Số lần đọc/download: 1539 / 24
Cập nhật: 2016-06-20 21:07:49 +0700
Chương 11
Ông già Tị bây giờ đã thành ra một người khác hẳn.
Trước kia ông mạnh mẽ bao nhiêu thì lúc này ông yếu ớt bấy nhiêu; toàn thân cứ run lẩy bẩy như người hậu đậu. Tay chân ông sờ soạng lào quào như tay chân người phát phiền...
Mắt ông đờ ra, mất hẳn trong sáng; cặp môi ông mấp máy; giọng nói ông trở nên run run như người khóc.
Ông mất hẳn tính người, dớ dẩn chẳng khác một cái hồn ma trong một cái xác chết. Ông đi cò rò lặng lẽ, gặp ai cũng theo liền như cái bóng rồi, bất thần, ông làm cho người ta giật nẩy mình vì một câu rền rĩ:
- Mố nó... khô... ông mán rượu... cho tao!
Tay ông suốt ngày cầm kè kè một cái vỏ chai rượu. Ông ngắm nghía cái chai không một cách buồn rầu rồi bất cứ gặp ai ông cũng níu lấy mà nằn nì:
- Nà... này... má... án cho tao chai rượu này!...
Đàn bà con gái nhìn ông rồi hoảng sợ đâm đầu chạy. Bọn đàn ông con trai mạnh bạo hơn họ cười vào tận mũi ông đoạn trỏ vào cái chai mà đùa nghịch ông:
- Chai rượu đầy đấy thôi! Sao bố không uống đi lại còn hỏi mua gì nữa!
Thấy nói vậy, ông già Tị ngắm nghía cái chai rồi đưa chai lên miệng làm như chai có rượu thực. Ông cũng nhăn mặt, cũng rẩu cặp môi run run thở đánh khà một cái rồi ông lẩm bẩm:
- Chà! Rượu cay quá!...
Người ta phá lên cười. Ông cũng cười thổn thức như người khóc. Và, sau khi đã đi no đi chán khắp nơi, ông già Tị mò về nhà, ngồi rù ở hè hàng trống canh...
Ông không nhìn chi đến vợ con, cũng chẳng nói với ai một lời nào!
Ông thản nhiên như đã tách biệt hẳn với người đời, không còn biết và nhớ một sự gì nữa. Giá có sấm sét ở bên mình ông thì ông vẫn cứ thờ ơ.
Vì có công làm lâu với mỏ nên ông già Tị đã nghỉ hơn một tháng trời mà chủ vẫn chưa lấy ai thay. Nhưng bệnh tình ông càng ngày càng nặng, không hy vọng gì khỏi được nên một buổi tối kia, cái tin một người thợ máy vừa được chủ lấy vào thay ông già Tị đã đem đến cho bà lão và cho Thuật một cảm giác buồn man mác thấm thía.
Không phải vợ con ông buồn vì sợ ông mất việc thì sự ăn tiêu trong nhà bị túng quẫn đâu. Chỉ là vì sự thay đổi ấy tỏ ra rằng cái đời ông già Tị thế là không trông mong gì được nữa, nó có ngụ một ý ngầm cho bà lão và Thuật cảm thấy rõ rệt và đau đớn trước cái chết của ông.
Thuật thở dài, tay ôm trán. Anh ta ngồi thừ ra một lúc lâu rồi khẽ nói với mẹ:
- Bu ạ, bố con xem chừng chỉ còn đợi ngày giờ nữa mà thôi. Con tưởng chẳng nên kiêng nữa. Bố con có thèm thì cho uống là hơn.
Bà lão đành phải bằng lòng. Thuật bèn đứng dậy, cầm tiền chạy đi rồi một lát sau anh đem về một chai rượu.
- Cho ông ấy uống in ít chứ, đừng đưa cả một lúc.
Thuật sẻ vào cái chai không của bố độ chừng hai chén và buồn rầu bảo ông già:
- Đây, con đã mua rượu rồi đây, bố uống đi.
