Nguyên tác: La Peau Du Pachyderme
Số lần đọc/download: 1895 / 36
Cập nhật: 2016-07-06 02:05:58 +0700
Chương 6: Nhanh Chóng Thống Nhất
S
au giải phóng, Nam Việt Nam có thể tự mình đảm đương được nhiệm vụ khôi phục lại không?
Khi xem xét những cơ cấu thừa hưởng của chế độ cũ thì người ta thấy ngay khó khăn là điều tất nhiên: nên công việc đang tồn tại phụ thuộc hoàn toàn vào nước ngoài. Năm 1971, tờ tạp chí của phòng thương mại và công nghiệp Sài Gòn đã vẽ ra một bức tranh như sau: “Đặc điểm của công nghiệp Nam Việt Nam thể hiện ở một thực tế là toàn bộ máy móc cũng như phần lớn nguyên liệu để sản xuất đều phải nhập từ nước ngoài. Mà phần lớn những ngành công nghiệp của nó thì đều có quan hệ mật thiết với nhập khẩu nguyên liệu: 90% đối với đường, 70% đối với công nghiệp thực phẩm, 95% đối với dệt, 95% đối với thuốc lá, 80% đối với giấy...” Mặt khác, cơ cấu công nghiệp của Nam Việt Nam lại rất mất cân đối: riêng sản xuất bia, nước giải khát không có chất cồn và thuốc lá đã chiếm 73% của tổng sản phẩm công nghiệp. Và nếu có một vài dự định thay đổi nào đó thì công nghiệp Nam Việt Nam cũng không nhằm sản xuất cơ khí hay tạo ra một cơ sở công nghiệp nặng nào.
Thế mạnh của kinh tế miền Nam là nông nghiệp và nghề cá. Nhưng thế mạnh đó như thế nào? Chỉ riêng nông nghiệp mà nói thì bản thân nó đã có những hạn chế lớn: mặc dù trình độ cơ giới hoá phát triển, nhưng việc thâm canh của nó lại yếu và năng suất đạt được thấp, lúa mỗi năm chỉ trồng một vụ, khác với miền Bắc cấy những hai, ba vụ. Ngay việc cơ giới hoá của nó cũng làm nảy sinh một số vấn đề, bởi việc đó đòi hỏi phải có nhiên liệu và phụ tùng thay thế. Hơn nữa nhiều diện tích lớn do chiến tranh phải bỏ hoang hay vẫn chưa được khai phá...
Nghề cá và khai thác từng có nhiều khả năng lớn. Những trung tâm đánh bắt cá lớn thường có nhiều ở miền Nam. Nhưng ở đây thì ngư dân cũng gặp phải những vấn đề về phụ tùng và nhiên liệu của việc cơ giới hoá. Tuy nhiên, miền Nam cũng đã xây dựng được một số cơ sở công nghiệp, so với những gì mà miền Bắc thừa hưởng được của người Pháp năm 1954 thì nó phát triển hơn nhiều. Ví dụ: năm 1954, nhà máy điện Hà Nội chỉ sản xuất được 8.000kw/giờ thì năm 1975, nhà máy điện Thủ Đức sản xuất được 165.000kw/giờ.
Đối với công nghiệp miền Nam sau giải phóng 1975, vấn đề của nó là “chuyển đổi”. Còn ở miền Bắc năm 1954, thì vấn đề của nó là “tạo ra”.
Tuy rằng những đầu tư của Mỹ vào Nam Việt Nam chủ yếu nhằm đáp ứng những nhu cầu chiến tranh chứ không phải nhu cầu kinh tế, nhưng dù sao trong những giới hạn ấy, người Mỹ cũng đã để lại ở đấy một cơ sở hạ tầng và một kỹ thuật tiên tiến: 10.000km đường rải nhựa, ba cảng nước sâu, năm sân bay không kể sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, một hệ thống thông tin liên lạc hiện đại chủ yếu nằm quanh những thành phố lớn.
