Books are the glass of council to dress ourselves by.

Bulstrode Whitlock

 
 
 
 
 
Tác giả: Diana Wynne Jones
Thể loại: Truyện Ngắn
Biên tập: diep ho
Upload bìa: diep ho
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 42
Cập nhật: 2023-04-08 21:56:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 11: Con Thú Hoang Khiến Abdullah Lãng Phí Một Điều Ước
HƯƠNG 11
Con thú hoang khiến Abdullah lãng phí một điều ước
Người lính chống khuỷu tay quay lại nhìn Abdullah.
“Câu đó là sao?”
“Chẳng sao cả,” Abdullah nói, “trừ việc cuộc đời tôi toàn những điều thất vọng.”
“Kể xem nào,” người lính nói. “Trút ra đi. Dù sao thì tôi cũng đã kể cho cậu nghe về đời tôi.”
“Ông sẽ chẳng tin tôi đâu,” Abdullah nói. “Nỗi đau khổ của tôi thậm chí còn vượt qua nỗi đau khổ của ông, thưa kỵ sĩ hung tợn nhất.”
“Cứ thử xem nào,” người lính nói.
Bằng cách nào đó chuyện này chẳng hề khó để kể ra, nhờ hoàng hôn và nỗi đau khổ mà nó làm dâng trào trong Abdullah. Vậy nên khi tòa lâu đài chầm chậm tản ra và tan đi thành những doi cát trên vùng biển-trời và cả buổi hoàng hôn nhẹ nhàng mờ dần sang sắc tím, rồi nâu, và cuối cùng chỉ còn lại ba dải đỏ tối thẫm giống như những vết rạch đang lành trên gương mặt người lính, Abdullah đã kể cho lão nghe toàn bộ câu chuyện của mình. Hoặc ít nhất cũng đã kể xong những ý chính. Anh dĩ nhiên không kể những chuyện quá riêng tư như những mộng tưởng hay việc gần đây thật khó chịu làm sao khi chúng cứ trở thành hiện thực, và anh rất cẩn thận để không nhắc gì đến linh thần. Anh không tin người lính sẽ không cướp lấy cái chai và biến mất cùng nó trong đêm, và anh càng vững lòng thêm bớt câu chuyện nhờ nỗi nghi ngờ mạnh mẽ rằng người lính cũng đã không kể hết vấn đề của mình. Đoạn cuối của câu chuyện khá khó kể khi không nhắc đến linh thần, nhưng Abdullah nghĩ mình xoay xở khá tốt. Anh tạo ấn tượng là mình đã thoát khỏi xiềng xích và trốn khỏi đám cướp chỉ bằng sức mạnh ý chí, và rồi anh đã cuốc bộ về hướng Bắc tới tận Ingary.
“Hừm,” người lính thốt lên khi Abdullah kể xong. Lão nghiền ngẫm, đoạn cho thêm mấy cành cây bụi hắc mùi vào lửa, lúc này là nguồn sáng duy nhất còn lại. “Đúng là một cuộc đời sóng gió. Nhưng tôi nghĩ nó được đền bù xứng đáng khi định mệnh buộc cậu kết hôn với một cô công chúa. Đó là điều mà tôi luôn mong mình sẽ đạt được - lấy một công chúa kiệm lời tốt bụng và được thừa hưởng một phần vương quốc. Thực tình tôi vẫn mơ mộng thế đấy.”
Abdullah bật ra một ý tưởng tuyệt hảo. “Rất có thể sẽ được đấy,” anh khẽ nói. “Ngày mà tôi gặp ông, tôi có một giấc mơ - một thị kiến - trong đó một thiên thần sương khói màu hoa cà đến và chỉ cho tôi tìm ông, thưa nhà viễn chinh sáng suốt nhất, trong khi ông đang ngủ trên cái ghế dài bên ngoài nhà trọ. Thiên thần nói ông có thể giúp tôi rất nhiều trong việc tìm Hoa Đêm. Và thiên thần nói nếu ông giúp được tôi, phần thưởng của ông là một nàng công chúa khác.” Điều này đúng - hay sẽ gần như đúng thật, Abdullah tự nhủ. Anh chỉ cần ước đúng điều đó với linh thần vào ngày hôm sau. Hay đúng hơn, vào ngày kia, anh tự nhắc mình, bởi linh thần đã buộc anh dùng điều ước của ngày mai vào ngày hôm nay. “Ông sẽ giúp tôi chứ?” anh hỏi, căng thẳng nhìn gương mặt người lính dưới ánh lửa. “Vì phần thưởng lớn này.”