Ông già Tị giương trừng trừng hai mắt nhìn con, nửa ngạc nhiên, nửa không hiểu.
- Rượu đây, bố uống đi.
Ông già Tị cúi nhìn chai rượu đoạn ghé mồm tu một hơi hết sạch. Ông thở giốc lên, mặt càng đờ đẫn, màu da sần sùi càng đỏ lên như gấc chín...
Một lát sau, ông bỗng kêu ằng ặc mấy tiêng như nghẹn thở đoạn ngã lăn kềnh ra, mắt trợn ngược, chân tay co quắp, mặt rúm lại, bọt sùi đầy mép, toàn thân run lên như người động kinh.
Thuật và bà mẹ hoảng sợ kêu gọi ầm ĩ và khiêng vội ông vào giường đắp kín chăn lại, tíu tít hồi lâu ông mới tỉnh, ông thở dài một tiếng; chép miệng tem tép, vật vã chân tay đoạn nói lảm nhảm:
- Tao... chưa say... cứ rót đi... Cứ... cứ rót đi... tao... còn uống nữa!...
Rồi, ông cứ trằn trọc giữa đám chăn chiếu và nói ú ớ như vậy, có đến nửa ngày mới dần dần hồi tỉnh.
Vừa ngồi dậy được, ông đã cò rò ra đi, không ai có thể can ngăn được. Ông đi như một người mất trí, đi như tìm kiếm việc gì và hễ thấy ai ông cũng vội chìa ngay cái vỏ chai ra để đòi mua rượu...
Thoạt đầu, những người trong xóm lao động còn ngạc nhiên chú ý sau họ cũng quen đi mà không ai dám ngó tới ông nữa. Thấy ông, họ cứ cắm đầu bước rảo. Cũng có người tủm tỉm cười có người, trái lại, thở dài tỏ ý thương hại. Nhất là đàn bà. Họ thấy ông đâu họ cũng nhìn ông bằng cái vẻ vừa ghê sợ vừa buồn rầu. Là vì, thấy cái gương nghiện rượu của ông, họ không khỏi nghĩ tới chồng con họ. Những người này hầu hết uống rượu cả. Như trên đã nói, họ làm lụng vất vả nhiều quá nên lúc nào mồm miệng cũng bã bà. Họ phải uống rượu để ăn cho ngon miệng. Tì vị được men rượu làm hăng lên, khiến cho họ cũng có ăn được ít nhiều thật nhưng hễ hơi men bắt đầu nhạt là sự mệt nhọc lại đâu hoàn đấy và còn gấp bội lên là khác. Thế là họ không thể nào nhịn rượu được nữa. Họ cứ uống, họ khuyên nhau uống để tìm lấy một cái ảo tưởng của sự mạnh khỏe. Lâu ngày, họ đâm nghiện rượu tất cả. Những người nào tính thuần còn khá. Đến những người nào tính nóng nảy, hung hăng thì mỗi khi rượu vào, họ còn đập phá đồ đạc, chửi bới vợ con, làm om tỏi cửa nhà, gây cho gia đình họ những trận kinh hoàng ghê gớm...
Rượu là một cái tai vạ của bọn người lao động khổ sở ấy, cũng như thuốc phiện và xóc đĩa. Mà cái gương nghiện rượu thì từ trước đến giờ chưa ai thấy ghê gớm hơn là cái gương ông già Tị.
Ông già Tị bây giờ đã nằm bẹp một chỗ, không đi đâu được nữa rồi.
Biết ông sắp nguy đến nơi, Dương lại thăm ông và bàn với bà lão nên cưới vợ ngay cho Thuật.
Thuật cãi:
- Việc cưới xin là việc vui mừng. Bố tôi đương ốm nặng, chưa biết sống chết lúc nào, tôi còn bụng đâu mà vui mừng được?
Bà lão phân vân không biết nghĩ sao đành chỉ im lặng nhìn hết Thuật lại nhìn Dương.
Nhưng, Dương vẫn quả quyết lắm; anh ta vẫn hết sức bênh vực cái chủ trương của anh.
