A home without books is a body without soul.

Marcus Tullius Cicero

 
 
 
 
 
Tác giả: Edgar Wallace
Thể loại: Trinh Thám
Dịch giả: Phan Linh Lan
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 39
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 240 / 24
Cập nhật: 2020-07-08 19:36:22 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 11 - Đại Tá Tại Sở Cảnh Sát
ai người chưa gặp lại kể từ khi họ tạm biệt nhau trước cửa Tòa án Bắc Lambeth, và trong nụ cười của Đại tá Boundary có chút gì như sự tha thứ và trách móc nhẹ nhàng.
“A, ông King,” ông ta nói, “mời vào, mời vào, được không?
Ông chìa tay cho người kia, nhưng dường như Stafford không nhìn thấy.
“Không có gì khó chịu chứ, ông King, tôi tin là vậy?” Đại tá nói với vẻ thân ái. “Anh cũng biết anh bạn tôi đây, ông Silva? Một cộng sự, giám đốc một vài công ty của tôi.”
“Tôi biết anh ta,” Stafford nói, rồi bảo thêm, “tôi hy vọng sẽ biết rõ hơn về anh ta.”
Pinto nhận ra ẩn ý của lời nói ấy, nhưng không một sợi cơ nào trên mặt anh ta nhúc nhích. Bởi đối với Stafford King, sự căm ghét mà anh ta hướng về phía luật pháp đã mất tính cá nhân. Con người này là một thứ gì đó còn hơn cả một kẻ vây bắt trộm và truy lùng tội phạm. Pinto đã lựa chọn coi Stafford là bạn thân của Maisie White, và vì vậy, cũng là đối thủ của anh ta.
“Chuyện gì khiến chúng tôi nhận được chuyến thăm này?” Đại tá hờ hững hỏi.
“Cục trưởng muốn gặp ông.”
“Cục trưởng?”
“Ngài Stanley Belcom. Là Cục trưởng Cục Hình sự của chúng ta - tôi nghĩ ông chắc chắn đã nghe nói đến ngài ấy.”
“Ngài Stanley Belcom,” Đại tá lặp lại lời anh. “Sao, tất nhiên, tôi có nghe tiếng ngài Stanley. Tôi có thể hỏi ngài ấy muốn gặp tôi về chuyện gì không? Và người bạn trẻ của tôi - ừm, cô White - thế nào rồi?”
“Khi tôi gặp cô ấy lần cuối,” Stafford trả lời bình lặng, “cô ấy trông khá ổn, trong chừng mực mà tôi biết.”
“Thật vậy!” Đại tá nói lịch sự. “Tôi quan tâm khá nhiều đến sự bình an của cô White. Tôi có thể hỏi anh đã nhìn thấy cô ấy khi nào?”
“Đêm qua,” Stafford trả lời. “Cô ấy đứng trước cửa căn hộ của mình ở phố Doughty, nói chuyện với người bạn của ông,” anh gật đầu về phía Pinto và anh ta giật mình. “Ngoài ra,” Stafford hào hứng nói thêm, “còn một người bạn chung khác của chúng ta, ông Crewe cũng ở gần đó, trừ khi tôi nhìn nhầm.”
“Vậy là anh đang theo dõi chúng tôi?” Pinto bùng nổ. “Tôi tưởng sau bài học anh nhận được một vài tuần trước, anh đã…”
“Để tôi tiếp tục cuộc trò chuyện này, nếu cậu không phiền,” Đại tá nói, và cơn giận dữ trong mắt ông ta khiến anh chàng Bồ Đào Nha nín lặng.
“Ông King, chúng ta đã đồng ý để cho chuyện quá khứ đi vào quá khứ. Tôi chắc chắn rằng chỉ có sự nồng nhiệt quá đà đã kích thích anh bạn tôi đây trở nên thiếu tế nhị đến mức đề cập đến những chuyện khó chịu mà chúng ta sẽ để nó trôi khỏi trí nhớ.”
Vậy là cô gái đang được trông chừng. Điều này khiến mọi thứ trở nên khó khăn hơn ông ta tưởng tượng. Tuy nhiên, ông ta dự đoán không có trở ngại quá mức nào đối với chuyện bắt cóc trong thực tế. Kế hoạch của ông ta đã được dàn xếp sáng hôm đó, khi nhìn thấy trên các cột của tờ báo hàng ngày một mẩu quảng cáo bốn dòng, xóa tan hầu như tất cả khó khăn lớn nhất của ông ta.
