Số lần đọc/download: 0 / 26
Cập nhật: 2020-10-08 20:42:06 +0700
Chương 11
Từ ngày Chiêu Thánh hợp duyên với Lê Tần tới nay đã trên dưới hai chục năm, cũng là một sự nhắm mắt đưa chân. Chiêu Thánh tặc lưỡi nghĩ vậy. Thôi thì ngôi vua đã trải, dân thường cũng đã qua, cái đỉnh cái đáy, cái vinh cái nhục cũng chẳng khác nhau là mấy. Thế thì cái việc làm vợ một viên tướng có sá kể chi.
Thực tình sau khi mất ngôi, mất nước lại mất cả vua cha, Chiêu Thánh đã toan xuất gia. Nhưng Trịnh Huyền một người hầu hạ tâm huyết, sau Chiêu Thánh kết nghĩa chị em đã ra sức khuyên can. Huyền chỉ lấy cớ nếu Chiêu Thánh xuất gia ai sẽ trông nom, hương khói tháp mộ vua cha. Ngôi chùa này không nhận sư ni. Vì thương kính vua cha, quả nhiên Chiêu Thánh không nỡ dứt khỏi trại dâu tằm. Lại sau này khi tướng Lê Tần nhờ người ướm hỏi, Trịnh Huyền phân giải đến chân tơ kẽ tóc, ngày đêm thúc giục Chiêu Thánh nhận lời. Việc Chiêu Thánh chấp thuận về với Lê Tần còn vì một lẽ nữa, ấy là do thái úy Phạm Kính Ân, một cựu thần của nhà Lý đứng ra mai mối.
Từ khi về sống với Lê Tần, tuy là tướng võ nhưng thực tướng quân là một người có văn chất cao, vì vậy Lê Tần biết cách làm cho Chiêu Thánh vơi vợi nỗi sầu riêng.
Lê Tần còn chăm sóc cả Trịnh Huyền và luôn cùng Chiêu Thánh đi thăm viếng tháp mộ Huệ tôn.
Và rồi khi sinh con đẻ cái với thiên chức làm mẹ, Chiêu Thánh tìm được niềm vui nơi con cái. Tổ ấm cứ ngày một dày thêm. Chiêu Thánh cũng sống như tất cả những người khác từng sống.
Lại nói khi về ở với Lê Tần, trại dâu tằm bên hồ Dâm Đàm, Chiêu Thánh trao lại cho Trịnh Huyền.
Trịnh Huyền vừa coi sóc trại, vừa hương khói bên tháp mộ Huệ Quang[75]. Trại lúc này đã có thêm dăm người tang thất phụ[76] mãn hạn xin vào làm thuê.
Từ ngày lập trại, Chiêu Thánh khước từ mọi thứ bổng lộc của triều đình mà chỉ sống nhờ vào việc trồng dâu, nuôi tằm ươm tơ, dệt lụa, để làm kế sinh nhai.
Mọi việc từ trồng dâu đến bán tơ, bán lụa và mua sắm quần áo đồ ăn thức dựng đều do một tay Trịnh Huyền lo toan, quán xuyến. Cuộc đời cũng không quá khắc nghiệt với hai người con gái. Tơ ươm, lụa dệt chưa xong, thương lái đã nườm nượp đến hỏi mua. Sau có một người cột lại ở giá cao không ngờ, lại đặt tiền trước làm tin, xin mua lâu dài cả tơ cả lụa. Vì thế mới mở mang thâu nhận thêm mấy người nữa.
Mãi sau này Trịnh Huyền mới vỡ lẽ rằng đó là mưu của thái sư phu nhân ngầm giúp hai người, chứ thực tơ ấy, lụa ấy sao bán được giá ấy. Tuy nhiên, Trịnh Huyền phải giấu biệt không cho Chiêu Thánh biết, bởi lẽ Chiêu Thánh vẫn rất hận mẹ và không chịu tha thứ cho bà. Sở dĩ Trịnh Huyền đoán biết là vì từ khi hai người có gia thất thì các khách mua tơ lụa kia biệt vô tăm tích. Thế rồi có lần Huyền trông thấy cái người ấy khoác tay nải theo phu nhân thái sư vào lễ chùa rồi ra viếng tháp mộ Huệ Quang.
Khi Chiêu Thánh về với Lê Tần chừng một năm đã sinh được một mặt con, lúc này bà cũng ái ngại cho thân phận người chị em kết nghĩa cứ buộc thân mãi với trại dâu tằm. Bà ngỏ ý nhờ phu quân xem dưới trướng ông có ai là người tử tế thì mai mối giùm cho Trịnh Huyền.
Ít lâu sau Lê Tần tìm được Đỗ Quang Thuật, đô tướng đô quân Thánh dực, người lộ Trường Yên thuộc dòng họ của thiền sư Đỗ Pháp Thuận, sống từ đời Đinh, Lê.
Quang Thuật là một người đàng hoàng, con nhà dòng dõi muộn vợ chỉ vì đến tuổi trưởng thành gặp phải tang cha, vừa dứt tang cha chưa được một năm thì tiếp tang mẹ.
Quang Thuật nghĩ mệnh mình có khi phải sống cô quả, đã toan xin ra khỏi quân thánh dực để xuất gia. Thượng cấp khuyên nhủ mãi Quang Thuật mới tạm thôi. Nay tướng Lê Tần đứng ra mai mối, giảng giải mãi đường tới đường lui Thuật mới nghe theo.
Trịnh Huyền cũng được Chiêu Thánh khuyên nhủ. Khi gặp mặt, Trịnh Huyền chỉ xin đô tướng Đỗ Quang Thuật có mỗi một điều rằng xin chàng nhận trại dâu tằm làm nhà, và vì song thân chàng đã viên tịch, thì nàng xin được phép mời mẹ già lên cùng ở để phụng dưỡng.
Đỗ Quang Thuật là người tinh ý, biết Trịnh Huyền đã kết nghĩa chị em với Chiêu Thánh, nay nàng muốn thay chị ở gần tháp mộ vua cha sớm hôm hương khói. Thuật bèn nói:
- Nàng là phận gái còn biết báo đáp ơn sinh thành dưỡng dục. Ta vì bạc phúc nên cha mẹ sớm lìa, nay sẽ cùng nàng phụng dưỡng mẹ già, điều đó nàng khỏi lo. Còn như được lấy trại dâu tằm làm nhà thì quả đó là điều phúc hạnh. Bởi gần nơi cửa Phật, con cái hấp thụ được tính từ ái, hiếu thiện ắt sẽ nên người tử tế.