- Chú nói cũng phải: Kẻ làm con thấy tình cảnh cha già như thế, ai mà không đau đớn cho được! Nhưng, người ta chấp kinh còn phải tòng quyền. Như ông nhà bây giờ chẳng gì cũng đã gần 70 tuổi đầu, nhân sinh thất thập cổ lai hy, nếu ông có về hầu tiên tổ thì tôi tưởng cũng đã phải lắm, không còn non yểu gì nữa. Thế thì sự buồn thương của con cháu cũng chỉ nên dẹp để bên lòng, hãy lo liệu cho ông được mọi sự vuông tròn đã. Mà cái vui lòng của cha mẹ trước khi nhắm mắt là cái gì? Há chẳng phải là được thấy con cái yên bề gia thất rồi ư?
Dương nói một thôi một hồi như người diễn thuyết. Ai nấy lắng nghe và cùng lấy làm phục lắm.
Anh ngừng lại, giơ tay đỡ chén nước mà bà già Tị đưa cho, uống một hớp, đoạn nói tiếp:
- Huống hồ ông lại chỉ có một mình chú thì việc gia thất của chú lại càng cần lắm! Gì bằng bây giờ nằm xuống, ông được thấy đủ mặt con và dâu?
Một bà lão hàng xóm có mặt tại đây gật gù khen:
- Bác Dương nói chí lý. Ấy tôi cũng nghĩ như thế!
Dương vớ ngay lấy lời người biểu đồng tình:
- Có phải không bà?
Bà lão giơ tay vuốt quết trầu ở hai góc mép. Kiêu hãnh vì thấy Dương phải hỏi ý mình:
- Phải lắm! Bà Tị nên sắm sửa lo cưới chạy tang ngay cho anh nó đi là hơn.
Dương đắc chí:
- Chính khi còn khỏe mạnh, ông nhà cũng đã bằng lòng dạm hỏi cô Tép cho chú thì việc này càng nên làm lắm.
Bà mẹ Thuật đã quyết định:
- Vâng tôi xin nghe lời bác Dương. Vậy nhờ bác sang nói với bà Chùm hộ xem ý bà thế nào. Chỗ anh em, bác đã có lòng thương em nó và nghĩ đến bố cháu nhà tôi thì xin bác hết lòng giúp đỡ cho, đừng quản công khó nhọc.
Mọi người cùng hùn vào:
- Phải đấy, bác làm ơn giúp bà cụ và bác Thuật.
- Vâng, chỗ tôi với Thuật là anh em, bà đã nói thế khi nào tôi còn dám quản công.
Nói dứt lời Dương đứng dậy đi ngay.
Dương gặp bà Chùm ở ngang đường.
- Kìa, bác Dương đi đâu đấy?
- Cháu lại đằng bà đây.
- Không đi làm à?
- Hôm nay cháu nghỉ.
- Lại tôi có việc gì vậy?
- Bà về nhà để cháu thưa chuyện.
- Tôi định lại thăm ông già Tị xem thế nào.
- Ấy, cháu cũng vừa ở đấy ra.
- Bệnh ông cụ ra sao?
- Khó lòng lắm!
- Tội nghiệp quá nhỉ?
- Thưa bà người ta đến cõi thì phải chết chứ? Ông bành tổ còn phải chết nữa là!
Câu nói thản nhiên của Dương làm cho bà lão cúi đầu tư lự. Cái chết, lạnh lẽo và hãi hùng hoảng vào lòng bà một cảm giác tê tái...
Người ta ai cũng vậy: Lúc bị sự khổ sở thì kêu trời cho chết nhưng lúc giáp mặt với thần Chết thì lại vội chùn trở lại, thà chịu khổ còn hơn.
Hai người vào nhà.
- Việc gì thế hở bác?
- Bà mẹ anh Thuật có nhờ cháu sang đây thưa chuyện với bà về việc cô Tép.
- Chuyện thế nào?