“Nếu ông King chăm sóc người bạn trẻ của chúng tôi, cô Maisie White, con gái của một trong những cộng sự kinh doanh thân yêu nhất của chúng tôi, ái chà, tôi càng vui mừng,” ông ta hồ hởi nói tiếp. “Ông King, London là một nơi đầy nguy hiểm cho các cô gái trẻ, đặc biệt là những người đã mất đi sự chăm sóc yêu thương của cha mẹ. Một trong những điểm hấp dẫn nhất của lực lượng cảnh sát, nếu tôi có thể được phép nói như vậy, đối với tôi chính là nhận thức rằng họ đang bảo vệ những người không được bảo vệ, là nơi trông cậy của những người không được ai chăm nom.”
Ông ta hơi cúi đầu. Nhưng trước sự thích thú của Đại tá, Stafford nghiêm túc thừa nhận lời khen hào phóng mà tên vô lại khét tiếng nhất London đã tặng cho lực lượng cảnh sát thành phố.
“Khi nào tôi cần gặp thủ trưởng của anh?”
“Ông có thể đi với tôi ngay bây giờ, nếu ông muốn, hoặc ông có thể đến vào mười giờ sáng mai,” Stafford nói.
Đại tá gãi cằm.
“Tất nhiên, tôi hiểu rằng lệnh triệu tập này mang tính thân thiện…” ông ta ngừng lại một cách nghi ngờ.
“À, chắc chắn là vậy,” Stafford nói, đôi mắt lấp lánh, “ngài ấy không phải là người theo cung cách đòi hỏi ‘tôi ngoắc tay là phải tới’. Tôi nghĩ rằng Cục trưởng muốn gặp ông chỉ để tìm hiểu ông là người thế nào. Ông sẽ thích ngài ấy, tôi nghĩ vậy, Đại tá. Ngài ấy là kiểu người cực kỳ quan tâm đến… ừm…”
“Tội phạm?” Đại tá nói nhẹ nhàng.
“Tôi đang cố gắng nghĩ ra một từ tốt đẹp đế dùng thay,” Stafford thừa nhận, “dù sao, ngài ấy cũng quan tâm đến ông.”
“Không có lúc nào như lúc này,” Đại tá nói. “Pinto, đưa giùm tôi chiếc mũ?”
Trên đường đến Sở cảnh sát, họ trò chuyện về các chủ đề chung cho đến khi Stafford hỏi:
“Ông đã nhận được chuyến thăm nào khác từ người bạn của mình chưa?”
“Kẻ Hành Pháp?” Đại tá hỏi. “Có, chúng tôi đã gặp hắn vào đêm hôm nọ. Hắn khá ngộ. Nhân tiện, anh đã nhận được khiếu nại từ bất cứ nơi nào khác chưa?”
Stafford lắc đầu.
“Không, hắn dường như chỉ chuyên chú vào ông, Đại tá. Ông chắc chắn độc quyền chiếm sự chú ý của hắn.”
“Điều gì sẽ xảy ra nếu hắn xuất hiện khi tôi tình cờ mang theo vũ khí giết người?” Đại tá hỏi. “Tôi chưa bao giờ giết người và tôi hy vọng trải nghiệm đáng buồn đó sẽ không xảy ra với mình. Nhưng theo quan điểm của cảnh sát, vị trí của tôi sẽ thế nào giả sử như… có một tai nạn?”
Stafford nhún vai.
“Đó là việc hắn phải dè chừng,” anh nói. “Nếu ông bị đe dọa, tôi dám chắc bồi thẩm đoàn sẽ quyết định rằng ông hành động để tự vệ.”
“Hắn đến vào đêm hôm nọ,” Đại tá hồi tưởng, “khi chúng tôi đang chuẩn bị một cuộc… ừm… đàm phán kinh doanh đặc biệt khó khăn.”
“Xui xẻo!” Stafford nói. “Tôi cho rằng gã khờ đó đã phát hoảng?”
“Cái gì?” Đại tá bối rối hỏi.
“Thằng khờ,” Stafford nói. “Có lẽ ông chưa nghe qua từ này bao giờ. Nó có nghĩa là ‘đồ ngu xuẩn’.”
Đại tá hít một hơi dài.
“Ông vẫn còn hận, tôi thấy vậy, ông King,” ông ta buồn bã nói.