Bữa nay Chiêu Thánh thấy chạnh nhớ vua cha, nàng muốn qua viếng thăm tháp mộ và nhân thể ghé thăm vợ chồng Trịnh Huyền. Nàng liền bày tỏ với phu quân:
- Thiếp muốn đến thăm tháp mộ phụ hoàng, bởi bỗng nhiên thấy nóng ruột quá.
Không chút ngần ngại, Lê Tần đáp:
- Để ta gọi các con cùng đi viếng mộ tổ ngoại, rồi sau đó cả nhà sang thăm vợ chồng Đỗ Quang Thuật.
Ngay lập tức ông sai gia nhân đứa đi mua sắm đồ lễ, đứa sửa soạn xe ngựa. Lát sau cả nhà đã lên xe. Đi chừng nửa canh giờ, xe ngựa rẽ sang con đường bên tả để vào phường Thụy Chương[77] rồi men bờ sông Tô Lịch[78] qua đền Đồng Cổ rồi tạt qua bìa rừng nơi xóm Trích Sài[79] qua đường Dụ Tượng[80] và từ đó đi thẳng lên phía chùa Bảo Quang. Mặt trời đã lên tới đỉnh đầu nhưng không nhìn rõ mặt hồ, chỉ thấy một lớp mù dày đặc tới nhức mắt. Bên phải đường đi là mặt hồ loáng thoáng thấy những màu sẫm thi thoảng có làn gió lướt qua đẩy mù dãn ra cho ta nom thấy một vạt màu xanh đó là những hòn đảo trong hồ mà trên đảo là rừng cây rậm rạp. Sa mù trùm lên cả đường đi, quấn lấy chân ngựa, mù xộc vào trong xe khiến ai nấy đều có cảm giác mình đang đi trong mây. Vì không nom rõ đường, người xà ích chỉ dám cho ngựa đi bước một. Ngựa đi chậm còn nghe được cả tiếng những người dân chài gõ mảng đánh cá. Và họ hát, họ hò để thuyền bạn biết mà tránh.
Một luồng gió bốc khói sương ném vào trong xe khiến Chiêu Thánh giật mình vì ớn lạnh. Tự nhiên cái cảm giác từ mấy chục năm trước lại hiện về. Đó là khi Trần Thủ Độ ép Thái tông lấy Thuận Thiên khiến bà căm giận, liền rời bỏ cung điện kéo theo Trịnh Huyền chạy trốn về tá túc tại chùa Bảo Quang nơi có tháp mộ vua cha. Chẳng hiểu tai mắt của Trần Thủ Độ giăng mắc thế nào mà rồi ông ta cũng tìm tới được. Cho đến nay Chiêu Thánh vẫn chưa biết đó là quân thám của Lê Tần tung đi khắp nẻo dò tìm. Và nếu như không có chuyện vào lúc sáng sớm hoặc sau buổi chiều tà Chiêu Thánh ra ngồi bên tháp mộ Huệ tôn thắp hương khấn vái và sụt sùi kể lể thì sao quân thám của Lê Tần biết được. Chiêu Thánh vội khép chéo áo và kêu lạnh. Lê Tần ngồi xích lại bên Chiêu Thánh. Nhìn gương mặt phu nhân hơi tai tái, tướng quân bèn cởi tấm áo choàng khoác lên vai Chiêu Thánh và hỏi vợ:
- Phu nhân có thấy ta đi như các vị tiên đi trong mây.
Chiêu Thánh được khoác thêm tấm áo thấy người ấm hẳn lên, mặt hồng hào, bà nhẹ nhàng đáp lời:
- Thiếp đã sống cả chục năm bên hồ mà vẫn chưa thỏa. Thiếp đã đi nhiều nơi, qua nhiều cảnh đẹp của đất nước, nhưng hợp với cái tạng của thiếp có nhẽ không đâu bằng Dâm Đàm. Chỉ nội trong cái màu sương khói cũng đã phong phú lắm. Nó dày đặc, đặc quánh lại như sữa ấy là lúc sáng sớm. Nó có màu trắng tinh khiết và trong như pha lê ấy là lúc mặt trời lên tới đỉnh đầu, nó bảng lảng khi mặt trời gác núi, nó lại ùn ùn phủ kín mặt hồ khi đêm xuống… Đôi lúc thiếp có cảm giác như mình đang sống trong cõi thiên tiên vậy. Chiêu Thánh im lặng đưa mắt nhìn về phía hồ nhưng kỳ thực bà đang nhìn sâu vào ký ức.
Lê Tần thấy vợ mô tả về sương khói Dâm Đàm ông thấy ấm lòng và khen:
- Nàng cứ viết lại những điều vừa nói cũng đủ làm nên một thi phẩm tuyệt tác. Ấy thế mà giám sát ngự sử nhà Tống thời Tống Thần tông là Thái Phụng Hỷ dám nói về xứ sở của ta là: “Phù chướng hải cùng sơn, độc vụ chi uyên tẩu, phi diên trụy, độc khí thượng, ôn phong tác lệ, kỳ gian đãi phi nhân cảnh…”[81]
Chiêu Thánh mỉm cười đáp:
- Người phương Bắc thèm nước mình đến nhỏ rãi, khi không cướp nổi thì chê bai hết lời. Dân ta họ gọi là dân di, dân mọi. Cảnh của ta đẹp như cõi tiên thế này mà họ bảo “phi nhân cảnh” (cảnh không có người ở được). Nó là giọng lưỡi kẻ cướp, phu quân nhớ đến làm gì cho bận tâm.
- Nàng có biết đấy là sớ can không nên đánh Đại Việt của Thái Phụng Hỷ dâng lên Tống Thần tông?
- Thiếp biết, chẳng là sau khi Lý Thường Kiệt đem quân hạ các thành và cảng Ung, Khâm, Liêm mà nhà Tống tích chứa lương thảo, khí giới sắp đánh nước ta. Phá xong Lý Thường Kiệt rút quân về. Kế của Vương An Thạch, mưu của Tống Thần tông bị Lý Thường Kiệt tảo thanh đánh sập, nên họ định cử đại binh sang trả thù, khi đưa ra bàn trong triều, các quan đều sợ đánh Đại Việt không thắng nổi càng nguy. Đoạn phu quân vừa đọc nằm trong sớ can gián của Thái Phụng Hỷ dài ba trăm tám mươi sáu chữ. Đây là một vị hủ nho lời lẽ vừa trống rỗng vừa khoa trương, nhưng thực ra là nhát hèn.
Lê Tần khen:
- Ta không ngờ, nàng lại là người rành sử đến vậy.