Người lính chẳng có vẻ hốt hoảng mà cũng chẳng háo hức. Lão cân nhắc. “Tôi không chắc mình giúp được cái gì,” cuối cùng lão nói. “Đầu tiên tôi không phải chuyên gia về ma thần. Dường như chúng tôi không có cái gì như thế ở miền Bắc xa xôi này. Cậu cần phải hỏi đám pháp sư Ingary chết tiệt về chuyện ma thần làm gì với các cô công chúa sau khi bắt họ đi. Đám pháp sư chắc biết đấy. Tôi có thể giúp cậu bắt một gã pháp sư phun ra câu trả lời nếu cậu muốn. Rất hân hạnh. Còn về công chúa - cậu cũng biết họ chẳng mọc trên cây. Cô gần nhất hẳn phải là con gái của vua Ingary, tít ở Kingsbury. Nếu nàng ta là điều mà gã bạn thiên thần sương khói của cậu nghĩ đến thì tôi đoán tôi và cậu tốt nhất nên đi xuống đường kia xem. Người ta bảo tôi rằng hầu hết đám pháp sư của nhà vua cũng sống ở hướng đó, vậy nên càng phù hợp. Như thế có hợp ý cậu không?”
“Cực kỳ hợp, ông bạn quân nhân của lòng tôi!” Abdullah nói.
“Thế thì quyết định vậy đi - nhưng tôi không hứa hẹn gì đâu, nhớ đấy,” người lính nói. Lão lấy hai cái chăn ra khỏi ba lô và đề nghị họ chất củi vào lửa rồi đi ngủ.
Abdullah tháo cái chai linh thần ra khỏi thắt lưng và cẩn thận đặt nó xuống phiến đá trơn bên cạnh anh ở phía đối diện với người lính. Rồi anh cuộn mình trong chăn và nằm xuống đón một đêm khá phiền muộn. Mặt đá cứng ngắc. Và dù anh không bị rét như đêm qua trong sa mạc, bầu không khí ẩm ướt của Ingary khiến anh run rẩy cũng y như thế. Thêm vào đó, ngay khi nhắm mắt lại, anh thấy nỗi ám ảnh về con dã thú trong cái hang trên hẻm núi ập đến. Anh cứ tưởng tượng ra mình nghe thấy nó rình mò quanh chỗ họ hạ trại. Một hoặc hai lần anh mở mắt ra và thậm chí nghĩ mình thấy gì đó di chuyển chỉ ngay bên ngoài phạm vi ánh sáng của ngọn lửa. Mỗi lần như thế anh lại ngồi dậy và ném thêm củi vào lửa, và ngọn lửa bừng lên cho anh thấy chẳng có gì ngoài đó. Phải mất một lúc lâu anh mới chìm vào giấc ngủ. Khi đó, anh có một giấc mơ vô cùng kinh khủng.
Anh mơ thấy khi gần bình minh, một gã ma thần đến ngồi lên ngực anh. Anh mở mắt ra để bảo nó cút đi, và thấy đó chẳng phải ma thần mà là con dã thú trong cái hang. Nó đứng đó, hai chân trước to lớn đè lên ngực anh, trợn trừng nhìn xuống anh với đôi mắt như hai ngọn đèn ánh lam trong lớp lông sẫm như nhung. Theo Abdullah thấy thì đó là ác quỷ trong hình dáng con báo đen.
Anh bật dậy và thét lên.
Hiển nhiên chẳng có gì ở đó. Bình minh đang hé mở. Ngọn lửa trở thành một đốm ửng hồng trong cảnh vạn vật xám xịt, và người lính là một đống xám xịt thẫm màu hơn, đang khe khẽ ngáy bên kia ngọn lửa. Đằng sau lão, vùng thấp hơn trắng xóa sương mù. Abdullah mệt mỏi cho thêm một bụi cây vào ngọn lửa, và lại ngủ tiếp.
Anh bị đánh thức bởi tiếng gầm rú lồng lộng của linh thần.
“Ngăn thứ này lại! Lôi nó RA khỏi ta!”
Abdullah nhảy dựng lên. Người lính nhảy dựng lên. Trời đã sáng bảnh mắt. Họ chẳng thể nhầm lẫn về thứ họ nhìn thấy. Một con mèo đen đang nằm thủ thế bên cái chai linh thần, ngay cạnh nơi Abdullah vừa đặt đầu. Con mèo hoặc rất tò mò, hoặc tin rằng có thức ăn trong chai, vì nó khéo léo sục mũi vào cổ chai. Quanh cái đầu láng mịn của nó, linh thần đang tràn ra thành mười, mười hai luồng khói xanh vặn vẹo và những luồng khói cứ tiếp tục biến thành những bàn tay hay khuôn mặt rồi lại biến trở lại thành khói.