Ông ta bước vào cổng Sở cảnh sát mà không hề run chân chút nào, đi lên bậc cầu thang rộng và dọc theo hành lang, cho đến cánh cửa đôi dẫn vào văn phòng riêng của ủy viên Thứ nhất. Stafford biến mất trong giây lát và lập tức quay lại với tin ngài ủy viên Thứ nhất sẽ không thể gặp vị khách của mình trong nửa giờ tới. Stafford xin lỗi, nhưng Đại tá tỏ ra thoải mái, và tiếp tục trò chuyện cho đến khi một thư ký ra hiệu với họ thông báo rằng vị thủ trưởng cao cấp đã rảnh.
Chính Stafford đưa Đại tá vào trình diện. Ngài Stanley đang ngồi viết sau chiếc bàn lớn và nhìn lên khi Đại tá bước vào.
“Mời ngồi, Đại tá,” ông nói, gật đầu về phía cái ghế bên kia bàn. “Anh không phải đợi, King. Có vài chuyện tôi muốn nói riêng với Đại tá.”
Khi cánh cửa đã đóng lại phía sau viên thanh tra, ngài Stanley dựa lưng vào ghế. Mắt họ chạm nhau, màu xám và màu xanh nhạt, trong vài giây họ nhìn chằm chằm nhau. Ngài Stanley Belcom là người đầu tiên hạ mắt.
“Tôi đã cho mời ông, Đại tá,” ông nói, “vì tôi nghĩ ông có thể cung cấp rất nhiều thông tin, nếu ông sẵn sàng.”
“Xin cứ ra yêu cầu,” Đại tá nói với vẻ phóng khoáng.
“Đây là vấn đề về một vụ giết người xảy ra ở London vài tháng trước,” ngài ủy viên lặng lẽ nói và trong một khoảnh khắc, Đại tá Boundary không nói gì.
“Tôi nghĩ rằng ngài đang đề cập đến vụ ám sát Gregory Tuyết?” Sau cùng, Đại tá nói.
“Chính xác,” ngài ủy viên gật đầu. “Chúng tôi đã điều tra từ bên Hoa Kỳ về danh tính của chàng trai này. Ông biết cậu ta rõ hơn bất cứ ai ở London, Đại tá. Ông có thể cho tôi biết, cậu ta là người Mỹ phải không?”
“Chắc chắn không phải,” Đại tá nói với tiếng thở dài, như thể cảm thấy nhẹ nhõm với chiều hướng của cuộc trò chuyện. “Tôi biết cậu ta do… hừm… tình cảnh, và chính xác tình huống gì, tôi không thể nhớ được vào lúc này. Tôi đã có liên hệ chặt chẽ với cậu ta. Cậu ta chạy những việc lặt vặt cho tôi.”
“Cậu ta có được giáo dục tốt không?” Ngài ủy viên hỏi.
“Ồ vâng, tôi có thể nói rằng cậu ta rất có giáo dục,” Đại tá chậm rãi nói. “Cậu ta kể rằng đã từng học tại Oxford, và điều đó rất có thể đúng. Cậu ta nói chuyện như một người có học vấn cao.”
“Ông có biết cậu ta có những mối quan hệ gì ở Anh không?”
Ngài ủy viên nhìn thẳng vào mắt người đối thoại và Đại tá ngập ngừng. Con người này đã biết những gì? Ông ta tự hỏi, và quyết định rằng sẽ không vấn đề gì nếu nói tất cả sự thật.
“Cậu ta không có người thân gì ở Anh,” ông ta nói, “nhưng có một người cha đang ở nước ngoài.”
“A, bây giờ chúng ta đã có chút thông tin,” ngài ủy viên nói và rút một tờ giấy đẩy về phía ông ta. “Tên người cha là gì?”
Đại tá lắc đầu.
“Tôi không nói được với ngài, thưa ngài,” ông ta nói. “Tôi rất muốn tuân lệnh nhưng tôi không hề biết gì về ông ta hơn về chú Cuội trên mặt trăng. Tôi cho rằng ông ta từng ở Ấn Độ, vì có những lá thư từ Ấn Độ gửi cho Gregory.”
“Gregory có phải tên của cậu ta không?”
“Tên thánh của cậu ta, tôi nghĩ vậy,” Đại tá nói sau giây lát suy nghĩ. “Cậu ta gặp rắc rối ở trường đại học và bị lưu ban. Sau đó, cậu ta đến Paris và bắt đầu học nghệ thuật, nhưng cũng gặp rắc rối ở đó. Cậu ta chỉ kể với tôi chừng ấy.”
“Cậu ta không có anh em ruột?”
“Không có ai,” Đại tá nói dứt khoát. “Tôi chắc chắn điều đó, bởi vì cậu ta có lần nói cảm ơn Chúa rằng mình là đứa con duy nhất.”