- Phu quân có biết những năm sống bên tháp mộ vua cha nơi trại dâu tằm bên bờ hồ này, nhiều phen thiếp đã định xuất gia hoặc tìm đến cái chết. Thú thực nếu không có Trịnh Huyền và sách, chắc thiếp không còn được sống tới ngày gặp phu quân. Vả lại những trang sử hào hung của tổ phụ mình, của đất nước mình, càng đọc như càng được tiếp thêm sức sống. Thiếp cam đoan với phu quân nước ta có nhiều phen chống lại sự xâm lăng của phương Bắc, thắng họ rất vẻ vang, nhưng đem quân tới tận sào huyệt nó để phá mưu nó thì chỉ có thời Lý và danh tướng Lý Thường Kiệt là độc nhất vô nhị.
Suy nghĩ giây lâu, Lê Tần đáp:
- Có lẽ nàng nói đúng. Bởi nước ta nhỏ, thế và lực đều có hạn, nên chỉ chống đỡ là chính. Duy có Lý Thường Kiệt là bậc thần mưu, là tướng dũng lược nắm đúng thời cơ, ra tay đúng lúc nên dù tiến sang đất Tống hoặc rút về lập phòng tuyến bên bờ nam sông Như Nguyệt, ông đều ở thế thượng phong.
Với vẻ cảm phục chồng, Chiêu Thánh liền nói:
- Phu quân cũng là một danh tướng đương thời, phu quân nói về Lý Thường Kiệt với tấm lòng của kẻ liên tài, thật đáng trọng.
Lê Tần vội đáp:
- Nàng chớ nói vậy làm ta ngượng, ta vừa là kẻ hậu sinh vừa không có cái gì để sánh được với tướng quân họ Lý.
Lê Tần vừa nhìn thấy thấp thoáng ngôi tháp chùa Bảo Quang, bỗng có gì hoài nhớ. Chàng vội nối lời: - Thật ra thì thời nào cũng có người tài, nhưng anh tài kiệt xuất thì không phải thời nào cũng có.
Xe vừa dừng trước tam quan, bỗng vợ chồng con cái Trịnh Huyền từ trong sân chùa chạy ra.
Chiêu Thánh vô cùng ngạc nhiên:
- Chị và tướng quân định qua chùa lễ Phật rồi ra lễ tháp phụ hoàng sau đó sang thăm vợ chồng em. Tại sao em biết chị tới mà qua đây?
- Lạ lắm chị Chiêu Thánh ơi, đêm qua em mơ thấy tiên đế. Người vận áo cà sa, đội mũ hoa sen, tay chống thiền trượng. Vừa trông thấy người em sụp lạy. Người mỉm cười rồi giơ chiếc gậy như có ý bảo em đứng lên. Khi em ngửng nhìn thì không thấy ngài nữa. Sáng dậy em cứ thấy nóng ruột, ngồi đứng chẳng yên. Chợt nghĩ phải sang mộ tháp thì thấy lòng yên tĩnh, bèn rủ phu quân và cho các cháu cùng đi.
May quá chị Chiêu Thánh, thế là chị em mình lại được gặp nhau.
Đô tướng Đỗ Quang Thuật từ ngày có gia thất nom người tươi nhuận hẳn ra, tính tình cởi mở khiến quân sĩ dưới quyền thêm quý mến.
Lê Tần với chức ngự sử đại phu là quan lớn trong triều được vua tin cẩn, còn Đỗ Quang Thuật chỉ là một viên đô tướng trông coi tám mươi quân thánh dực, một chức quan cuối hàng phẩm trật nhưng Lê Tần vẫn coi như một người em út, săn sóc, bảo ban và cả dạy dỗ nữa.
Nhờ Chiêu Thánh là mối dây ràng buộc, nên hai gia đình thêm quý nhau như tình nội tộc. Đến bây giờ thì con cái hai nhà cũng đã vào tuổi trưởng thành, Chiêu Thánh, Trịnh Huyền cũng đã trên dưới bốn mươi tuổi, tình thân ngày một khăng khít.
Mọi người vào chùa lễ Phật rồi ra tháp mộ Huệ tôn. Cạnh ngôi tháp Huệ tôn là tháp mộ của vị thiền sư trụ trì tại ngôi chùa này mà hơn hai mươi năm trước Chiêu Thánh, Trịnh Huyền đã vào đây tá túc. Chiêu Thánh làm lễ cả hai ngôi tháp rồi vào chùa đưa mười nén bạc biếu vị thiền sư để nhà chùa thêm vào tiền hương nến thờ Phật.
Khi biết Chiêu Thánh là con của Huệ tôn, vị thiền sư bèn đứng lên vái bà và nói:
- Bạch chư tôn công đức, ngài Huệ Quang và thầy tôi (tức là vị tiền bối trụ trì tại chùa Bảo Quang) đều là các bậc Bồ tát và chắc các ngài đã nhập Niết Bàn. Nhưng chúng tôi vẫn coi như các bậc đang thị hiện để hóa độ chúng sinh.
Trà nước xong, tướng Lê Tần dẫn Chiêu Thánh và các con sang nhà vợ chồng Trịnh Huyền.
Cơm nước xong Trịnh Huyền tự tay thắp hương lên ban thờ rồi lầm rầm khấn vái, không ai nghe được rõ lời. Đoạn Huyền sai hai đứa gia nhân đi tìm hai chiếc cuốc đem ra gốc dâu cỗi phía đầu vườn.
Trịnh Huyền quay lại vái Chiêu Thánh hai vái:
- Em có lỗi, bấy lâu giấu chị một việc, hôm nay em xin vái chị để tạ lỗi rồi em sẽ giãi bày sau.
Đoạn Huyền nói:
- Chị có nhớ cái đêm quốc mẫu đến thăm chị rồi ngủ lại đây với chị em mình không?
- Ta quên sao được. Vậy có chuyện gì mà em làm nghiêm trọng khiến ta lo quá.
- Có chuyện nghiêm trọng đấy. Nghiêm trọng là ở chỗ em giấu chị từ bấy tới nay. Chị cứ để em kể. Qua đêm ngủ lại, tinh mơ quốc mẫu đã lay gọi em rồi người giúi vào tay em một gói nằng nặng. Người bảo: “Ta có mười nén vàng, con giữ lấy để độ thân cho hai thầy trò. Ta cấm con không được hở cho Chiêu Thánh biết chuyện này. Có thể con chôn giấu vào một gốc cây nào đó trong vườn. Rồi làm như vô tình đào được. Nếu có điều gì cần kíp, con cứ về cung tìm ta. Nhớ nhé”. Em chưa kịp nói điều gì thì bà đã ra đi. Cầm nắm vàng trong tay, người em cứ run bắn lên. Em đã định vào lay gọi chị. Lại nhớ quốc mẫu dặn: “Ta cấm con không được hở cho Chiêu Thánh biết chuyện này”.