- Bệnh tình ông cụ xem ra khó lòng qua khỏi được. Bởi thế nên bà cụ mẹ anh Thuật có ý muốn cưới vợ chạy tang cho anh. Bà nhờ cháu sang bên này nói chuyện và hễ xong thì lo ngay.
- Cái gì chứ cái ấy thì tôi sẵn lòng lắm. Anh cứ nói bà Thuật lo liệu qua loa thôi vì ông ấy đang ốm đau như thế, chẳng nên bày vẽ làm gì.
Thế là hai hôm sau, Tép đã là con dâu của ông già Tị.
Nhưng ông già đã không biết gì nữa! Ông nằm mê man trên giường thỉnh thoảng rền rĩ:
- Cho tao uống rượu...rót rượu cho tao uống. Tép cuống quýt, giục chồng:
- Hay là đón đốc tờ về xem cho bố?
- Hay để ông lang Thận cho vài thang nữa xem. Đốc tờ thì tiền đâu? Vả thuốc tây nghe đâu không hay bằng thuốc ta.
Bà lão thoảng nghe câu chuyện cũng nói góp:
- Thôi đừng vẽ! Thuốc tây! Tao thấy bao nhiêu người uống thuốc tây chẳng chết nhăn răng ra cả đấy thôi. Tiền đón đốc tờ thì để làm ma cho ông ấy!
Ông lang Thận vào.
Bà lão Tị cuống quýt vì bà sợ ông ta nghe thấy câu bà nói lại ngờ vực và không bằng lòng chăng. Bà vội chào rất lễ phép:
- Lạy ông ạ! Các cháu nó dại dột quá, đòi xoay thuốc tây nhưng tôi nhất định không nghe.
Ông lang bĩu môi:
- Hừ! Thuốc tây! Phải biết rằng Tây họ chỉ được cái nghề tiêm tiếc sì sằng là tàm tạm được chứ còn nội trị thì chẳng còn ra cái nghĩa lý gì hết. Bà cứ để vậy tôi xem thuốc cho ông nhà, uống hết thang này thử xem có chết được không! Chẳng qua tì vị ngộ độc rượu nhiều quá. Nay tôi giải độc cho, hễ tì vị tỉnh lại là bệnh khỏi!
- Vâng, thôi thì phúc chủ lộc thầy, ông gia tâm cho.
Ông lang, trịnh trọng như một vị thánh sống, bước lại gần giường của ông lão Tị, cầm lấy tay ông vừa định xem mạch thì bệnh nhân đã chửi rầm lên:
- Thôi, bước đi... đồ lang băm!... Không cần có chúng mày tao vẫn chết được như thường!
Rồi ông vùng vằng định ngồi dậy.
- Chai rượu của tao đâu... Chúng bay cất chai rượu của tao đâu?... Muốn sống thì đưa ra trả tao đây...
Nhưng, mệt quá, ông già lại ngã xuống nằm lịm đi...
Tối hôm ấy ông tắt nghỉ. Mặt ông trắng nhợt, mồm ông há hốc như mồm người khát mong uống.
Ma chay bắt đầu...
Người ta làm đủ lệ bộ rồi mới chịu đem chôn ông già khốn nạn.
Đi đưa đám có vợ ông, con trai, con dâu, bọn Dương và cả bọn Tuất và cai Tứ nữa.
Bà lão Tị cũng khóc sụt sịt qua loa vì cái chết của chồng bà dù sao cũng cất cho bà một gánh nặng lớn.
Thuật cúi đầu, hai mắt ráo hoảnh. Không phải rằng anh không thương bố đâu. Chỉ vì cái chết khổ sở của bố khiến Thuật tê mê nghĩ đến cái đời khốn nạn của những người phu phen lao động lầm than mà anh là một trong số đó.
Khóc nhiều hơn chỉ có Tép. Cô thương bố chồng bao nhiêu lại trạnh nhớ đến bố đẻ bấy nhiêu và càng ngậm ngùi cho đời cô không được hưởng cái êm đềm của tình cha con.