“Tôi hiểu rồi,” ngài ủy viên gật đầu. “Ông không có giả thuyết nào giải thích lý do dẫn đến cái chết của cậu ta sao?”
“Không có một chút mảy may,” Đại tá nói, nhưng lại sửa lời. “Tất nhiên, tôi cũng có vài suy nghĩ và ý kiến, nhưng không cái nào trong số đó có vẻ hợp lý. Theo tôi biết, cậu ta không có kẻ thù, mặc dù là một người nóng tính, nhất là khi cậu ta đang hồi phục sau khi hút chích, thậm chí cãi cọ với bà của mình.”
“Ông không biết tại sao cậu ta lại ở London? Rõ ràng cậu ta không sống ở đây.”
Đại tá nhún cặp vai đồ sộ.
“Không, tôi không nói được gì với ngài về chuyện đó, thưa ngài,” ông ta nói.
“Cậu ta không phải người Mỹ sao?”
“Tôi có thể thề về điều đó,” Đại tá đáp.
Có một khoảng lặng và ông ta chờ đợi.
“Còn một vấn đề khác.” Ngài ủy viên nói chậm rãi. “Tôi hiểu rằng ông đang bị quấy rối bởi một cá nhân bí ẩn tự xung là ‘Lá bài phán quyết’”
“Kẻ Hành Pháp,” Đại tá chữa lại với nụ cười chế giễu. “Những trò khỉ đó không làm phiền tôi, tôi đảm bảo với ngài.”
“Tôi có những giả thuyết riêng về Kẻ Hành Pháp,” ngài ủy viên nói. “Tôi đã tìm hiểu các tình tiết của vụ giết người này, và tôi nhớ rằng hình như một lá bài cũng được tìm thấy trên thi thể nạn nhân.”
“Chính xác,” Đại tá cũng hồi tưởng sự việc nhiều lần. “Một lá J Nhép.”
“Ông có biết lá J Nhép biểu thị điều gì không?” Ngài ủy viên hỏi, nhưng Đại tá có thể thành thật nói rằng ông ta không biết. Sự hiện diện của lá bài trên thi thể vẫn khiến ông ta băn khoăn và chưa bao giờ tìm được lời giải.
“Có một loại tội phạm côn đồ nhất định, cụ thể là ở Paris, thích phô bày kiểu nhận dạng có tính màu mè sân khấu, ông có biết không?”
Đại tá đột nhiên sững sờ im lặng. Ông ta không biết sự thật ấy, mặc dù bản thân có khối kiến thức phi thường về thế giới tội phạm.
“Những người này có vật tổ riêng và chỉ dẫn sử dụng nhãn hiệu của họ. Ví dụ, gã phi công tàn bạo, bị xử tử tại Nantes ngày trước, luôn để lại một quân domino trên người nạn nhân - một con 6 đôi.”
Đây cũng là chuyện mới đối với Đại tá.
“Tôi đã bỏ ra rất nhiều tâm sức và thời gian cho vụ án này,” ngài ủy viên nói, “và tôi hy vọng ông có thể giúp tôi. Giả thuyết khả thi nhất tôi có thể đưa ra là cậu thanh niên không may đã bị thủ tiêu bởi một tên tội phạm người Pháp thuộc tầng lớp tôi vừa nhắc đến, loại côn đồ bạo lực, rất phổ biến ở Pháp. Tại sao vụ ám sát này xảy ra?” Ngài ủy viên lơ đễnh nghịch con dao rọc giấy. “Nguyên nhân gì dẫn đến sự vụ? Ai đã thực hiện nó? Và đặc biệt hơn nữa, kẻ nào chủ mưu tội ác này? Đó là những vấn đề mà tôi dường như không thể khám phá. Ông có nghĩ vậy không?”
“Tôi cũng nghĩ vậy,” Đại tá liếm đôi môi khô khốc.
“Tôi cho rằng,” ngài ủy viên nói, “Kẻ Hành Pháp, dù hắn là ai, thì hắn phải có liên quan gì đó đến người đã chết.”
Ông nói chậm rãi, nhấn mạnh, còn Đại tá không rời ánh nhìn khỏi mặt bàn.
“Công việc của tôi không phải để làm cho cuộc sống của ông trở nên dễ dàng hơn,” ngài ủy viên nói, “hay giúp đỡ ông bằng cách nào đó. Nhưng khi tôi thấy Kẻ Hành Pháp dường như tham gia vào một hoạt động hoàn toàn bất hợp pháp, và tôi có nghĩa vụ phải ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp, trong khả năng của mình, tôi coi lời gợi ý này là món quà cho ông.”