Nhưng trong cơ sở hạ tầng đó, có những cái lộ ra quá mức, không phù hợp với những nhu cầu thực tế của miền Nam. Ví dụ như về thông tin: người ta thấy Nam Việt Nam có trong tay mình cả một hệ thống thông tin đầy ấn tượng, trị giá tới 15 tỷ Francs cũ, trong đó có mười hai hệ thống I.B.M1-360, những máy tính vào loại lý tưởng nhất thế giới.
Hệ thống thông tin này, so với hệ thống của Angiêri chẳng hạn, thì nó lớn hơn; nó điều hành cả cuộc chiến tranh của Mỹ ở Đông Dương. Tại trung tâm máy tính của M.A.C.V (Bộ Tư lệnh viện trợ quân sự tại Việt Nam) ở Tân Sơn Nhất, Mỹ có năm máy tính hoạt động: máy khá nhất quản lý tổng kho Long Bình; máy thứ hai, lập chương trình toàn bộ quân ngụy; máy thứ ba, lập chương trình các phi vụ ở Đông Dương; máy thứ tư, lập chương trình hải quân; và máy thứ năm, tới tháng 1 năm 1975 vẫn do nhân viên kỹ thuật Mỹ sử dụng, lập phương trình tất cả các chiến dịch quân sự ở Đông Dương, đặc biệt là các chiến dịch đánh vào “đường mòn” Hồ Chí Minh.
Nhưng vấn đề ở đây là làm thế nào bảo quản, duy trì được hoạt động của hệ thống thông tin đó: riêng để làm việc này, năm 1974, ngụy Sài Gòn đã phải chi ra 2 triệu đô la. Sáu tháng sau giải phóng, chính quyền mới đã giảm việc sử dụng nó xuống còn một nửa. Một đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ cao được đào tạo. Nhưng Nam Việt Nam, khi bị cắt đứt khỏi cuống nhau viện trợ nước ngoài, mình nó đã không thể đương đầu được với những nhu cầu của nó và cũng không thể nhanh chóng tự hồi phục và có một sự phát triển độc lập do những mất cân bằng vì cơ cấu vốn có. Trái lại, với nhân công, với nền công nghiệp nặng và kinh nghiệm xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc sẽ có thể bổ sung cho những thế mạnh và những khả năng của miền Nam.
Việc giải phóng miền Nam trên thực tế đã thống nhất cả hai miền Nam, Bắc. Như vậy từ nay công cuộc xây dựng và phát triển đất nước đã có thể tính trên quy mô toàn quốc. Người ta trù tính sẽ có thể đưa tổng diện tích đất canh tác lên 6 triệu hécta, chứ không phải chỉ có hai triệu cho miền Bắc và ba triệu cho miền Nam như hiện nay. Hơn nũa, hàng trăm nghìn hécta đất khác cũng có thể sẵn sàng được canh tác nếu người ta có khả năng khai phá hoang. Do vậy vấn đề lương thực sẽ được giải quyết và ngoài ra còn có dư thừa để xuất khẩu.
Từ năm 1976, việc phân phối lại nhân công cũng được dự kiến trên quy mô lớn: chẳng những Sài Gòn và các thành phố lớn ở miền Nam có thể giải toả được số dân, mà ngay cả đồng bằng sông Hồng quá đông người cũng vậy; người ta có thể đưa bớt họ lên làm ăn ở cao nguyên miền Nam và vùng trung du miền Bắc. Cuộc vận động di dân này sẽ được thực hiện trong suốt thời kỳ kế hoạch 5 năm 1976-1980, và nếu làm được việc đó, các chuyên gia Việt Nam ước tính sẽ không có thành phố nào có số dân vượt quá một triệu. Mặt khác, nó cung cấp được một lực lượng nhân công đáng kể để xây dựng những công trình thuỷ lợi lớn, làm cơ sở cho công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam.