Lúc ấy trời cũng bắt đầu sáng. Em chỉ nhìn lờ mờ những nén vàng bọc trong vuông khăn đỏ nhưng em không dám mở ra. Vội tìm được chiếc lọ sành có nắp, em đem chôn xuống gốc cây dâu đầu vườn. Vừa vùi xong chiếc lọ đang lấp đất thì chị dậy hỏi em làm gì sớm thế. Em bảo xới bón cho mấy gốc dâu. Suốt một thời gian dài, có lúc chị em mình lâm cảnh thiếu thốn, em đã toan nói với chị lại sợ chị mắng và bắt đem vào cung trả phu nhân. Cũng có lúc em đã nghĩ, hay là đào lên lấy một nén đem đi bán. Nhưng em lại sợ vì từ nhỏ chưa biết vàng là gì. Đem bán lại sợ người ta nghĩ mình là đứa lấy trộm của chủ bắt trình quan. Thế là em cứ để đấy coi như quên. Nay có chị và cả quan ngự sử và phu quân em. Em xin đào lên để gửi chị.
Nói xong Trịnh Huyền xăm xăm đi ra phía đầu vườn và sai gia nhân đào dưới gốc dâu. Cây dâu ngày trước chỉ bé bằng thân cây mía, nay to bằng bắp đùi. Vì vậy công việc đào bới rất là vất vả. Sau phải dùng đến mai và cả dao dựa để chặt rễ cây.
Từ khi nghe Trịnh Huyền nói, Chiêu Thánh hết đỗi bàng hoàng, nàng phải tựa lưng vào vách tường cho khỏi ngã. Có một cái gì đó dường như là sự hối hận dâng lên nghẹn ứ cả cổ họng. Đúng là bà đã giận mẹ tới mức không thể tha thứ. Ngay cái chết của mẹ gần đây bà cũng chỉ đến viếng như một người bà con xa, và chỉ đeo hờ một dải khăn tang chứ không nhỏ được một giọt nước mắt xót thương cho người đã sinh hạ ra mình. Chiêu Thánh biết đó là một sự tàn nhẫn cố chấp. Nhưng quả thật việc cướp mất một vương triều và làm tuyệt diệt cả một dòng họ, càng lớn lên Chiêu Thánh càng nung nấu lòng căm giận.
Một vài năm sau cái chết của phụ hoàng, Chiêu Thánh mới biết kẻ nào là thủ phạm giết cha mình. Và những năm dài đau ốm của vua cha được người ta nhốt vào một nơi để nuôi dưỡng như nhốt một tên tội phạm sát nhân. Không phải mẹ ta không biết điều đó. Thế nhưng vẫn nhắm mắt làm ngơ và nhởn nhơ sống với người tình. Chiêu Thánh giận mẹ là giận ở sự phản bội vua cha tới mức nhẫn tâm. Còn như sự còn mất của một vương triều cũng chẳng có gì là ghê gớm. Chục nén vàng bà để lại cho ta trong lúc khó khăn, ấy là cái tình của người. Cũng may là tới bây giờ Trịnh Huyền mới cho ta biết. Giá như ngày ấy Huyền nói ra ngay thì hoặc là ta đã ném nó đi, hoặc ta bắt Trịnh Huyền phải đem ngay tới cung Thủy Tĩnh trả lại bà.
Trịnh Huyền vẫn đứng chỉ trỏ mấy người đào bới. Mãi sau khi chặt hết những chùm rễ quấn chằng chịt quanh chiếc lọ sành, sau đó mới lấy được cái lọ ra. May lọ chưa bị vỡ, nắp vẫn còn đậy nguyên như cũ. Gia nhân bê vào trong nhà. Trịnh Huyền mời chồng và quan ngự sử Lê Tần cùng xem chiếc lọ. Sau đó Huyền đưa cho Chiêu Thánh và nói:
- Chị mở nắp giùm em.
Chiêu Thánh giơ tay lên mở nắp lọ như người vô hồn.
Trịnh Huyền cho tay vào khoắng ra được một nắm vàng. Vải bọc đã mục nát. Vàng vẫn vàng chóe. Huyền đếm được đúng mười nén. Nàng lau sạch sẽ, đặt vào chiếc đĩa rồi nâng hai tay đưa cho Chiêu Thánh:
- Em muôn vàn có lỗi với chị. Đây là tấm tình của quốc mẫu, chị giữ để lưu chút tình mẫu tử.
Chiêu Thánh nén nỗi đau chìa tay ra đỡ, nước mắt tuôn rơi lã chã. Bỗng nhiên tay bà run bần bật. Chiếc đĩa tuột khỏi tay vỡ vụn. Mười nén vàng rơi chồng đống lên nhau.
Chiêu Thánh hoảng hốt hét lên như người mất hồn:
- Phụ hoàng! Phụ hoàng! Rồi bà ngã lăn ra. Lê Tần và các con xúm vào nâng bà dậy.
Mọi người đều sởn cả tóc gáy và mơ hồ nhận ra một điều gì đó rất thiêng liêng vừa xảy ra.
Lâu lâu chừng nhai tàn miếng trầu Chiêu Thánh mới mở được mắt ra. Bà nói, giọng thều thào thuần hơi:
- Phụ hoàng về đón ta đi đấy. Ta nom rõ phụ hoàng trong bộ áo thiền sư, y hệt bữa ta và chị Thuận Thiên đến điện Chí Kính gặp cha trước khi cha xuất gia. Ta còn nhớ như in lời cha nói nhỏ nhưng vừa đủ nghe: “Từ nay pháp danh của cha là Huệ Quang”.
Nhìn lại mấy nén vàng Chiêu Thánh xua tay: - Ta không thể nhận. Không thể nhận được. Vừa nãy Trịnh Huyền bảo ta nên nhận “để lưu giữ một chút tình”. Nhưng không thể được, chính phụ hoàng gạt tay ta đấy. Nỗi đau này chưa thể gỡ bỏ khi nhà Trần chưa trả nghiệp. Thôi ta đành…
Trịnh Huyền sợ cuống lên:
- Vậy thì làm thế nào đây chị Chiêu Thánh, thưa quan ngự sử - Huyền quay về phía Lê Tần hỏi - Xin quan ngự sử quyết cho việc này.