“Rằng Kẻ Hành Pháp có liên quan đến Gregory Tuyết?” Đại tá khàn khàn hỏi.
“Đó chính là gợi ý của tôi.”
“Và ngài nghĩ rằng…”
Ngài ủy viên so vai.
“Tôi nghĩ rằng hắn là mối nguy hiểm lớn nhất đối với ông, Đại tá,” ông nói, “lớn hơn nhiều so với cảnh sát, lớn hơn nhiều so với những bộ óc thông minh đang lập kế hoạch đưa ông ra vành móng ngựa, và nếu có thể,” ông nói thêm, “đến giá treo cổ.”
Thông thường, Đại tá sẽ phản đối ẩn ý trong lời nói ấy, phản đối một cách cười cợt hoặc đường hoàng, nhưng lúc này ông ta câm nín, bởi sự nghiêm túc trong giọng nói của ngài ủy viên, cũng như bởi nhận thức về mối nguy hiểm mới và khủng khiếp hơn bất kỳ điều gì từng đối đầu với ông ta. Ông ta đứng dậy, nhận ra rằng cuộc nói chuyện đã kết thúc.
“Tôi rất biết ơn ngài, ngài Stanley,” ông ta hắng giọng. “Ngài rất tốt bụng khi cảnh báo tôi, nhưng tôi không muốn ngài nghĩ rằng tôi đang tham gia vào bất kỳ hoạt động bất lương…”
“Chúng ta sẽ dành vấn đề đó thảo luận vào lần khác,” ngài ủy viên nói một cách khô khốc, khi Stafford King bước vào phòng. “Anh có thể đưa Đại tá ra cửa. Nếu không, ông ta sẽ bị lạc vào một trong những phòng giam của chúng ta. Tạm biệt, Đại tá Boundary. Đừng quên.”
“Tôi sẽ không quên,” Đại tá nói.
Ông ta đã hồi phục tư thế đường hoàng đủ nhanh, và đã trở lại tâm trạng cũ khi ra đến đường cái. Nhưng ông ta chắc chắn đã bị sốc. Buổi chiều đầy nắng đó tràn ngập bóng tối. Tiếng chuông vang vọng của tháp Big Ben day đi day lại “Kẻ Hành Pháp”. Những vòng bánh xe của chiếc taxi cũng nhái lại những lời đó. Và lần đầu tiên trong đời, Đại tá Boundary trở lại tòa nhà Albemarle với niềm tin vào bản thân bị lung lay.
Không ai ở nhà ngoại trừ một người giúp việc mà ông ta giữ lại vào ban ngày, và ông ta đi vào phòng ăn hướng ra đường cái. Ông ta có việc phải làm, và phải thực hiện cấp tốc. Trong một bức tường đặt một tủ két sắt chắc chắn. Ông ta mở tủ, lấy ra chiếc hộp thép và đặt lên bàn. Một ngọn lửa âm ỉ trong lò sưởi và ông ta ném vào đó một que diêm để khơi dậy ngọn lửa, mặc dù ngày hôm nay khá ấm áp. Sau đó ông ta mở khóa chiếc hộp thép. Chiếc hộp rõ ràng trống rỗng, nhưng ông ta tháo kim gài khăn quàng cổ của mình, rồi đặt đầu kim vào cái lỗ nhỏ xíu, khó có thể nhìn thấy nếu chỉ quan sát thông thường, và nhấn vào đó.
Một nửa đáy thép của chiếc hộp bật lên, để lộ một đáy ngầm nông bên dưới. Đại tá nhìn chằm chằm. Có hai lá thư giấu bên trong, những lá thư mà ông ta đã cất giấu cho những lúc như thế này, khi cần thiết phải đưa một tác nhân ngoan cố vào khuôn khổ. Chúng đã biến mất.
Ông ta dò ngón tay xuống dưới nửa đáy ngầm chưa mờ ra và cảm nhận được một tấm bìa mỏng. Ông ta rút nó ra và nhìn, liếm môi.
Trong suốt một phút, Đại tá nhìn chằm chằm không chớp vào quân bài J Nhép mình cầm trên tay. Một lá bài J với một dòng chữ hoa mĩ viết tay vắt ngang mặt trên: Jack - Kẻ Hành Pháp. Sau đó, ông ta ném lá bài vào ngọn lửa, đi đến tủ bên, rót một hớp rượu whisky vào chiếc ly lùn với bàn tay run rẩy.
Kẻ Hành Pháp Kẻ Hành Pháp - Edgar Wallace Kẻ Hành Pháp