Số lần đọc/download: 3447 / 106
Cập nhật: 2015-01-05 18:16:32 +0700
Chương 11
T
ôi nghĩ cậu ấy chắc đã ngủ. Cuối cùng tôi cũng thiếp đi rồi thức dậy khi bánh đáp đang hạ xuống. Miệng tôi đắng ngắt đến nỗi tôi phải cố ngậm lại vì sợ sẽ đầu độc cả máy bay.
Tôi nhìn sang Augustus, cậu ấy đang ngó ra ngoài cửa sổ, rồi khi máy bay hạ thấp xuống dưới những đám mây tầng, tôi rướn thẳng lưng mình để ngắm nhìn đất nước Hà Lan. Vùng đất này nhìn như bị chìm sâu dưới lòng đại dương, một khoảnh chữ nhật màu xanh bao quanh bởi những kênh đào. Thực tế là chúng tôi cũng hạ cánh xuống song song với một cái kênh đào, như thể có hai đường băng: một cho chúng tôi và một cho những con chim nước.
Sau khi lấy hành lý và làm thủ tục thông quan, cả ba chúng tôi chui vào một chiếc taxi với bác tài xế mập mạp đầu hói nói tiếng Anh cực sõi – như thể sõi tiếng Anh hơn cả tôi. “Khách sạn Filosoof?” tôi nói.
Bác tài nói, “Chị và hai cháu là người Mỹ đúng không?”
“Vâng,” Mẹ nói, “Chúng tôi đến từ Indiana.”
“Indiana,” bác tài nói. “Họ chiếm lấy vùng đất của người Indians rồi để lại cái tên đó, đúng không?”
“Cũng gần như thế,” Mẹ nói. Chiếc xe hòa vào dòng xe cộ và hướng về phía đường cao tốc qua rất nhiều biển tên màu xanh dương với những cái tên chứa toàn nguyên âm đôi: Oosthuizen, Haarlem. Dọc hai bên đường cao tốc là những dải đất trống trải bằng phẳng kéo dài hàng dặm, thỉnh thoảng lại bị chia cắt bởi trụ sở của những tập đoàn lớn. Tóm lại thì trông Hà Lan cũng giống Indianapolis, chỉ trừ việc xe cộ nhỏ hơn. “Đây là Amsterdam ạ?” tôi hỏi bác tài xế.
“Vừa đúng vừa không,” bác ấy trả lời. “Amsterdam giống như những vòng vân của cây gỗ: Càng vào sâu bên trong càng già nua cổ kính.”
Khung cảnh đột ngột thay đổi: Các dãy nhà nhấp nhô chạy dọc theo những hàng kênh y hệt như trong trí tưởng tượng của tôi xuất hiện khi chúng tôi rẽ khỏi đường cao tốc, xe đạp nhan nhản khắp nơi, rất nhiều quán cà phê với biển quảng cáo CÓ PHÒNG HÚT THUỐC RỘNG RÃI. Chúng tôi đi ngang qua một con kênh và từ đỉnh chiếc cầu tôi có thể nhìn thấy hàng chục chiếc nhà thuyền neo đậu dọc theo dòng nước. Chẳng có nét gì giống nước Mỹ nữa. Nó như một bức tranh cổ xưa nhưng chân thực – mọi thứ trông bình yên lạ thường trong ánh nắng sớm mai – rồi tôi chợt nghĩ thật kỳ quái một cách tuyệt vời khi được sống ở một nơi mà hầu như mọi thứ được dựng nên bởi bàn tay của những người đã chết.
“Những ngôi nhà kia chắc đã lâu đời lắm?” Mẹ tôi hỏi.
“Rất nhiều những ngôi nhà ở bờ kênh được dựng nên từ Thời kỳ Hoàng kim, vào thế kỷ mười bảy,” bác tài đáp. “Thành phố của chúng tôi có một lịch sử lâu đời và đặc sắc dù nhiều du khách chỉ muốn đến xem Phố Đèn Đỏ.” Bác ấy ngập ngừng. “Một vài du khách vẫn nghĩ Amsterdam là thành phố của tội lỗi, nhưng sự thực đây là thành phố của tự do. Và trong tự do, con người sinh ra tội lỗi.”
Các phòng trong khách sạn Filosoof đều được đặt tên theo các triết gia: Mẹ với tôi ở tầng một trong căn phòng mang tên Kierkegaard; Augustus ở ngay tầng trên, trong phòng Heidegger. Phòng chúng tôi khá nhỏ: một chiếc giường đôi kê sát tường, cuối giường đặt cái máy thở BiPAP của tôi, một chiếc máy tạo ôxy và hàng chục bình nạp khí. Ngoài đống thiết bị ra còn có một chiếc ghế hoa cũ kỹ bụi bặm với chỗ ngồi đã võng, một chiếc bàn, một kệ sách phía trên giường chứa tuyển tập các tác phẩm của Søren Kierkegaard. Trên mặt bàn đặt một giỏ mây đầy ắp những món quà từ Quỹ Genie: một đôi guốc gỗ, một chiếc áo phông Hà Lan màu cam, chocolate và rất nhiều thứ khác nữa.
Khách sạn Filosoof nằm ngay cạnh Vondelpark, công viên nổi tiếng nhất ở Amsterdam. Mẹ muốn đi dạo một lúc nhưng tôi lại siêu mệt nên bà bật máy BiPAP cho nó hoạt động rồi đặt mặt nạ thở giúp tôi. Tôi ghét phải nói chuyện khi đang đeo nó nhưng vẫn nói, “Mẹ cứ đi công viên rồi con sẽ gọi lúc nào con dậy.”
“Được rồi,” bà nói. “Ngủ ngoan nhé con yêu.”