Lê Tần bị hỏi bất ngờ nên hơi lúng túng. Một lát sau, ông nói:
- Theo ta, vợ chồng Trịnh Huyền, Quang Thuật nên giữ số vàng này để chăm sóc tháp mộ và hương khói cho tiên đế.
Chiêu Thánh cũng nói theo:
- Phải đấy! Phu quân ta nói đúng đấy. Em làm ơn nhận giùm chị đi.
Đỗ Quang Thuật vội nói:
- Thưa đại quan cùng phu nhân, việc mười đĩnh vàng cho tới lúc này tiểu tướng mới được biết. Vì nó là việc thiêng liêng nên hiền thê của hạ cấp vẫn giữ kín. Cho nên việc này hạ cấp xin được phép không dám can dự.
Tiếp lời chồng, Trịnh Huyền cũng nói:
- Chị Chiêu Thánh ơi, hầu hạ chị bấy nhiêu năm, chị biết tính em rồi đấy. Ngay những ngày túng thiếu, mẹ em ở quê bị đói, chị cho vòng vàng để bán đi nuôi mẹ, em còn chẳng dám lấy nữa là bây giờ. Hơn nữa đây là của quốc mẫu gửi chị, em đâu dám nhận.
Việc chăm sóc tháp mộ tiên đế, là ta cứ nói thế thôi chứ tiên đế bây giờ là Bồ Tát, là Phật hoàng rồi, tiên đế đâu có ngự trong tòa tháp đó. Vả lại việc chăm sóc các tháp mộ trong vườn chùa là công việc của các sa môn trong chùa chớ đâu cần tới chị em mình. Thỉnh thoảng chị em mình qua lại hương khói là tỏ tấm tình kính ngưỡng đối với tiên đế, và nhổ mấy cọng cỏ quanh chân tháp, việc ấy đâu cần tới cả đống vàng kia. Mấy lại chị thương em, cứ trông thấy vàng là em sợ lắm.
Chiêu Thánh ngẫm nghĩ: “Trịnh Huyền là người trọng nghĩa. Ngay từ khi còn nhỏ hầu hạ mẹ ta trong cung thái sư, mà Trịnh Huyền dám lọt vào nơi người ta giam giữ cha ta để lấy chiếu cần vương. Bị bắt, Huyền khẳng khái nhận chứ không khai vấy cho ai. Rồi sẵn sàng theo ta đi sống cuộc sống khắc khổ bao năm trong trại dâu tằm này. Huyền nói cứ hễ trông thấy vàng là sợ, chính là Huyền khinh các thứ của cải mà vì nó biết bao người phải oan khuất. Vậy làm thế nào với mấy nén vàng này đây. Ta không thể nhận nó, dù trong đó là cái tình của mẹ. Nhưng còn nỗi đau của cha vừa vong quốc lại bức phải vong thân, cha giận không cho phép ta nhận, cũng tức là cha biết mẹ đã đoạn tình, đã phản bội cha đến mức không thể tha thứ, dù rằng cha đã là đấng giải thoát. Thôi cũng đành vậy. Mẹ đã gieo nhân nào thì mẹ hái quả ấy”. Đoạn Chiêu Thánh quay ra nói trước mọi người:
- Huyền không nhận số vàng này có cái lý của Huyền. Ta không nhận số vàng này có cái lý của ta. Nhưng không thể để như một chướng vật trong nhà Huyền mãi. Vậy theo ta, hai chị em mình cùng mang sang chùa cúng dàng Tam Bảo.
Ai cũng cho điều đó là phải. Trước khi sang chùa, Chiêu Thánh nói với Trịnh Huyền.
- Trong khắp nước Đại Việt, em là người cao thượng bậc nhất mà chị từng thấy. Cuộc đời chị may có em làm bầu bạn. Nếu không có em, chắc chi chị có ngày nay. Em không màng bất cứ một thứ gì không phải tự em làm ra. Cho nên không biết lấy gì đền ơn đáp nghĩa em. Vậy em hãy nhận tấm lòng nơi chị. Nói xong Chiêu Thánh quỳ lạy Trịnh Huyền hai lạy.
Trịnh Huyền vừa nâng Chiêu Thánh dậy vừa khóc nức nở:
- Chiêu Thánh ơi, chị xử thế khiến em tổn thọ và ngượng với đại quan và phu quân em lắm. Chị em ta sở dĩ gắn kết với nhau trong cuộc đời này chắc là có cơ duyên tiền định, chị khỏi băn khoăn.
Sau khi hai người đem mười nén vàng sang chùa cúng dàng Tam Bảo, họ chia tay nhau trong bịn rịn, nhưng trong lòng hai người đều vơi nhẹ. Nhất là với Trịnh Huyền, khi chưa trao lại được số vàng kia cho Chiêu Thánh, trong tâm can óc não nàng lúc nào cũng nặng trịch như phải đeo một cục đá.
Lại nói công việc triều chính, Thánh tông nhận biết sự hiểm nguy của sức mạnh Mông Cổ (nay là nhà Nguyên) ngày càng uy hiếp nặng nề nền tự chủ của Đại Việt. Vì vậy nhà vua ban chiếu cho các vương hầu phải tăng số điền binh trong trang ấp, phải cho họ thay nhau luyện tập để khi nước có họa xâm lăng thì mỗi người dân sẽ là một người lính. Lại sai tuyển dân đinh các lộ những người trẻ, khỏe sung làm thường binh để luyện thành các sắc quân tinh nhuệ. Các lộ cho lập các đội phong binh[82].
Nghe nói Hốt-tất-liệt chiếm các tỉnh miền nam Trung Hoa, đã cho đóng thuyền lớn, lập thủy binh. Chắc người Nguyên có ý định xâm chiếm Đại Việt hoặc các nước trong vùng, xa hơn nữa là Nhật Bản. Vì vậy vua Thánh tông sai đóng các thuyền lớn cho quân thủy, sai các lộ làm đồ binh khí, lại sai Lê Tần làm thủy quân đại tướng chuyên coi sóc việc luyện quân thủy trở thành một sắc quân mạnh của Đại Việt, đủ dìm chết đám thủy binh phương bắc nếu chúng xâm phạm cõi bờ ta.
Nhà vua còn hạ chiếu cho các vương hầu, công chúa phò mã được phép chiêu mộ những người dân xiêu tán vì không có ruộng đất, sản nghiệp làm điền nô để khai khẩn đất hoang cùng với số đất đã được phong, lập làm điền trang. Bởi số điền trang càng nhiều, càng rộng lớn thì càng nhiều của cải, nhiều điền binh. Đó cũng chính là sức mạnh của nước.