Về công nghiệp, dựa vào những cơ sở hiện có, sẽ dần dần xây dựng công nghiệp nặng ở miền Nam. Điều đó chẳng những làm cân bằng cơ cấu kinh tế xã hội của miền Nam mà về mặt quốc phòng, nó còn bảo đảm được nguyên tắc là phải bố trí phân tán những trung tâm công nghiệp ra làm nhiều khu vực trên lãnh thổ. Với việc giải phóng miền Nam, mọi kế hoạch của Việt Nam từ nay sẽ phải được hoạch định ở tầm cỡ quốc gia và đặt trong khuôn khổ quốc gia. Các chuyên gia miền Bắc đã nhanh chóng xem xét lại kế hoạch dự định cho 5 năm 1976-1980, và trong công việc này, một số chuyên gia giỏi của miền Nam cũng được mời tham dự, như trường hợp ông Nguyễn Văn Hảo, cựu phó thủ tướng phụ trách phát triển kinh tế trong chính quyền Thiệu cũ.
Trong Hội nghị toàn thể họp vào đầu hè 1975 tại Đà Lạt, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra đề nghị đẩy nhanh quá trình thống nhất đất nước. Việc thống nhất này sẽ được tiến hành trên cơ sở lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa...
Hội nghị xét thấy vừa có thể tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đồng thời đẩy nhanh miền Nam cùng tiến lên theo con đường đó. Hội nghị đánh giá, sự thống nhất của Việt Nam chỉ có thể trọn vẹn khi mà đất nước có cùng chung một quan hệ sản xuất. Thế nhưng ở miền Bắc hiện nay, quan hệ sản xuất đang tồn tại là quan hệ xã hội chủ nghĩa, vì vậy muốn cơ sở miền Nam cùng một quan hệ sản xuất ấy thì cần phải có những hình thức quá độ trong khi vẫn tạm thời giữ một số quan hệ tư hữu và tư bản chủ nghĩa... Việc thống nhất chỉ được coi là hoàn thành vào ngày mà một chế độ xã hội thống nhất được thiết lập trên toàn bộ đất nước. Ngay trước mắt, việc giải phóng những vấn đề đặt ra ở quy mô toàn quốc đòi hỏi phải có một bộ máy thống nhất, mà duy nhất chỉ có nó mới có thể bảo đảm được tính khoa học và sự nhanh chóng. Hơn nữa đẩy nhanh quá trình xây dựng một chính phủ thống nhất là phù hợp với thực tế của tình hình miền Nam: từ cuộc Đồng khởi những năm 1960 giải phóng nhiều vùng nông thôn, rồi trước sự can thiệp của Mỹ, và công cuộc bình định, đàn áp, giết hại, bắt bớ của địch, các tổ chức cánh mạng đã bị thiệt hại nặng nề, nhiều nơi gần như mất trắng. Sau giải phóng, các cán bộ xuất thân từ kháng chiến miền Nam đã phải lên cầm quyền trong những điều kiện gấp gáp như chúng ta vừa nói. Vì thế, duy trì một chính phủ miền Nam, trì hoãn hoàn thành thống nhất đất nước sẽ có nghĩa là phải tổ chức cả một bộ máy to lớn với đầy đủ các cơ cấu của nó, nhất là ở cấp chính quyền cơ sở, và điều đó chẳng những không làm giảm đi, mà còn làm tăng thêm những cách biệt tồn tại giữa hai miền Nam, Bắc.