Nhưng khi tôi tỉnh dậy vài giờ sau đó, bà vẫn đang ngồi trên chiếc ghế nhỏ cũ kỹ ở góc phòng, đọc quyển hướng dẫn du lịch.
“Chào buổi sáng,” tôi nói.
“Thực ra là chiều muộn rồi,” bà đáp, nhấc mình lên khỏi ghế với một tiếng thở dài. Bà đến bên giường, đặt chiếc bình vào giá rồi nối với ống dẫn trong khi tôi bỏ mặt nạ của máy BiPAP ra và đặt đầu ống thở vào mũi. Bà chỉnh chế độ 2.5 lít một phút – tôi sẽ có sáu tiếng đồng hồ trước khi phải thay bình mới – rồi tôi ngồi dậy. “Con thấy thế nào?” bà hỏi.
“Tốt ạ,” tôi đáp. “Tuyệt vời. Công viên Voldepark thì sao ạ?”
“Mẹ không ra đấy,” bà đáp. “Nhưng vẫn đọc mọi thứ về nó trong quyển hướng dẫn du lịch.”
“Mẹ,” tôi nói, “mẹ không phải ở đây mãi thế đâu.”
Bà nhún vai. “Mẹ biết. Nhưng mẹ muốn thế. Mẹ thích trông con ngủ.”
“Kẻ rình rập nói.” Bà bật cười, nhưng tôi vẫn thấy có lỗi. “Con chỉ muốn mẹ vui vẻ thư giãn chút thôi mà, mẹ biết mà?”
“Được rồi. Mẹ sẽ đi chơi tối nay, được chứ? Rồi làm mấy thứ kiểu bà mẹ điên rồ trong khi con đi ăn tối với Augustus nhé.”
“Mà không có Mẹ đi cùng?” tôi hỏi.
“Đúng không có mẹ đi cùng. Thật ra là có bàn đặt riêng cho con ở một chỗ tên là Oranjee,” bà nói. “Cô trợ lý của Ông Van Houten đã sắp xếp trước. Chỗ đó nằm ở khu Jordaan ngay cạnh đây thôi. Rất lý tưởng, theo như cuốn cẩm nang du lịch. Có một trạm xe điện ở ngay cuối góc đường. Augustus biết đường đi. Các con có thể ăn tối ngoài trời, ngắm nhìn tàu thuyền qua lại. Sẽ rất thú vị. Rất lãng mạn nữa.”
“Mẹ.”
“Mẹ nói thế thôi,” bà nói tiếp. “Con nên thay quần áo đi. Bộ váy mùa hè được đấy?”
Người ta có thể ngạc nhiên trước sự điên rồ của tình huống này: Một bà mẹ giao đứa con gái mười sáu tuổi của mình cho một cậu bé mới mười bảy lang thang trong một thành phố xa lạ vốn nổi tiếng về sự buông thả của mình. Nhưng đây cũng lại là một ảnh hưởng phụ của việc đang chết: Tôi không thể chạy, không thể nhảy, không thể ăn đồ ăn chứa nhiều đạm, nhưng trong thành phố của sự tự do, tôi là một trong số những cư dân được hoàn toàn giải phóng.
Cuối cùng tôi cũng diện một chiếc váy mùa hè – chiếc váy hiệu Forever 21 màu xanh lam in hoa dài chấm gối – với quần bó và giày Mary Janes bởi tôi thích mình nhìn thấp hơn nhiều so với cậu ấy. Tôi bước vào cái nhà tắm bé tẹo đến hài và đánh vật với cái đầu xù của mình một lúc cho đến khi mọi thứ trông chỉn chu như chị Natalie Portman hồi giữa những năm 2000. Đúng sáu giờ tối (ở nhà đang là giữa trưa), tôi nghe có tiếng gõ cửa.
“Xin chào?” tôi nói vọng qua cánh cửa. Chẳng có cái lỗ mắt mèo nào ở Khách sạn Filosoof.
“Okay,” Augustus trả lời. Nghe giọng tôi cũng biết được cậu ấy đang ngậm điếu thuốc trong miệng. Tôi nhìn lại mình một lượt. Chiếc váy để lộ khoảng giữa lồng ngực với xương đòn mà Augustus cũng đã thấy rồi. Nó chẳng phải khêu gợi lắm hay làm sao, nhưng cũng gần như lần đầu tiên tôi phô bày chút da thịt. (Mẹ có một khẩu hiệu về chuyện này mà tôi rất tán thành: “Nhà Lancaster không bao giờ khoe bụng.”)
Tôi kéo cánh cửa ra. Augustus mặc bộ vét với ve áo hẹp màu đen ôm vừa vặn lấy người, bên trong là áo sơ mi màu xanh lơ và thắt cà vạt bản nhỏ màu đen. Một điếu thuốc đung đưa bên khóe miệng không cười của cậu. “Hazel Grace,” cậu ấy chào, “cậu trông lộng lẫy quá.”
“Tớ,” tôi nói. Tôi cứ nghĩ phần còn lại của câu sẽ tự vuột ra từ luồng không khí qua dây thanh quản của tôi, nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Rồi cuối cùng tôi nói, “Tớ thấy hơi thiếu vải.”
“À, cái chuyện cũ đấy hả?” cậu ấy nói, nhìn xuống tôi cười.
“Augustus,” mẹ đứng ngay sau tôi, “nhìn cháu cực kỳ ra dáng.”
“Cảm ơn, thưa bác,” cậu ấy nói. Cậu ấy đưa cánh tay ra cho tôi. Tôi khoác lấy nó, ngoái lại nhìn mẹ.
“Gặp con lúc mười một giờ,” bà nói.