Vua phong cho em là Chiêu minh vương Trần Quang Khải làm thái úy, sai vào coi châu Nghệ An. Phong cho Quốc Tuấn tước vương.
Quốc Tuấn từ sau cuộc chiến năm Đinh Tỵ lập công to, được Thái tông cho mở phủ tại Thăng Long, lấy tên hiệu của mình đặt cho phủ riêng là Hưng Đạo[83].
Tuy nhiên, Quốc Tuấn lui về Vạn Kiếp mở rộng điền trang, lập gia binh, kén tả hữu giúp rập. Quốc Tuấn nghiền ngẫm binh thư các đời, lại xem xét vì sao quân Mông Cổ trở thành một đội quân bách thắng. Biết trước sau cũng phải đối đầu với đám quân dũng mãnh mà kiêu ngạo, tàn bạo này, nên ông không bỏ qua một điểm mạnh nào của nó mà không xem xét. Và từ đó tìm ra cái yếu, cái khuyết nhược của nó để viết thành sách dạy cho trước hết là các gia tướng, gia binh.
Trang ấp của ông cận kề với nơi hội tụ của sáu dòng sông. Từ đây có thể lên phía bắc mà vào Trung Hoa hoặc lên phía tây bắc sang nước Đại Lý, nơi quân Mông Cổ đang chiếm giữ. Lại cũng từ đây mà về Thăng Long hoặc xuôi xuống cửa sông Bạch Đằng ra biển. Từ cửa biển này có thể sang Trung Hoa hoặc vào Thanh Hóa, Nghệ An rồi từ đó qua Chiêm Thành.
Quốc Tuấn nhận ngay ra tính quan yếu vào bậc nhất của vùng sông nước mà ông đang chiếm giữ. Nơi đây sông vừa sâu vừa rộng lại chia nhiều ngả đủ sức lập đại thủy trận. Dụ được giặc vào đây khác nào dụ được chúng vào trận đồ bát quái.
Sau trận thua năm Đinh Tỵ sang năm Mậu Ngọ, Ngột-lương-hợp-thai lại sai hai viên sứ vào Thăng Long dụ Đại Việt quy hàng. Vua Thái tông nổi giận sai trói hai viên sứ thần lại rồi đuổi về nước.
Anh em Hốt-tất-liệt đang đánh nhau để tranh ngôi Đại Hãn nên cũng bỏ qua việc ấy. Nay Hốt-tất-liệt đã lên ngôi, lại sai sứ sang dụ vua ta. Trong đó có phần châm chước, nương nhẹ.
Trong chiếu thư của Hốt-tất-liệt gửi cho vua ta có đoạn viết: “… Ta sai Lễ bộ lang trung Mạnh Giáp sung chức An Nam tuyên dụ sứ và Lễ bộ viên ngoại lang Lý Văn Tuấn sung chức phó sứ sang hiểu dụ cho quan liêu sĩ thứ nước ngươi được biết: Phàm các việc như áo mũ, lễ nhạc, điển lệ, phong tục cứ theo như chế độ cũ của nước ngươi không cần phải thay đổi. Như nước Cao Ly mới đây sai sứ sang hỏi, đã xuống chiếu cho đều theo lệ ấy. Ngoài ra ta cũng răn cấm các biên tướng ở Vân Nam không được tự tiện đem binh lấn cướp nơi cương giới, quấy nhiễu biên dân nước ngươi. Các quan liêu sĩ thứ nước ngươi đều nên yên trị như cũ…”.
Hốt-tất-liệt còn phong vua ta làm An Nam quốc vương, lại ban gấm vóc để yên lòng.
Vua thết yến và quà cáp tiễn sứ rất trọng hậu.
Một mặt sai sứ sang đáp lễ, mặt khác sai hai quân thủy bộ tập đại thủy trận ở ngã ba sông Bạch Hạc vì quân thủy đã tinh luyện từ mấy năm nay và các chiến thuyền lớn cũng vừa hạ thủy.
Hốt-tất-liệt đã chấp thuận cho Đại Việt ba năm cống phương vật một lần. Nay lại gửi chiếu thư sang hạch sách: “… Khanh đã gửi đồ lễ sang làm bầy tôi, vậy bắt đầu từ năm Trung thống thứ tư, cứ ba năm cống một lần, hãy chọn nha sĩ, thầy thuốc, người giỏi âm dương bói toán, các loại thợ, mỗi thứ ba người, cùng dầu tô hợp hương, quang hương, vàng bạc, châu sa, trầm hương, đàn hương, sừng tê, đồi mồi, trân châu, ngà voi, vải trắng, chén sứ đem cả đến một lúc. Ta vẫn cử Nu-rút Đin[84] (Nurud-Din) làm Đa-ru-ga-tri[85] đeo hổ phù đi lại khắp nước An Nam…”.
Thấy phía nhà Nguyên ngày càng lấn tới, hai vua bèn triệu các thân vương, các tướng tâm phúc về trang ấp của Hưng Đạo ở Vạn Kiếp để hội họp, vừa tránh sự nhòm ngó của đám thương nhân người Hồi Hột[86] mà triều đình nghi lũ người này do Hốt-tất-liệt phái sang ta do thám, vừa xem lại cái thế thủ hiểm của Lục Đầu giang và các sắc quân của Hưng Đạo ở Vạn Kiếp.
Được vua chọn trang ấp Vạn Kiếp làm nơi hội họp, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn sai gia nhân lo sắp xếp chu đáo nơi ăn ở, nơi hội họp, sai các gia tướng, hai đạo thủy bộ chuẩn bị sẵn sàng, nếu hoàng thượng cho phép sẽ diễn tập ngay trên khu vực Lục Đầu giang.
Tới ngày hẹn, thuyền vua và thuyền các quan cùng các tướng tâm phúc cập bến Bình Than từ lúc bình minh còn chưa ló rạng.
Hưng Đạo đem theo gia tướng, gia binh ra tận bến thuyền nghênh đón hai vua và Thái sư.
