, sao vẫn chưa đi? Hay lại quay về? Nhưng rồi lệnh đi được truyền ra, chúng tôi bám sát nhau bước gấp, trong lòng thấy hồi hộp. Lội qua một ruộng nước đầy cỏ, phía trên truyền xuống: “Vượt nhanh qua đường cái!”. Đây rồi, con đường nhựa phẳng lì, rộng thênh thang. Nghe vang lên những tiếng động dồn dập, khô khốc dưới gót chân người lính. Đường này tốt thật, nó chạy thẳng ra cảng Cửa Việt. Đường 4 thì phải...
Chúng tôi đi trên bãi cát trống. Tất cả bước gấp. Bỗng một quầng vàng rực lóe lên trước mắt, chưa kịp hiểu gì thì tiếp đó là hai tiếng nổ xé tai. Tôi nằm bẹp xuống. Mảnh bay vù vù. Bây giờ mới nghe tiếng rít xoèn xoẹt của đạn pháo và mấy quầng lửa lại lóe lên gần đó. Tất cả chạy tán loạn. Không kịp nghĩ gì, tôi cũng chồm dậy chạy. Thấy có mấy cậu vẫn đang nằm. Hình như có tiếng rên. Tôi vẫn cắm cổ chạy. Tới lúc hoàn hồn, cả bọn mới tập hợp lại. Nghe nói có hai người bị thương là cậu Đăng liên lạc và anh Đạm (B phó huấn luyện của tôi, nay là B phó B3, bị vào chân). Rồi chúng tôi lại đi vào một làng và gặp anh Phùng đứng đón. Còn thiếu một trung đội và A10 Hỏa lực.
Đành phải đợi thôi, tất cả chia nhau tản vào các mảnh vườn ven đường ngồi nghỉ. Bị cú vừa rồi cũng hơi hoảng, nhưng nó càng chứng tỏ rằng tôi không thể chết vì đạn pháo (ở Quán Ngang cũng đã bị một cú tương tự). Anh Phùng từng nói: “Bị pháo kích, có chết thì thường chết vì quả đạn đầu, chứ ít chết vì những quả sau.” Ai ngờ câu nói đó sau này lại vận đúng vào anh.
Cứ như vậy, chúng tôi đi suốt đêm, lội giữa những cánh đồng đầy cỏ, nước ngập đến gối. Làng mạc bốn phía tối đen, chẳng hiểu của ta hay của địch. Tối quá nên cậu dẫn đường bị lạc, không tìm thấy cái làng C tôi phải tập kích. Xa xa thấy một đoàn người cũng đang lội. Đó là C12, C hỏa lực của Tiểu đoàn tôi. Các cậu ấy còn phải khiêng vác nặng, vất vả hơn nhiều.
Đã gần sáng rồi, có lẽ phải quay về thôi. Mà có lẽ chúng tôi cũng đang quay về thật. Một làng gần đấy đang bị pháo kích. Những bựng khói màu da cam chói lọi cuộn lên sau ánh chớp, tiếp theo là tiếng nổ ùng oàng. Không hiểu khẩu cối cá nhân từ đâu cứ “cạch oành”, “cạch oành” bắn mãi ra đồng nước.
Còn chúng tôi thì vẫn lội giữa cánh đồng. Gần 3h sáng rồi, bóng đêm đã nhạt dần. Đoàn quân đang đi ven theo một cái làng đen thẫm. Xung quanh thấy có hầm kèo, ụ cát nhô cao như những cái mả. Hồi hôm chúng tôi cũng đã gặp một cái hầm giữa bãi cát, to như một quả đồi con, trong đó có hai cậu lính thông tin. Cả bọn lúc đó ngồi nghỉ và tôi đã ngủ gật. Đang đi tự nhiên tất cả dừng lại, tôi bèn vọt lên trước thì thấy mấy cán bộ chỉ huy đang nói chuyện với nhau (về sau tôi nhận ra trong đó có anh Căn, quyền D trưởng). Hình như đây là Tiểu đoàn bộ. Rồi có lệnh cho C11 cấp tốc quay lại tập kích! Chúng tôi hết sức sửng sốt, lập tức tất cả tỉnh như sáo…