Trong lúc chờ tuyến xe điện số một trên con phố rộng thênh nhưng vẫn đầy xe cộ, tôi hỏi Augustus, “Bộ vét cậu sẽ mặc đến dự lễ tang, tớ đoán thế?”
“Thực ra là không,” cậu ấy nói. “Bộ vét kia chẳng đẹp thế này đâu.”
Khi chiếc xe điện sơn hai màu xanh-trắng đến nơi, Augustus chìa thẻ của chúng tôi cho bác lái xe xem và được hướng dẫn là phải quẹt nó qua một cái cảm biến hình tròn. Trong khi chúng tôi len lỏi trên chuyến xe đông đúc này thì có một bác lớn tuổi đứng dậy nhường chỗ cho chúng tôi ngồi cạnh nhau, dù tôi đã cố hết sức bảo bác cứ ngồi, bác ấy vẫn khăng khăng chỉ vào chiếc ghế. Chúng tôi phải đi qua ba trạm dừng, tôi dựa người vào Augustus để có thể nhìn ra cửa sổ cùng nhau.
Augustus chỉ lên một cái cây và hỏi tôi, “Cậu thấy nó không?”
Tôi có thấy chúng. Dọc khắp con kênh là những hàng cây du, hạt của chúng giăng đầy trong gió. Chúng thực ra không giống hạt lắm, mà hệt như những cánh hồng đã phai màu nhỏ li ti. Những cánh hồng cuốn theo cơn gió, tụ lại như đàn chim bay – đông đến hàng ngàn, như một trận bão tuyết vào xuân.
Bác trai vừa nhường chỗ cho chúng tôi thấy hai đứa đang mải mê ngắm nhìn chúng, liền cất tiếng giải thích bằng tiếng Anh, “Tuyết xuân của Amsterdam. Những cây iepen thổi đầy hoa giấy đón chào mùa xuân.”
Chúng tôi đổi tuyến, và sau bốn trạm dừng nữa chúng tôi đặt chân xuống con phố được ngăn đôi bởi một dòng kênh đẹp đẽ, hình bóng phản chiếu của cây cầu cổ kính và những căn nhà đẹp như tranh gợn lăn tăn trên mặt nước.
Oranjee chỉ cách trạm xe điện vài bước chân. Nhà hàng này nằm ở một bên phố; dãy bàn ngoài trời đặt ở bên kia, trên một khu thủy tạ nền bê tông sát mé con kênh. Đôi mắt chị phục vụ sáng lên khi nhận ra Augustus và tôi tiến lại gần. “Anh chị Waters phải không ạ?”
“Dạ vâng?” tôi đáp.
“Bàn của anh chị ở bên kia,” chị ấy nói, đưa tay về phía một chiếc bàn nhỏ đặt sát bờ kênh. “Rượu sâm panh là món quà của nhà hàng.”
Gus và tôi liếc qua nhau mỉm cười. Sau khi băng qua đường, cậu ấy kéo ghế mời tôi ngồi và còn giúp tôi dịch vào trở lại. Trên chiếc bàn trải khăn màu trắng của chúng tôi đã bày sẵn hai ly rượu sâm panh. Tiết trời se lạnh được cân bằng hoàn hảo với hơi ấm từ ánh mặt trời; một bên chúng tôi là một vài người đạp xe qua lại – một vài người đàn ông lẫn phụ nữ trên mình bộ quần áo lịch thiệp đang trên đường trở về nhà từ công sở, một vài cô nàng tóc vàng có vẻ quyến rũ ngồi vắt chân qua một bên trên yên đằng sau xe đạp bạn mình, một vài đứa trẻ chẳng đội mũ bảo hiểm tíu tít trên yên xe bằng nhựa đằng sau bố mẹ chúng. Phía bên kia, mặt nước phủ đầy hàng triệu những hạt hoa giấy. Những con thuyền nhỏ neo cạnh bờ kênh lát gạch, xâm xấp nước mưa bên trong, một vài cái như thể sắp chìm. Xa hơn một chút xuôi xuống con kênh, tôi có thể thấy những ngôi nhà thuyền bệp bềnh trên phao nổi, và ở ngay giữa dòng kênh là một chiếc thuyền không mui, đáy bằng, trên boong đặt vài chiếc ghế vải với một chiếc đài xách tay lững lờ trôi về phía chúng tôi. Augustus cầm lấy ly sâm panh của cậu ấy và giơ nó lên. Tôi nhấc ly của mình lên, dẫu cho tôi chưa bao giờ uống thứ gì ngoại trừ một hai ngụm bia của bố.
“Okay,” cậu ấy nói.
“Okay,” tôi đáp lại, rồi chúng tôi cụng ly. Tôi nhấp một ngụm. Những sủi bọt li ti tan vào trong miệng tôi rồi du hành lên tận bộ não. Ngọt. Mát. Ngon. “Ngon thật đấy,” tôi nói. “Tớ chưa uống sâm panh bao giờ.”
Một anh phục vụ trẻ măng cơ bắp với mái tóc vàng lượn sóng xuất hiện. Anh ấy có lẽ còn cao hơn cả Augustus. “Anh chị có biết,” anh ấy hỏi với chất giọng truyền cảm, “ngài Dom Pérignon đã nói gì sau khi sáng chế ra rượu sâm panh không?”
“Không?” Tôi đáp.
“Ông ấy đã gọi các tu sĩ đồng môn lại, ‘Mau tới đây: Ta đang thưởng thức những vì sao.’ Chào mừng tới Amsterdam. Anh chị muốn xem qua thực đơn hay sẽ thưởng thức những món do chính đầu bếp lựa chọn?”