Vua Thái tông năm nay vào tuổi bốn mươi lăm, đi lại nhanh nhẹn, sức lực sung mãn, giọng nói ấm áp chưa có dấu hiệu của tuổi già. Thái sư Trần Thủ Độ phong độ kém hẳn mấy năm trước. Dăm năm trước đây thôi, khi đại quân rút về đóng tại bãi Mạn Trù bên sông Thiên Mạc, râu tóc thái sư mới hoa râm chứ chưa trắng xóa như bây giờ. Lúc đó nom ngài còn cân quắc, ý chí sắt đá, lời nói thép đanh. Khi vua hỏi: “Thế giặc mạnh, liệu tính sao đây?”. Thái sư trả lời giọng sang sảng: “Đầu thần còn chưa rơi thì bệ hạ khỏi lo”. Thế mà bây giờ, mới sau có năm năm, Thái sư đã trở thành một ông lão già nua. Lưng đã hơi gù gù, má hóp, thần sắc không còn linh lợi nữa. Có nhẽ từ sau sự ra đi đột ngột của phu nhân, Thái sư như bị hụt hẫng, mọi sự đều trở nên xáo trộn, trong lòng thì trống vắng, cô đơn, khiến ông chạnh lòng. Chiêu Thánh giận mẹ, có nghĩa rằng nó vẫn còn căm ghét ta. Nhiều nỗi dằn vặt xâu xé. Quá khứ hiện về như một nỗi ám ảnh khôn nguôi.
Quốc Tuấn ra tận mạn thuyền đỡ Thái sư bước qua tấm ván để vào bờ. Miệng chào, tay đỡ cho ông đi từng bước.
Thái sư nhẹ hỏi:
- Quốc Tuấn đấy ư? Ta muốn về thăm trang ấp của cháu, lại cũng muốn đọc trước tác về binh pháp của cháu.
Quốc Tuấn đỏ mặt vì ngượng, nói lảng:
- Ông ơi, núi sông ở vùng này đẹp lắm, ông ở lại đây ít ngày, cháu dẫn ông đi.
- Ờ, ông cũng muốn nhìn tận mắt cảnh sắc nước non. Cứ bảo nước mình nhỏ. Vậy mà ông đã đi được hết đâu.
Hai ông cháu lẫn vào trong đoàn người đông đúc, vừa đi vừa nói chuyện. Loáng đã vào tới đại sảnh.
Quốc Tuấn mời hai vua cùng các quan vào nhà đại bái. Ngôi nhà chín gian cửa bức bàn, cột gỗ lim đen bóng. Đá tảng kê chân cột hình trụ, chân đế vuông trang trí hình lá đề chạy quanh hai đầu trụ. Các đấu sen, chân quỳ chạy đến nóc để gác đòn tay thay kèo.
Gian giữa kê một chiếc hương án chạm lộng, sơn son thếp vàng. Trên treo bức đại tự có bốn chữ: “Giang sơn cẩm tú”. Góc dưới nơi dòng lạc khoản đề ngày tháng còn có bốn chữ “Hoài vương thủ bút”. Có nghĩa rằng đây là chữ của Hoài vương Liễu viết để lại cho con. Thâm ý vương muốn dặn con đất nước ta đẹp lắm, con phải gìn giữ lấy.
Mọi người đều ngước đọc và khen vương có nét chữ bay bướm, khoáng đạt.
Quốc Tuấn mời hai vua và thái sư cùng mọi người an tọa, ông sai gia nô dâng trà. Lại xin phép được dâng bữa ăn sáng.
Thái tông gạt đi:
- Để nửa buổi hãy ăn sáng. Vì đêm ăn ở dưới thuyền còn no. Có mấy việc cần phải bàn gấp, ở kinh sư không tiện.
Trần Quốc Tuấn nhìn khắp lượt, ông thấy ngoài hai vua và Thái sư Trần Thủ Độ còn có Tướng quốc thái úy Trần Nhật Hiệu, Vọng giang phiêu kỵ đô thượng tướng quân Trần Quốc Khang, Thái úy Trần Quang Khải, Ngự sử đại phu, Thủy quân đại tướng Lê Phụ Trần (Lê Tần), Phiêu kỵ tướng quân thiên tử nghĩa nam Trần Khánh Dư, Đô thượng tướng quân Trần Khuê Kình, Công bộ thị lang, trạng nguyên Nguyễn Hiền, sử quan bảng nhãn Lê Văn Hưu… Ưu biệt nhất trong chuyến đi này nhà vua còn mời cả Phù Vân quốc sư. Sư tuy tuổi cao nhưng đầu óc còn minh mẫn thông tuệ, người gầy nhỏ nhưng săn chắc đi lại thoăn thoắt. Năm nay sư đã tám mươi tuổi, hơn Trần Thủ Độ đúng mười tuổi nhưng ai cũng nghĩ quốc sư còn ít tuổi hơn Thái sư.
Vua Thái tông mời quốc sư ngồi bên tả, Thái sư Trần Thủ Độ ngồi bên hữu. Tiếp phía sau là vua Thánh tôn và tướng quốc thái úy Trần Nhật Hiệu. Còn lại theo thứ bậc ngồi.
Vào việc, Trần Thái tông nói:
- Bữa nay trẫm thỉnh Quốc sư và Thái sư cùng quan gia và chư vị tâm phúc để bàn việc quốc sự. Ấy là nhà Nguyên vừa có chiếu thư gửi sang hạch sách ta một số việc. Vua sai đọc lại nguyên văn chiếu thư của Hốt-tất-liệt.
Vua xem sắc diện mọi người khi nghe chiếu thư, dường như lòng giận uất càng lúc càng dâng cao.
Thái tông biết phải chuyển lòng tức giận này thành ý chí và phải nuôi dưỡng nó thành sức mạnh quật cường của muôn dân chứ không chỉ là sự bộc phát nhất thời. Yên lặng giây lâu, ngài nói:
- Chiếu thư của Nguyên thế tổ Hốt-tất-liệt đòi ta có ba việc:
Một là phải cống các đồ trân quý mà y đã đòi.
Hai là phải cống thầy và thợ.
Ba là phải chấp nhận viên Đạt-lỗ-hoa-xích đeo hổ phù đi lại khắp nước ta.
Đạt-lỗ-hoa-xích là viên khâm sai của Nguyên chúa phái sang giám sát mọi mặt của nước ta.
Vua Thái tông nhìn về phía Quốc sư và Thái sư nói:
- Xin hai đại lão chỉ cho trẫm gỡ rối việc này với nhà Nguyên.
Trần Thủ Độ quay về phía Quốc sư vái một vái rồi nói:
- Xin trưởng lão mở lời bố thí!