“Giúp ta!” các linh thần tí hon đồng thanh hét lên. “Nó đang cố ăn ta hay sao đó!”
Con mèo hoàn toàn lờ linh thần đi. Nó cứ tiếp tục sục mũi như thể trong chai có thứ mùi cực kỳ hấp dẫn.
Ở Zanzib, tất cả mọi người đều ghét mèo. Người ta cho rằng chúng chỉ tốt hơn lũ chuột nhắt và chuột cống chúng ăn chút xíu thôi. Nếu có mèo đến gần ta, ta đá nó, và ta sẽ dìm chết bất cứ con mèo con nào có thể chạm đến. Bởi vậy, Abdullah lao đến con mèo, vừa chạy vừa tung chân đá. “Xùy!” anh hét. “Cút đi!”
Con mèo nhảy dựng. Nó xoay xở tránh được cú đá của Abdullah và bỏ chạy lên đỉnh khối đá chìa ra trên đầu anh, nơi nó kêu khè khè và trừng mắt nhìn anh. Thế thì nó không điếc, Abdullah nghĩ, nhìn vào mắt nó. Chúng màu xanh lam. Thì ra đó là thứ ngồi lên ngực anh suốt cả đêm! Anh nhặt một hòn đá và vung cánh tay định ném nó.
“Đừng làm thế!” người lính nói. “Con thú nhỏ tội nghiệp!”
Con mèo không chờ Abdullah ném đá. Nó nhảy biến khỏi tầm mắt. “Con dã thú đó chẳng có gì tội nghiệp cả,” anh nói. “Thưa người xạ thủ dịu dàng, ông hẳn phải nhận ra tối qua con thú đó suýt thì móc mắt ông.”
“Tôi biết,” lão nhẹ nhàng nói. “Nó chỉ tự vệ thôi, con thú tội nghiệp. Trong cái chai của cậu là một linh thần à? Người bạn sương khói màu xanh của cậu đấy à?”
Một lữ khách bán thảm từng kể với Abdullah rằng hầu hết người phương Bắc đều có mối đa cảm không thể giải thích được với động vật. Abdullah nhún vai và chua chát quay về cái chai linh thần, linh thần đã biến vào trong mà chẳng cảm ơn lấy một lời. Sao chuyện này lại xảy ra cơ chứ! Giờ anh sẽ phải trông chừng cái chai như diều hâu. “Đúng thế,” anh nói.
“Tôi đã nghĩ chắc là thế mà,” người lính nói. “Tôi từng nghe kể về linh thần. Tới đây nhìn xem này?” lão cúi người và cẩn thận nhặt cái mũ của mình lên, cười một cách kỳ quặc và dịu dàng.
Buổi sáng hôm nay rõ ràng người lính có chuyện gì đó không ổn - như thể bộ não của lão đã dịu lại trong đêm. Abdullah tự hỏi có phải là vì những vết rạch không, dù giờ chúng đã hầu như biến mất. Abdullah căng thẳng đi sang chỗ lão.
Ngay lập tức con mèo lại đứng trên phiến đá chìa ra, lại phát ra tiếng như tiếng ròng rọc sắt, sự giận dữ và lo lắng hiển hiện trên từng đường nét thân thể màu đen nhỏ bé. Abdullah lờ nó đi và nhìn vào mũ của người lính. Một đôi mắt tròn xanh biếc chòng chọc nhìn anh từ bên trong cái mũ nhơm nhớp. Con mèo con màu đen nhỏ xíu bên trong lủi ra góc sau cái mũ, cái miệng hồng nhỏ bé rít lên thách thức, cái đuôi nhỏ xíu, xù như bàn chải cọ chai đập lia lịa để giữ thăng bằng.
“Cưng không này?” người lính mê mẩn nói.
Abdullah liếc nhìn con mèo đang kêu trên phiến đá. Anh đờ người và nhìn lại kỹ hơn. Con thú to đùng. Một con báo đen sừng sững đứng đó, nhe răng nanh trắng ởn về phía anh.
“Những con thú này hẳn thuộc về một mụ phù thủy, ôi người bạn đồng hành can đảm,” anh run rẩy nói.