Trong cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng gay go ác liệt ở miền Nam, để đương đầu với bão tố, cán bộ và nhân dân đã ngày càng xiết chặt hàng ngũ xung quanh hạt nhân kiên cường nhất, vững chắc nhất của họ, tới mức đã hoà tan vào nó: đó là Đảng Cộng sản việt Nam, một thứ thép đã tôi không gì có thể phá vỡ nổi. Chính Đảng là người đã lãnh đạo cuộc đấu tranh và quản lý các vùng giải phóng, và với ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền cách mạng mà Đảng nắm từ lâu nay đã được thiết lập trên toàn miền Nam. Từ nay, cùng với miền Nam giải phóng, nhân dân Việt Nam trên cả nước đã có cùng chung một chính quyền cách mạng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 7 tháng 11, “Hội nghị chính trị hiệp thương về thống nhất đất nước đã họp” ở Sài Gòn, với sự tham gia của đoàn đại biểu miền Bắc và đoàn đại biểu miền Nam. Trong đoàn miền Nam, cùng với các ông Phạm Hùng, Nguyễn Hữu Thọ và Huỳnh Tấn Phát, đại diện cho Đảng lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản Việt Nam) và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, người ta còn thấy có mặt các đại diện của lực lượng thứ ba trong đó có bà Ngô Bá Thành, một gương mặt nổi tiếng của lực lượng này; linh mục Chân Tín, người cổ động cho phong trào đòi “trả tự do cho những tù nhân chính trị”, và ông Hồ Ngọc Nhuận, cựu nghị sĩ chế độ Sài Gòn và nguyên cố vấn của tổng thống cuối cùng Dương Văn Minh.
Trong diễn văn khai mạc Hội nghị, ông Trường Chinh, uỷ viên Bộ chính trị Trung ương Đảng trình bày đường lối do Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 24 xác định. Ông nhấn mạnh: Hội nghị chính trị hiệp thương này có mục đích là “thống nhất nhận thức của chúng ta về sự cần thiết và cơ sở của sự nghiệp thống nhất đất nước, tầm quan trọng, tính cấp bách, những bước đi và những biện pháp cần phải có để tiến hành sự nghiệp đó”, trong đó “vấn đề mấu chốt” nhất là vấn đề nhà nước. Ông phát biểu rằng “nhiệm vụ chiến lược của cuộc cách mạng của chúng ta trong giai đoạn mới này là hoàn thành việc thống nhất đất nước, đưa đất nước ta tiến nhanh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. (...) “Trước đây, miền Nam tiến hành một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân - Với việc hoàn toàn giải phóng hiện nay, ta có nên tiếp tục cuộc cách mạng đó trong một thời gian nào nữa không, trước khi chuyển qua làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội?”
“Chúng tôi nghĩ rằng điều đó không cần thiết”, ông Trường Chinh đáp “Thắng lợi lớn mùa xuân vừa qua đã kết thúc giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và mở đường cho nhân dân miền Nam tiến lên một giai đoạn mới, một nhiệm vụ chiến lược mới, giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.”.
Ông Trường Chinh thừa nhận có những khác biệt “về giai cấp” giữa miền Nam và miền Bắc, những ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng của chủ nghĩa thực dân mới đối với xã hội miền Nam, nhưng những khác biệt ấy là “tạm thời và do hoàn cảnh” “trong khi những điểm chung giữa hai miền lại là cơ bản”. “Vấn đề của chúng ta hiện nay là tăng cường và hoàn thiện những điểm chung giữa hai miền, xoá bỏ dần dần những khác biệt, trong một quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa.” Như vậy việc thống nhất đất nước được quan niệm như một “chuỗi” những quá trình mà “khâu chính” là thống nhất nhà nước “càng sớm càng tốt”. Cùng thời gian ấy phải “hợp pháp hoá sự nghiệp thống nhất đất nước bởi toàn dân.”
Những đề nghị trên được toàn thể Hội nghị nhất trí thông qua và trong tình hình ấy, Hội nghị quyết định sẽ tiến hành một cuộc tổng tuyển cử trên cả nước theo nguyên tắc “phổ thông đầu phiếu, công bằng, trực tiếp và bí mật” để bầu ra một quốc hội chung cho hai miền. Nhiệm vụ của quốc hội này là cử ra các cơ quan lãnh đạo nhà nước, quy định Hiến pháp mới, quốc huy, quốc hiệu và thủ đô nước Việt Nam thống nhất. Tổng tuyển cử được dự kiến sẽ tiến hành vào tháng Tư năm 1976, tức hai mươi năm sau thời hạn do Hiệp định Geneve quy định. Vậy là cuối cùng, quyền tự quyết của nhân dân miền Nam đã được bảo đảm.