Tôi nhìn Augustus, cậu ấy cũng đang nhìn tôi. “Món do chính đầu bếp lựa chọn nghe hấp dẫn thật đấy, nhưng Hazel lại ăn chay,” tôi từng nói với Augustus chuyện này đúng một lần trước đây, vào hôm đầu tiên tôi và cậu ấy gặp mặt.
“Không thành vấn đề,” anh phục vụ nói.
“Tuyệt. Chúng em muốn lấy thêm một chút cái này được chứ?” Gus hỏi, ý cậu là rượu sâm panh.
“Tất nhiên rồi,” anh phục vụ của chúng tôi đáp. “Chúng tôi đã đóng chai tất cả những vì sao trên bầu trời đêm nay, thưa hai bạn trẻ của tôi. A, những bông hoa giấy!” anh ấy thốt lên, nhẹ nhàng phủ một hạt hoa khỏi bờ vai trần của tôi. “Những năm trước không nhiều đến thế này. Giờ nó rụng khắp mọi nơi. Quả là khó chịu.”
Anh phục vụ biến mất. Chúng tôi ngồi ngắm những hạt hoa giấy rơi xuống từ không trung, chao khỏi mặt đất trước gió, đáp xuống dòng kênh. “Thật khó tin có ai lại thấy chúng khó chịu,” một lúc sau Augustus nói.
“Con người luôn quen dần với vẻ đẹp.”
“Tớ đã quen được với cậu đâu,” cậu ấy nói, mỉm cười. Tôi thấy mình đang đỏ mặt. “Cảm ơn cậu vì đã tới Amsterdam,” cậu ấy nói.
“Cảm ơn đã cho tớ cướp đi điều ước của cậu.”
“Cảm ơn cậu đã mặc chiếc váy đẹp đến ngạc nhiên,” cậu ấy nói. Tôi lắc đầu, cố gắng không cười với cậu ấy. Tôi không muốn mình là một quả bom. Nhưng phải nói lại, cậu ấy biết mình đang làm gì mà, phải không? Đây cũng là lựa chọn của cậu ấy. “Này, bài thơ đó kết thúc thế nào?” Cậu ấy hỏi.
“Hứ?”
“Bài thơ cậu đọc cho tớ trên máy bay.”
“À, ‘Prufrock’? Nó kết thế này, ‘Ta nán lại trong căn phòng của biển / Với những nàng tiên đội vòng hoa đỏ và nâu / Đến khi tiếng nói con người đánh ta thức dậy, ta đã chìm sâu.’”
Augustus rút một điếu thuốc ra và gõ gõ đầu lọc xuống bàn. “Tiếng nói ngốc nghếch của con người luôn làm hỏng mọi thứ.”
Anh phục vụ quay lại với hai ly sâm panh và một món anh ấy gọi là “Măng tây trắng đất Bỉ với vị hoa oải hương.”
“Tớ cũng chưa bao giờ uống sâm panh,” Gus nói sau khi anh phục vụ đã đi khỏi. “Nếu cậu có thắc mắc hay gì thôi. Mà tớ cũng chưa ăn măng tây trắng bao giờ nữa.”
Tôi đang nhai miếng đầu tiên. “Ngon cực luôn,” tôi đảm bảo.
Cậu ấy cũng cắn một miếng, rồi nuốt. “Chúa ơi. Nếu măng tây lúc nào cũng ngon thế này thì tớ cũng ăn chay luôn.” Một vài người trên chiếc thuyền gỗ sơn đang lại gần phía chúng tôi trên mặt kênh bên dưới. Một chị tóc xoăn vàng óng, có lẽ khoảng ba mươi, nâng chiếc cốc bia cô đang uống về phía chúng tôi và hét lên gì đó.
“Chúng tôi không biết tiếng Hà Lan.” Gus hét lại.
Một người khác hét lại bản dịch: “Một cặp đẹp đôi rất đẹp.”
Đồ ăn ngon đến nỗi cứ sau mỗi món được dọn ra, cuộc nói chuyện của chúng tôi lại càng rơi vào những lời tán dương dành cho mùi vị của nó: “Tớ muốn món risotto cà rốt tím biến thành một cô nàng để tớ có thể đem qua Las Vegas và cưới nó.” “Sorbet đậu ngọt, mày ngon không thể tin được,” tôi ước gì mình đói hơn một chút.
Sau món gnocchi tỏi xanh với lá mù tạc đỏ, anh phục vụ nói, “Tiếp theo là món tráng miệng. Thêm một chút những ngôi sao trước chứ?” Tôi lắc đầu. Hai ly là quá đủ. Sâm panh không phải là ngoại lệ cho sức chịu đựng cao của tôi với thuốc chống trầm cảm hay thuốc giảm đau; tôi thấy ấm áp nhưng chưa say. Tôi cũng không muốn mình say. Sẽ chẳng có nhiều đêm như thế này, và tôi muốn ghi nhớ nó.
“Mmmm,” tôi nói sau khi anh phục vụ đã đi, Augustus lại cười điệu nửa khóe miệng khi cậu ấy nhìn xuống con kênh còn tôi ngước lên trên. Chúng tôi có rất nhiều thứ để ngắm nên sự im lặng này không đến nỗi ngột ngạt, nhưng tôi muốn mọi thứ phải thật hoàn hảo. Nó hoàn hảo thật, tôi nghĩ, nhưng nó cảm giác như có ai đã cố sắp đặt Amsterdam như trong trí tưởng tượng của tôi, khiến tôi không sao dứt bỏ được ý nghĩ bữa tối này, cũng như bản thân chuyến đi, chỉ là một đặc quyền ung thư. Tôi chỉ muốn chúng tôi cười đùa nói chuyện thoải mái, giống như lúc hai đứa cùng ngồi bên nhau trên chiếc ghế sofa ở nhà, nhưng có sự căng thẳng nào đó đang bao trùm lên mọi thứ.