“Nếu thế thì mụ phù thủy hẳn đã chết hay sao đó,” người lính nói. “Cậu thấy chúng rồi còn gì - chúng sống hoang dã trong cái hang đó. Mèo mẹ hẳn đã đem con mình tới đây trong đêm. Thật kỳ diệu phải không? Nó hẳn biết chúng ta sẽ giúp nó!” Lão nhìn lên con thú lớn đang gầm ghè trên phiến đá và không có vẻ để ý thấy kích cỡ của nó. “Xuống đây nào, bé cưng!” lão dỗ ngọt. “Mày biết bọn tao sẽ không làm mày hay con mày bị thương mà.”
Con thú mẹ nhảy khỏi phiến đá. Abdullah nghèn nghẹn hét lên, rồi né người và ngồi sụp xuống nặng nề. Thân hình to lớn đen sẫm lao qua phía trên anh, và trước sự ngạc nhiên của anh, người lính cười phá lên. Abdullah bực dọc nhìn lên thì thấy con thú đã trở lại thành con mèo đen nhỏ bé, giờ gần như trìu mến đi trên bờ vai rộng của người lính và dụi vào mặt lão.
“Ồ, mày đúng là kỳ diệu, Nửa Đêm nhỏ bé!” người lính cười khẽ. “Mày biết tao sẽ chăm sóc Đuôi Vụt cho mày, phải vậy không? Đúng rồi đấy! Nhóc meo!”
Abdullah ghê tởm đứng dậy và quay lưng lại với cảnh nựng nịu này. Cái nồi đã được dọn sạch sẽ trong đêm. Cái đĩa thiếc trống trơn. Anh đi rửa cả hai thứ dưới suối, đầy ý nhị, hy vọng rằng người lính sẽ sớm quên những con thú mầu nhiệm nguy hiểm này đi và bắt đầu nghĩ tới bữa sáng.
Nhưng khi người lính cuối cùng cũng đặt cái mũ xuống và nhẹ nhàng nhấc mèo mẹ khỏi vai, lão chỉ nghĩ đến bữa sáng cho mèo. “Chúng sẽ cần sữa,” lão nói, “và một đĩa cá tươi. Hãy bảo linh thần của cậu lấy một ít cho chúng đi.”
Một luồng khói xanh hoa cà vụt ra khỏi cổ chai và biến thành gương mặt khó chịu của linh thần. “Ồ không,” linh thần nói. “Ta chỉ ban một điều ước mỗi ngày, và hắn đã dùng điều ước hôm nay vào hôm qua rồi. Đi mà bắt cá suối ấy.”
Người lính tức giận tiến về phía linh thần. “Trên núi cao thế này làm gì có cá,” lão nói. “Và Nửa Đêm bé bỏng đang đói, mà nó có mèo con phải cho bú nữa.”
“Tệ quá!” linh thần nói. “Mà đừng có cả gan đe dọa ta, tên lính. Ta đã biến kẻ khác thành cóc vì chuyện ít mạo muội hơn đấy.”
Người lính rõ ràng là một người can đảm - hoặc rất ngu ngốc - Abdullah nghĩ. “Mày làm thế với tao thì tao sẽ đập vỡ cái chai của mày, dù tao ở hình dáng nào đi nữa!” lão hét. “Tao không ước điều này vì bản thân.”
“Ta thích những kẻ ích kỷ hơn,” linh thần vặc lại. “Vậy là ngươi muốn biến thành cóc?”
Khói xanh lại phụt ra thêm khỏi cái chai và hình thành cánh tay đang làm động tác mà Abdullah e rằng mình nhận ra. “Không, không, ngừng lại, tôi van ngài, thưa viên ngọc bích giữa các linh thần!” anh vội vàng nói. “Xin hãy để người lính yên và hãy rộng lòng đồng ý cho tôi thêm một điều ước nhận trước, rằng những con thú này được cho ăn.”
“Ngươi cũng muốn biến thành cóc hả?” linh thần chất vấn.
“Nếu lời tiên tri viết rằng Hoa Đêm sẽ gả cho một con cóc, thì cứ biến tôi thành cóc,” Abdullah thành kính nói. “Nhưng trước hết hãy biến ra sữa và cá, hỡi linh thần vĩ đại.”
Linh thần quay tròn bực bội. “Lời tiên tri phiền phức! Ta không thể làm trái nó. Được rồi. Ngươi có thể ước nếu ngươi để ta yên trong hai ngày nữa.”
Abdullah thở dài. Đúng là lãng phí điều ước kinh khủng. “Được thôi.”
Một bình sữa và một cái đĩa bầu dục trên có cá hồi rơi phịch xuống phiến đá cạnh chân anh. Linh thần ném cho Abdullah ánh mắt cực kỳ không hài lòng và rút vào cái chai.
“Làm tốt lắm!” người lính nói, và nhặng lên đun cá hồi với sữa và đảm bảo không còn xương để lũ mèo khỏi hóc.