Với cuộc tổng tuyển cử, vai trò lịch sử mà Chính phủ cách mạng lâm thời đảm đương cũng kết thúc: nó phù hợp với nguyện vọng chung của những người cách mạng Việt Nam là đạt tới một giải pháp chính trị, một Chính phủ liên minh tập hợp xung quanh họ. Với liên minh này, lịch sử muốn rằng nó phải được thực hiện bằng sự loại trừ những lực lượng nào đã khước từ nó...
Nhìn chung, tin về việc thống nhất đất nước đã được nhân dân hân hoan chào đón. Cha Trần Xuân Thảo của giáo xứ Hà Nội ở Hố Nai nới: “Dân vùng tôi đã nhiệt liệt hoan nghênh nó. Tôi không nhận thấy có bất cứ sự dè dặt nào về vấn đề đó. Bởi rõ ràng từ sau giải phóng, quan hệ giữa họ với gia đình quê hương của họ ở ngoài Bắc đã có nhiều phát triển, bà con của họ ở ngoài đấy thỉnh thoảng vẫn vào đây thăm nhau... Vì vậy, trên thực tế thì đã có sự thống nhất giữa hai miền rồi. Đối với tôi, cha Thảo nói thêm, việc chia cắt năm 1954 luôn luôn chỉ là tạm thời, tôi quê ở miền Bắc, thế mà từ hai chục năm nay tôi đã sống ở miền Nam, nhưng tôi chẳng thấy xa lạ gì hết; vẫn là văn hoá ấy, con người ấy, chẳng có lý do gì mà kéo dài xa cách mãi.”
Một số sĩ quan Sài Gòn cũ, trở về với đời sống dân thường ba tháng sau ngày thống nhất, đã tỏ ra đặc biệt nhạy cảm với sức mạnh của một nước Việt Nam thống nhất: với 45 triệu dân, Việt Nam đứng hàng thứ 16 thế giới, nhưng với phe xã hội chủ nghĩa thì nó đứng thứ 3, chỉ sau có Trung Quốc và Liên Xô, còn lực lượng có khả năng lao động thì nó ngang với nước Pháp: 20 triệu dân.
Thực ra xung quanh việc thống nhất, ý kiến tập trung nhiều là về vấn đề “xã hội chủ nghĩa”. Cha Nguyễn Đức Sự ở giáo xứ Ngọc Đồng, Hố Nai, một người chống cộng ai cũng biết nói với tôi: “Mọi người ở đây đều hoàn toàn nhất trí về sự cần thiết phải thống nhất đất nước. Nhưng nhiều người sợ “chủ nghĩa xã hội”. Bởi họ không biết nó ra sao. Họ sợ chủ nghĩa xã hội là vô thần, là duy vật... Nếu chính phủ giải thích được cho họ hiểu thế nào là chủ nghĩa xã hội thì chắc mọi chuyện sẽ mất đi... Nếu trong chủ nghĩa xã hội, giáo dân chúng tôi vẫn được quyền hành đạo thì trong trường hợp này, tôi nghĩ sẽ chẳng còn có vấn đề gì nữa. Trái lại chúng tôi sẽ hợp tác với “chế độ mới.”
Ở Sài Gòn, gặp những người kêu ca nhiều về vấn đề này không phải là chuyện hiếm... Thường nhiều nhất ở những bà có chồng trước đây là sĩ quan cao cấp hay quan chức chính quyền ngụy. Bởi đối với họ, đó là cả một thiên đường bị mất: đầu cơ trục lợi trên chức quyền của các ông chồng hay người tình, họ có trong tay đủ mọi thứ và sống một cuộc đời còn hơn cả mức sung sướng. Họ chính là những người trước đây đã tạo nên vẻ mặt xa hoa hào nhoáng của Sài Gòn nói chung và khu tứ giác của quận 1 nói riêng, nơi có những đường phố như Catinat, Pasteur, các khách sạn Caravelle, Continental, rạp Majectia, câu lạc bộ thể thao... Giờ đây, tiền kiếm được ít hơn, họ ngồi đó, lo sợ và cay đắng, mặc sức buông ra những lời đàm tiếu...