“Đây không phải bộ vét để dự lễ tang của tớ,” một lúc sau cậu ấy nói. “Lần đầu tiên tớ biết tớ mắc bệnh – họ nói rằng tớ có tám mươi phần trăm cơ hội được chữa lành. Vẫn biết tỉ lệ như thế là rất cao nhưng tớ cứ nghĩ nó chẳng khác gì trò roulette Nga cả. Kiểu như tớ phải chịu đựng nỗi đau suốt sáu tháng hay một năm và mất một chân rồi có thể cuối cùng vẫn không làm được gì cả, cậu biết đúng không?”
“Tớ biết,” tôi nói thế mặc dù tôi không biết, không thực sự biết. Tôi từ đầu đã là giai đoạn cuối; mọi liệu pháp điều trị đều chỉ nhằm mục đích kéo dài cuộc sống của tôi, không phải là chữa bệnh ung thư. Phalanxifor đã thêm vào một phương pháp nhập nhằng cho câu chuyện ung thư của tôi, nhưng tôi khác Augustus: Chương cuối của đời tôi đã được viết sẵn khi chẩn đoán bệnh. Gus, cũng như đa số những bệnh nhân ung thư sống sót khác, đều tiếp tục sống với nỗi mơ hồ.
“Đấy,” cậu ấy nói tiếp. “Thế nên tớ đã đối mặt với tất cả những chuyện này bằng việc chuẩn bị sẵn tinh thần. Nhà tớ đã mua một mảnh đất ở nghĩa trang Crown Hill, tớ với bố đã đi vòng quanh đó và chọn được một chỗ. Lễ tang rồi mọi thứ của tớ đều được chuẩn bị sẵn, ngay trước hôm phẫu thuật tớ đã hỏi bố mẹ xem tớ mua một bộ vét có được không, một bộ rất đẹp ấy để phòng trường hợp nhỡ đâu tớ chết. Dẫu sao tớ cũng chưa có cơ hội được mặc nó. Cho đến tận tối nay.”
“Vậy đây là bộ vét tang của cậu.”
“Chuẩn. Cậu cũng quần áo tang chứ?”
“Ừm,” tôi trả lời. “Một bộ váy tớ mua dành cho bữa tiệc sinh nhật mười lăm. Nhưng mà tớ không mặc nó đi hẹn hò đâu.”
Mắt cậu ấy hấp háy. “Chúng mình đang hẹn hò à?” cậu ấy hỏi.
Tôi cụp mắt xuống, cảm giác thật ngượng ngùng. “Đừng nghĩ lung tung nữa.”
Cả hai chúng tôi đều đã rất no nhưng món tráng miệng – món crémeux thơm ngon béo ngậy phủ chanh leo ở ngoài – quá tuyệt đến nỗi ít cũng phải nhấm nháp được chút, thế là chúng tôi lai rai một lúc cố chờ cho bụng đói trở lại. Mặt trời cứ nấn ná chưa chịu đi ngủ: Đã tám rưỡi tối mà trời vẫn sáng.
Đột nhiên Augustus hỏi, “Cậu có tin vào sự sống sau khi chết không?”
“Tớ nghĩ vĩnh hằng là một khái niệm không chính xác,” tôi trả lời.
Cậu ấy nhấc miệng cười. “Cậu là một khái niệm không chính xác.”
“Tớ biết. Thế nên tớ mới không được luân hồi.”
“Chuyện đó không vui vẻ gì cả,” cậu ấy nhìn ra đường. Có hai cô gái đạp xe ngang qua, chị đằng sau ngồi vắt hai chân qua một bên.
“Thôi nào,” tôi nói. “Tớ chỉ đùa thôi mà.”
“Cái ý nghĩ cậu bị bỏ rơi khỏi kiếp luân hồi chẳng vui vẻ gì với tớ,” cậu ấy nói. “Nghiêm túc nhé: sự sống sau khi chết?”
“Không,” tôi đáp rồi sau đó sửa lại. “Ừ thì, có lẽ tớ không dám khẳng định là không có. Cậu?”
“Có,” cậu ấy nói, giọng đầy tự tin. “Có, chắc chắn có. Không phải kiểu thiên đường nơi cậu cưỡi kỳ lân, chơi đàn hạc, sống trong những dinh thự xây bằng mây. Nhưng có. Tớ tin vào Thứ gì đó với chữ T viết hoa. Nó luôn tồn tại.”
“Thật à?” tôi hỏi. Tôi rất ngạc nhiên. Thành thực mà nói trước giờ tôi luôn đánh đồng đức tin vào thiên đường với cả sự xa rời tri thức khoa học. Nhưng Gus đâu có ngốc.
“Ừ,” cậu ấy lặng lẽ nói. “Tớ tin vào một câu trong Nỗi đau tột cùng. ‘Ánh bình minh vẫn chói lòa trong đôi mắt đang mất đi của cô ấy.’ Đó là Đức Chúa, tớ nghĩ thế, ánh mặt trời mọc, ánh sáng chói lòa và đôi mắt của cô ấy chỉ đang rời xa chứ chưa mất hẳn. Tớ không tin chúng ta có thể quay lại để ám ảnh hay phù hộ những người đang sống, nhưng tớ nghĩ chúng ta sẽ trở thành một thứ gì đó khác.”
“Nhưng cậu sợ sự quên lãng.”