Abdullah để ý thấy suốt cả lúc đó con mèo ngồi yên liếm con nó trong cái mũ. Nó dường như không biết linh thần đang ở đó. Nhưng nó biết rõ cá hồi đang ở đó. Ngay khi cá bắt đầu được nấu, nó rời khỏi con mình và đi quanh người lính, meo meo nhặng xị. “Nhanh thôi, nhanh thôi, cục bông đen yêu quý à!” người lính nói.
Abdullah chỉ có thể cho rằng phép thuật của con mèo và của linh thần khác nhau đến nỗi không thể nhận ra nhau. Có một điểm sáng mà anh thấy được ở tình huống này là có đủ cá hồi và sữa cho cả hai con người. Trong lúc mèo mẹ duyên dáng ăn như thuồng luồng và mèo con vừa uốn lưỡi liếm vừa hắt hơi, vụng về cố hết sức để uống món sữa vị cá hồi, thì người lính và Abdullah ăn cháo đặc nấu với sữa và cá hồi nướng.
Sau bữa sáng no nê, Abdullah cảm thấy có thiện cảm hơn với cả thế giới. Anh tự nhủ rằng linh thần không thể chọn ai làm bạn đồng hành cho anh tốt hơn người lính này. Linh thần cũng không quá tồi tệ. Và giờ anh chắc chắn sẽ sớm gặp lại Hoa Đêm. Anh còn đang nghĩ nhà vua và Kabul Aqba cũng chẳng phải tồi tệ lắm thì tức giận phát hiện người lính định mang hai mẹ con nhà mèo theo họ tới Kingsbury.
“Nhưng thưa pháo thủ nhân từ và kỵ sĩ ân cần,” anh phản đối. “Kế hoạch kiếm chiến lợi phẩm của ông rồi sẽ đi về đâu? Ông không thể cướp của kẻ cướp khi mang theo mèo con trong mũ!”
“Tôi cho là tôi sẽ không phải làm chuyện đó nữa, giờ khi anh đã hứa gả cho tôi một cô công chúa,” người lính bình thản trả lời. “Và không ai có thể bỏ Nửa Đêm và Đuôi Vụt ở lại trên núi này mà chết đói. Như thế quá độc ác!”
Abdullah biết cãi thua rồi. Anh chua chát buộc cái chai linh thần vào thắt lưng và thề không bao giờ hứa hẹn cái gì với người lính nữa. Người lính sắp xếp lại ba lô, dập tắt đống lửa và nhẹ nhàng nhặt cái mũ có con mèo con lên. Lão men theo con suối đi xuống, đoạn huýt sáo với Nửa Đêm như thể nó là một con chó.
Tuy nhiên Nửa Đêm có ý khác. Khi Abdullah bước đi theo sau người lính, nó chặn đường anh, trừng mắt đe dọa. Abdullah không để ý và định đi lách qua nó. Và nó lập tức to lớn trở lại. Một con báo đen, thậm chí có lẽ còn lớn hơn trước, gầm ghè chặn đường anh. Anh dừng lại, sợ chết khiếp. Và con thú nhảy xồ vào anh. Anh kinh hoảng đến nỗi quên cả hét. Anh nhắm mắt lại chờ cổ họng bị xé toạc. Thế mà còn nói số phận với chả lời tiên đoán!
Thay vì thế thứ gì đó mềm mại chạm vào cổ họng anh. Những bàn chân thú nhỏ bé chắc nịch đập vào vai anh, rồi một đôi bàn chân nhỏ y như thế nữa chọc vào ngực anh. Abdullah mở mắt ra và thấy Nửa Đêm đã trở lại kích cỡ mèo và đang bám vào ngực áo anh. Đôi mắt xanh lam nhìn lên anh như muốn nói, “Mang ta đi. Nếu không thì coi chừng đấy.”
“Được rồi, bà mèo ghê gớm,” Abdullah nói. “Nhưng hãy cẩn thận đừng làm toạc thêm đường thêu nào trên cái áo này nữa. Đây từng là bộ đồ đẹp nhất của tao. Và xin hãy nhớ rằng tao mang mày đi mà lòng phản đối cực lực. Tao không yêu quý gì mèo đâu.”
Nửa Đêm bình thản leo lên vai Abdullah và vắt vẻo ngồi đầy ngạo nghễ trong khi Abdullah nặng nề vừa bước vừa trượt xuống dưới núi hết cả ngày hôm đó.
Lâu Đài Trên Mây Lâu Đài Trên Mây - Diana Wynne Jones Lâu Đài Trên Mây