Nhưng còn nhân dân, những người lao động thì họ nghĩ sao về vấn đề thống nhất?
“Những ngày đầu sau 30 tháng Tư, chúng tôi đến nhà máy nói chuyện với anh chị em công nhân về ý nghĩa của giải phóng, chỉ cho họ hiểu rằng từ nay cuộc đời của họ đã thay đổi, giúp cho họ hiểu biết về cuộc đấu tranh để nắm chính quyền của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng... Anh chị em rất phấn khởi, nhất là những người lao động tay chân”, một chiến sĩ nữ còn rất trẻ người công giáo thuộc Hội nữ thanh niên công nhân công giáo nói với tôi như vậy. Từ đầu 1975, cô đã tham gia ủy ban bảo vệ các quyền của người lao động do một cha tuyên úy trong công nhân của Hội nữ thanh niên công nhân công giáo lãnh đạo, một tổ chức mà cô biết có cả các chiến sĩ cộng sản tham gia. Đối với cô đó là sự dấn thân bước đầu vào con đường đấu tranh cách mạng, con đường mà với một số đông học sinh, sinh viên thì nó đã được khởi đầu bằng các cuộc biểu tình năm 1950 của học sinh, sinh viên Sài Gòn chống sự can thiệp của Mỹ do luật sư Nguyễn Hữu Thọ lãnh đạo. Bây giờ cô là thành viên trong ban lãnh đạo của Trung ương công đoàn giải phóng. Cô phác một bức tranh nói lên ảnh hưởng của kháng chiến trong giai cấp công nhân: ảnh hưởng này mạnh trong những khu vực truyền thống - có nghĩa là những khu vực công nghiệp có từ lâu đời - nhưng yếu trong những khu vực có nhà máy mới, song lại thường là quan trọng nhất; Sài Gòn hiện có 250.000 lao động thuộc khu vực công nghiệp. “Trong một số xí nghiệp cán bộ mặt trận dân tộc giải phóng đã tổ chức được một số công nhân còn ở một số khác thì chưa, nhưng càng ngày người ta càng phát hiện ra ở đấy có cả những cán bộ bị mất liên lạc với Đảng do chiến tranh làm xáo trộn gây ra. Nhiều người đến từ các tỉnh, hoặc họ chạy theo dân, hoặc bị lộ nên phải chạy trốn.” Cô cán bộ trẻ nói với tôi và khẳng định: Trong tất cả các xí nghiệp xây dựng, Đảng chưa thành lập được tổ chức. Ví dụ như trong 60.000 công nhân ngành dệt, duy nhất chỉ có Vineco mới có một chi bộ.
Trong các xí nghiệp quan trọng như Shell, Esso thành lập từ 1972 để khảo sát dầu, “do sự kiểm soát ngặt nghèo của chính quyền ngụy và không khí khủng bố bao trùm nên cách mạng chưa cấy được tổ chức nào”. Ngay cả ở xưởng Ba Son, một tâm điểm có truyền thống đấu tranh lâu đời của giai cấp công nhân miền Nam, nơi Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã từng làm việc và khởi đầu sự nghiệp của một chiến sỹ cách mạng, thì tình hình cũng thế. Sự khủng bố gắt gao của địch đã loại trừ tất cả các cán bộ cách mạng, “Đảng chỉ tổ chức được các chi bộ ở bên ngoài xưởng, nằm ở các phường.”
Như vậy thì có phải giai cấp công nhân chưa sẵn sàng cho ngày giải phóng? “Tuy nhiên, cô cán bộ trẻ nói, về những gì liên quan đến việc bảo vệ nhà máy cho đến ngày giải phóng thì có cả một mạng lưới những người lao động tham gia. Thông qua một số người làm việc ở bộ phận quản hộ nhà máy, cán bộ cách mạng đã giúp họ tiến hành việc ấy”.