“Ừ, tớ sợ sự lãng quên của trần thế. Nhưng không giống kiểu bố mẹ tớ, tớ tin vào những linh hồn, và tớ tin rằng những linh hồn vẫn luôn ở lại. Nỗi sợ bị quên lãng là một chuyện khác, sợ rằng tớ sẽ không thể làm được gì để đổi lấy mạng sống của chính mình. Nếu không sống một cuộc sống có ích thì ít ra hãy chết một cái chết có nghĩa, cậu hiểu chứ? Tớ sợ mình sẽ chẳng có cả cuộc sống hay cái chết có ý nghĩa gì.”
Tôi chỉ lắc đầu.
“Sao thế?” cậu ấy hỏi.
“Nỗi ám ảnh của cậu về chuyện hi sinh cho chuyện gì đó hay để lại dấu ấn đằng sau cuộc đời anh hùng của cậu. Thật ngớ ngẩn.”
“Ai cũng đều muốn một cuộc sống đặc biệt.”
“Không phải ai cũng thế,” tôi nói, không thể che giấu vẻ khó chịu của mình.
“Cậu bực mình à?”
“Nó chỉ là,” tôi chẳng thể nói hết câu. “Chỉ là,” tôi nhắc lại. Ánh nến lập lòe giữa hai chúng tôi. “Cậu thật ích kỷ khi nói một người chỉ có ý nghĩa khi họ sống hay chết vì điều gì đó. Thật sự ích kỷ khi nói thế với tớ.”
Tôi thấy mình hơi trẻ con, rồi tôi cắn một miếng bánh tráng miệng để tỏ ra nó chẳng có vấn đề gì lắm. “Xin lỗi,” cậu ta nói. “Tớ không có ý như vậy. Tớ chỉ đang nghĩ về bản thân mình thôi.”
“Ừ, đúng thế,” tôi no đến nỗi không thể ăn hết được. Tôi thực sự sợ mình sẽ nôn, bởi tôi cũng thường bị thế sau khi ăn. (Chẳng phải chứng háu ăn, chỉ là ung thư.) Tôi đẩy đĩa bánh của mình về phía Gus nhưng cậu ấy cũng lắc đầu.
“Tớ xin lỗi,” cậu ấy nhắc lại lần nữa, đưa tay qua mặt bàn với lấy tay tôi. Tôi để cậu ấy nắm lấy nó. “Tớ có thể sẽ tệ hơn mà, cậu biết đấy.”
“Như nào?” tôi chọc.
“Thì sẽ lại có một bức thư pháp treo trong toa lét nhà tớ, ‘Hãy Tắm Mình Hàng Ngày Trong Lời An Ủi Của Kinh Thánh,’ Hazel. Tớ có thể sẽ tệ hơn nữa.”
“Nghe gớm quá,” tôi nói.
“Tớ có thể sẽ tệ hơn.”
“Cậu có thể sẽ tệ hơn,” tôi cười. Cậu ấy thực sự thích tôi. Có thể tôi là người tự yêu bản thân quá đà gì đấy, nhưng tôi biết khoảnh khắc ở Oranjee lúc đó khiến tôi càng thích cậu ấy nhiều hơn.
Anh phục vụ của chúng tôi đến dọn món tráng miệng và thông báo, “Bữa tối của anh chị đã được Ngài Peter Van Houten thanh toán.”
Augustus cười. “Ông Peter Van Houten này không tệ lắm nhỉ.”
Chúng tôi đi bộ dọc theo con kênh lúc trời đang tối dần rồi dừng lại ở một chiếc ghế đá công viên cách Oranjee một dãy nhà, xung quanh là một đống xe đạp han gỉ đã cũ được khóa vào giá giữ xe và khóa lại với nhau. Chúng tôi ngồi xuống cạnh nhau nhìn ra phía con kênh, rồi cậu ấy vòng tay qua ôm tôi.
Tôi có thể thấy ánh đèn nhấp nháy từ khu Phố Đèn Đỏ. Dù gọi là Phố Đèn Đỏ nhưng ánh sáng phát ra từ đây lại xanh kỳ quái. Tôi tưởng tượng ra cảnh hàng ngàn du khách say khướt, chẳng ý thức được mình đang liêu xiêu trong những con phố chật hẹp.
“Không thể tin được ngày mai ông ấy sẽ kể cho chúng ta nghe,” tôi nói. “Peter Van Houten sắp sửa kể cho chúng ta đoạn kết tuyệt vời chưa từng được viết nên của cuốn sách hay nhất mọi thời đại.”
“Ông ấy còn thanh toán cho bữa tối của chúng mình nữa,” Augustus thêm vào.
“Tớ cứ tưởng tượng là trước khi kể ông ấy sẽ lục soát khắp người chúng ta để xem có máy ghi âm không đã. Rồi ông ấy sẽ ngồi giữa hai đứa trên ghế sofa trong phòng khách và thì thầm chuyện mẹ Anna có cưới chú Tulip Hà Lan không.”
“Đừng quên Sisyphus chú chuột Hamster nữa,” Augustus nhắc.
“Ừ, tất nhiên cả câu chuyện về số phận của Sisyphus chú chuột Hamster nữa,” tôi nghiêng người ra trước, nhìn xuống lòng kênh. Có rất nhiều cánh hoa du nhạt màu dưới những con kênh, buồn cười thật. “Một đoạn kết dành riêng cho hai ta,” tôi nói.
“Cậu đoán sao?” cậu ấy hỏi.
“Tớ không biết nữa. Tớ đã nghĩ đi nghĩ lại hàng ngàn lần chuyện đó rồi. Mỗi lần đọc tớ lại nghĩ một khác, cậu biết đấy?” Cậu ấy gật đầu. “Cậu có giả thuyết nào không?”
“Ừ. Tớ không nghĩ chú Tulip Hà Lan là một tên lừa đảo, dù có thể không giàu như chú thể hiện cho người ta tin. Tớ nghĩ sau khi Anna chết, mẹ Anna cùng chú ấy đến Hà Lan với mong muốn được sống bên nhau trọn đời, nhưng kết quả thì không như thế bởi bà muốn được ở gần nơi con gái mình nằm.”
Tôi chưa từng nhận ra cậu ấy cũng nghĩ nhiều về cuốn sách như thế, rằng cuốn Nỗi đau tột cùng cũng chiếm một góc độc lập trong tâm trí Gus với một góc dành cho tôi.
Sóng nước nhẹ nhàng vỗ vào bức kè đá dưới chân chúng tôi; một nhóm thanh niên đạp xe qua, hò hét bằng chất giọng Hà Lan với những âm yết hầu liến thoắng; một vài chiếc thuyền nhỏ xíu, chẳng dài hơn tôi là mấy, nửa chìm xuống lòng kênh; mùi dòng nước đã tù động quá lâu; cánh tay cậu ấy kéo tôi vào lòng; cái chân thật của cậu ấy tì sát với cái chân thật của tôi từ hông đến tận bàn chân. Tôi hơi ngả người vào cậu ấy. Cậu ấy nhăn mặt lại. “Xin lỗi, cậu không sao chứ?”
Cậu ấy thở ra một chữ ừ với vẻ đau đớn rõ ràng.
“Xin lỗi nhé,” tôi nói. “Vai tớ toàn xương.”
“Không sao mà,” cậu ấy đáp. “Thực ra nó rất đẹp.”
Chúng tôi cứ ngồi như thế một lúc lâu. Cuối cùng tay cậu cũng buông vai tôi ra để ngả mình tựa vào chiếc ghế đá. Chúng tôi hầu như chỉ nhìn xuống lòng kênh. Tôi cứ nghĩ mãi tại sao họ lại có thể dựng nên nơi này khi lẽ ra nó đã chìm dưới nước, rồi với Bs. Maria tôi cũng giống Amsterdam, một ca dị thường nửa chìm nửa nổi, rồi nó khiến tôi lại nghĩ về cái chết. “Tớ có thể hỏi cậu chuyện về Caroline Mathers không?”
“Thế mà cậu nói không có sự sống sau cái chết,” cậu ấy trả lời mà chẳng quay sang nhìn tôi. “Nhưng ừ, tất nhiên. Cậu muốn biết chuyện nào?”
Tôi chỉ muốn biết cậu ấy thế nào nếu như tôi chết. Tôi muốn mình không phải là một quả bom, không phải một ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của những người tôi thương yêu. “Thì kiểu đã có chuyện gì thôi.”
Cậu ấy thở dài, lâu đến nỗi với hai lá phổi vớ vẩn của tôi cậu ấy như thể đang khoe khoang. Cậu ấy ngậm một điếu thuốc trên môi, “Thì cậu biết chẳng có chỗ nào kém náo nhiệt hơn cái sân chơi của viện đấy?” Tôi gật đầu. “Tớ nằm lại viện Memorial một vài tuần sau khi bị tháo chân. Lúc đấy tớ đang ở trên tầng năm và nhìn xuống sân chơi, dĩ nhiên nó vẫn luôn vắng tanh vắng ngắt, phiêu du với những ý nghĩa ẩn dụ của cái sân chơi trống trải trong viện. Rồi cô ấy xuất hiện một mình ở đó, ngày nào cũng như ngày nào, đung đưa một mình trên chiếc ghế đu, giống kiểu cậu vẫn hay thấy trong phim gì đấy. Sau đó tớ mới nhờ một trong những chị y tá tốt bụng của tớ tìm hiểu về cô ấy, rồi chị y tá dẫn cô ấy lên thăm tớ, và đó là Caroline, tớ đã dùng vẻ quyến rũ chết người của mình để mê hoặc cô ấy.” Cậu ấy ngừng lại, thế nên tôi nghĩ mình phải nói gì đó.
“Cậu không quyến rũ thế đâu,” tôi nói. Cậu ấy cười, có vẻ chẳng tin. “Cùng lắm đẹp trai tí thôi,” tôi giải thích.
Cậu ấy cười xòa. “Chuyện về người đã khuất,” cậu ấy nói, rồi lại ngập ngừng. “Cậu sẽ giống một kẻ không ra gì nếu không thêm chút lãng mạn cho chúng, nhưng sự thật thì…rất phức tạp, tớ nghĩ thế. Giống như cậu hẳn đã quen với ý nghĩa ẩn sau những bệnh nhân ung thư khắc kỷ và quyết đoán đã anh dũng chiến đấu với căn bệnh ung thư chỉ với sức lực của một con người mà chẳng hề ca thán hay tắt đi nụ cười ngay cả trong những giây phút cuối, đại loại thế?”
“Thật mà,” tôi nói. “Họ là những linh hồn có trái tim ấm áp và khoan dung mà mỗi hơi thở đều là một Nguồn Cảm Hứng Cho Tất Cả Chúng Ta. Họ rất mạnh mẽ! Chúng ta nên cảm phục họ chứ!”