Từ năm 1960, số lượng giai cấp công nhân miền Nam tăng gấp đôi, nhưng chục năm gần đây, nó đã gần như chựng lại: năm 1969, thời kỳ thịnh vượng nhất của nó, giai cấp công nhân chỉ chiếm 12% dân số thành thị. Thành phần của nó khá phức tạp; nhiều người xuất thân từ những tầng lớp khác bị chiến tranh làm đảo lộn: nông dân, thợ thủ công, dân nghèo thành thị, tiểu thương, tiểu chủ bị phá sản, viên chức và người làm công thất nghiệp. Thành phần nữ trong công nhân, do nam giới bị động viên vào quân đội cũng tăng lên: năm 1960 là 19% thì năm 1967, tỷ lệ này đã lên tới 32%. Công việc của công nhân lại hướng vào những hoạt động không phải là chủ yếu. Tất cả những yếu tố trên đã ảnh hưởng tới ý thức giai cấp của công nhân miền Nam vốn đã không thuần nhất.
Tuy nhiên, bù lại cho những yếu tố tiêu cực ấy, công nhân miền Nam có sự tập trung về địa lý: phần lớn các nhà máy đều nằm trong khu vực Biên Hoà - Sài Gòn, trong đó những nhà máy lớn nhất tập trung tới một, hai nghìn công nhân. Nhưng cũng nhắc lại rằng từ 1972, do sự suy thoái của công nghiệp miền Nam, gần một nửa số nhà máy của nó đã phải đóng cửa.
Mặc dù bị đàn áp mạnh, ảnh hưởng lâu đời của Đảng trong công nhân vẫn không bị mai một. Người ta có thể thấy được điều đó trong ngành công nhân hoả xa. Do ảnh hưởng của chiến tranh, hệ thống đường sắt của miền Nam, dễ bị tổn thương bởi cách đánh giao thông sở trường của quân cách mạng, đã bị đình đốn: trước 1945, ngành có 6.000 công nhân, thì nay nó chỉ còn có 2.000 công nhân. Tuy nhiên, trong nhà máy xe lửa Chí Hoà, trước ngày giải phóng Đảng vẫn có 3 đảng viên hoạt động trong 268 công nhân. Dựa vào lực lượng cảm tình là 170 công nhân, họ đã tiến hành được hai cuộc đấu tranh thắng lợi vào năm 1973 và đầu 1974...
Từ sau giải phóng cách mạng đã có một nỗ lực lớn trong việc giáo dục và quan tâm đến đời sống của giai cấp công nhân. Điều đó được nhanh chóng thể hiện bằng việc cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân: trong những xí nghiệp đầu đàn, lương thợ được tăng, lương cán bộ được giữ vững, thợ thất nghiệp được hưởng toàn bộ lương cũ. Ví dụ như ở xí nghiệp tôm đông lạnh Seakingo ở quận 6 - nơi có mặt hàng xuất khẩu chính, tất cả lương thợ được chuyển sang lương tháng và tăng từ 55 đến 100 đồng một giờ, lương cán bộ vẫn được giữ ở mức 60.000 đồng một tháng. Thợ đến làm việc có nhiều người nhà ở xa, nhà máy cho mở một căng tin bán với giá rất rẻ, công nhân được nghỉ nửa tiếng để đến đấy ăn trưa...
“Đối với chủ nghĩa xã hội, cô cán bộ công đoàn trẻ nói, công nhân đều rất phấn khởi, nhiệt tình. Bởi đây là lần đầu tiên, họ được đặt lên vị trí hàng đầu: trong tất cả các nhà máy, người ta trao đổi, thảo luận về vai trò tiên phong của giai cấp công nhân; thoạt đầu, họ cho rằng đây chỉ là một sự thay đổi bình thường về địa vị xã hội của họ, nhưng dần dần qua học tập, họ đã nhận thức được điều đó một cách sâu sắc hơn và bây giờ, họ thấy tự hào được làm người thợ, tự hào về vai trò thúc đẩy, tiên phong của giai cấp công nhân”.
Chú thích
1. International Business Machine: Công ty máy kinh doanh quốc tế.