“Ừ, nhưng thực ra, tất nhiên trừ chúng ta ra, những bệnh nhi ung thư khác nhiều khả năng đều rất tuyệt vời và đầy nhiệt huyết và giàu nghị lực và gì đấy. Caroline lại luôn tâm trạng và rầu rĩ, nhưng tớ thích thế. Tớ thích cái cảm giác như thể cô ấy chọn tớ là người duy nhất trên thế giới này để không ghét bỏ, rồi phần lớn thời gian chúng tớ chỉ ngồi nói xấu người khác, cậu hiểu chứ? Cười nhạo những cô y tá, những bệnh nhân khác rồi cả gia đình họ và những người khác. Nhưng tớ không biết đó là tại cô ấy hay tại khối u nữa. Một chị y tá của của cô ấy có lần kể rằng khối u của Caroline thuộc một loại được biết đến trong y khoa với cái tên Khối U Đê Tiện, đơn giản vì nó biến người ta thành một con quái vật. Vậy đấy, một cô nàng đã mất một phần năm bộ não với Khối U Đê Tiện tái phát, cậu biết đấy, cô ấy không phải là hình mẫu cho chủ nghĩa anh hùng của bệnh nhi ung thư khắc kỷ. Cô ấy…thành thực thì cô lấy là một đứa khốn nạn. Nhưng mà không nói thế được bởi vì cô ấy mắc khối u đấy, mà cô ấy cũng, ý tớ là, cũng đã mất. Cô ấy có rất nhiều lý do thành ra khó ưa như thế, cậu biết không?
Tôi biết.
“Cậu nhớ trong Nỗi đau tột cùng có một đoạn khi Anna đang đi ngang qua sân bóng để đến lớp thể dục gì đó thì bị ngã úp mặt xuống sân, đó là lúc Anna biết bệnh ung thư đã tái phát trở lại tấn công hệ thần kinh của bạn ấy và bạn ấy không thể tự mình đứng dậy và mặt bạn ấy chỉ nằm cách mặt cỏ sân bóng có vài phân và bạn ấy cứ nằm đó chăm chú quan sát cách những tia nắng đọng lại trên từng ngọn cỏ ngay sát trước mặt và… Tớ không nhớ nguyên văn nhưng đại loại là Anna đã có một khám phá kiểu Whitman rằng định nghĩa của nhân tính chính là khoảnh khắc nhận ra ta ngạc nhiên trước vẻ kỳ vĩ của tạo hóa gì đấy. Cậu biết đoạn đấy chứ?”
“Tớ biết đoạn đấy,” tôi nói.
“Nên sau đó, trong khi bị tháo chân bởi hóa trị, tớ đã quyết định phải cảm thấy đầy hi vọng. Không hẳn vì đã sống sót, nhưng tớ có cảm giác giống hệt như Anna từng cảm thấy trong cuốn sách, cảm giác hứng khởi và biết ơn vì vẫn còn được ngạc nhiên về mọi chuyện.
“Nhưng Caroline thì càng tệ đi mỗi ngày. Cô ấy về nhà sau một thời gian và đã có những lúc tớ nghĩ chúng tớ có thể có, ừm, một mối quan hệ bình thường, nhưng thực ra là không bởi cô ấy chẳng có một lớp ngăn cách nào giữa những suy nghĩ và lời nói của mình, những lời buồn bã, khó chịu và thường xuyên gây tổn thương. Nhưng tớ nghĩ mình không thể nào bỏ rơi một cô gái đang mắc bệnh ung thư não. Và bố mẹ cô ấy cũng rất quý tớ, cô ấy còn có một đứa em trai cực đáng yêu nữa. Làm sao tớ có thể bỏ rơi cô ấy? Cô ấy đang chết.
“Mọi chuyện cứ kéo dài tưởng như mãi mãi. Gần một năm, một năm của tớ hẹn hò với một cô nàng, kiểu như, cứ cười phá lên chẳng cần lý do gì cả rồi chỉ vào cái chân giả của tớ và gọi tớ là Thằng Lùn.”
“Không,” tôi thốt lên.
“Ừ. Tớ nghĩ đấy là tại khối u. Nó ăn dần bộ não cô ấy, cậu biết mà? Hoặc cũng chẳng phải do khối u nữa. Tớ chẳng cách nào biết được, bởi lẽ cô ấy và khối u là chẳng thể tách rời. Bệnh cô ấy nặng dần thêm, suốt ngày lải nhải đúng một câu chuyện rồi tự mình cười mình dù cô ấy đã nói những thứ như thế cả trăm lần trong ngày. Kiểu như, cô ấy nhắc đi nhắc lại một câu đùa cợt trong hàng tuần trời: ‘Gus có đôi chân tuyệt vời. Ý tớ là một chân thôi.’ Rồi cô ấy lại cười như người điên dại.”
“Ôi, Gus,” tôi nói. “Thật là…” tôi chẳng biết phải nói gì. Cậu ấy không nhìn tôi, và thật không phải nếu tôi cứ nhìn cậu ấy. Tôi cảm thấy cậu ấy dịch người ra một chút rồi bỏ điếu thuốc ra khỏi miệng, nhìn chằm chằm vào nó, vân vê giữa ngón cái và ngón trỏ rồi ngậm trở lại.
“Ừ,” cậu ấy nói, “công bằng mà nói thì tớ đúng là có một cái chân tuyệt vời.”
“Tớ rất tiếc,” tôi nói. “Tớ thực sự rất tiếc.”
“Không sao mà, Hazel Grace. Nhưng để nói cho rõ, tớ không thực sự hạnh phúc lắm khi tớ nghĩ tớ đã gặp hình bóng của Caroline Mathers ở Nhóm Tương Trợ. Tớ nhìn vậy thôi chứ không có mong mỏi gì, nếu cậu hiểu ý tớ.” Cậu ấy rút hộp thuốc trong túi áo ra rồi bỏ điếu thuốc lại trong đó.
“Tớ rất tiếc,” tôi nói lần nữa.
“Tớ cũng thế,” cậu ấy nói.
“Tớ không bao giờ muốn làm thế với cậu đâu,” tôi bảo cậu ấy.
“Ồ, tớ không phiền đâu, Hazel Grace. Sẽ là đặc ân nếu trái tim tớ được tan nát vì cậu.”