Quốc sư vái đáp lễ rồi nói:
- Lão tăng ẩn tu nơi núi rừng Yên Tử, vài năm lại đây hoàng thượng vời về kinh sư, lại chuyên chú vào việc chỉ dẫn cho thợ khắc ván in trước tác của ngài, nên việc đời với lão tăng khác chi ếch ngồi đáy giếng, thực không dám lạm bàn. Nhưng lão tăng chỉ xin nói một điều, nếu người Mông Cổ đã chiếm xong Trung Hoa thì mọi việc sẽ rất khó khăn cho ta. Nếu họ chưa chiếm được Trung Hoa ắt họ sẽ còn nới tay. Vì vậy đối sách có thể dây dưa, xin bớt điều này bỏ điều kia. Cư xử với những người tâm địa hổ lang này là muôn khó. Bệ hạ nên cân nhắc, cố giữ lấy cái thế nhân chủ. Mất thế nhân chủ là mất nước. Ta là nước nhỏ, thế yếu. Tức là phải lấy yếu chống mạnh. Thế thì phương lược ắt bệ hạ phải dùng phép lấy nhu chế cương. Tăng này chỉ mong sao cái tâm thế gian được yên định cho cái trí nó sáng ra thì mới bớt sân si rồi từ đó mà chế ngự lòng tham dục. Kẻ nào tham sân thái quá ắt sẽ trắng tay. Không chỉ trắng tay mà còn vong thân, vong quốc. Đại Việt ta từ xưa vẫn lấy nhân nghĩa, hòa ái làm đối sách. Những kẻ cậy mạnh không thời nào chịu nghe. Và xem ra lần nào họ cũng chuốc họa. Nay bệ hạ lo giữ nước, bảo vệ sinh linh, ấy là việc thiện nên sẽ được Trời Phật độ. Bệ hạ cứ vững tâm mà hành hóa, muôn dân sẽ cùng bệ hạ giữ nước.
Ngừng lời thiền sư quay về phía nhà vua, lại quay sang phía thái sư cúi chào rồi tiếp:
- Bần tăng có vài lời thô lậu trước việc lớn quốc gia, đúng sai không biết nhưng đó là lời nói trực tâm, xin bệ hạ và chư vị thứ lỗi.
Vua Thái tông vội tiếp lời:
- Đa tạ đại lão thiền sư đã chỉ cho trẫm phương lược ứng xử. Có thể nói Quốc sư đã chỉ cho ta phương lược chung, vậy ta phải tìm ra đối sách cho từng việc một. Ví như mỗi việc nhà Nguyên đòi đây nên cư xử như thế nào. Hoặc giả, ngoài phương lược như đại lão thiền sư vừa chỉ dẫn, ai có phương lược nào khác cứ tâu lên để cùng nghị bàn.
Thái sư Trần Thủ Độ nói:
- Phương lược nước nhỏ đối với nước lớn như đại lão thiền sư vừa dạy, quả là siêu việt và không gì có thể thay thế. Lấy yếu chống mạnh, lấy nhu chế cương có nhẽ đó là phương lược lâu dài của nước ta đối với phương bắc. Hoàng thượng vừa hỏi trong ba việc nhà Nguyên đòi, từng việc nên có đối sách thế nào. Chắc các thân vương và các vị tâm phúc ở đây sẽ bàn cho vỡ lẽ. Riêng Thủ Độ tôi thấy các đồ trân quý có thể cho. Nhưng không phải cho tất cả, không cho đủ số như họ đòi hỏi. Có thứ họ đòi nhiều ta cho ít, có thứ họ đòi ít ta cho nhiều. Có thứ không cho. Nếu có vặn hỏi thì bảo có thứ còn ít quá tìm kiếm khó khăn. Có thứ bảo hết rồi. Trước kia thì có, bây giờ không còn nữa vì nhà Tống đã đào cùng tát cạn. Các thứ đó bây giờ chỉ có thể tìm thấy trong các kho trân bảo của Tống triều.
Lại như họ đòi cống các thầy và thợ giỏi, cái này thì không thể được. Những người đó vừa là tài năng vừa là tài sản quý của nước. Nó là một thứ mỏ càng khai thác càng sinh sôi, bằng mọi cách phải bảo vệ chứ không thể đem nộp cống tinh hoa của đất nước cho kẻ thù. Mà nếu đã được một ắt chúng sẽ đòi tới mười nữa kia.
Vừa nói tới đó thì một cơn ho chợt đến. Trần Thủ Độ ôm ngực thở, bỏ dở câu nói.
Gia nhân đem dâng thái sư chén trà gừng nóng. Ngài đỡ lấy và nhấm từng hụm nhỏ, gương mặt đã hồng hồng trở lại.
Vua Thánh tôn hỏi Tướng quốc thái úy Trần Nhật Hiệu ngồi kế bên:
- Chú có điều gì cần nói?
Trần Nhật Hiệu vừa lắc đầu vừa xua tay. Điều đó có nghĩa tướng quốc thái úy không muốn nói hoặc không dám nói qua các vụ ông lấy ngón tay nhấp nước sông Thiên Mạc làm mực viết lên phía ngoài mạn thuyền hai chữ “Nhập Tống”. Khi vua Thái tông hỏi ông kế phá giặc, chắc ông còn ngượng lắm.
Vua Thánh tôn lại quay sang phía Lê Phụ Trần giục:
- Quan ngự sử cho biết cao ý.
Lê Tần bèn đứng lên vái chào hai vua cùng mọi người, đoạn ông nói thong thả:
- Vừa rồi quốc sư có nói phương lược ứng xử với nhà Nguyên. Rồi quốc sư lại dạy: “Phải giữ lấy cái thế nhân chủ. Mất thế nhân chủ là mất nước”. Đúng như vậy. Thế thì cái chức Đạt-lỗ-hoa-xích kia mà Hốt-tất-liệt đã nói rõ: “Đeo hổ phù đi khắp nước”. Tức y có quyền giám sát, thậm chí kiểm soát mọi công việc của nước ta. Vì vậy nếu ta chấp nhận cho người Nguyên đặt chức Đạt-lỗ-hoa-xích cũng tức là ta chấp nhận một nửa sự cai trị của họ. Lý đương nhiên ta mất thế nhân chủ về tay họ. Nhưng nếu ta không chấp nhận, liệu họ có để ta yên không?
Lê Tần buông ra một câu hỏi mà chính ông đang rất băn khoăn. Nói xong, ông vái nhà vua rồi ngồi xuống.
Vua Thái tông với vẻ ngập ngừng nói:
- Đây là điều khó xử nhất của chúng ta. Lại nữa cũng là điều then chốt nhất trong chiếu thư của Hốt-tất-liệt. Nhà Nguyên cho rằng ta có quy thuận họ hay không cũng ở điều này. Mà ta có giữ được cái thế nhân chủ hay không cũng ở điều này. Tức là việc chấp nhận hay không chấp nhận chức Đạt-lỗ-hoa-xích do nhà Nguyên đưa sang.
Ngẫm nghĩ một lát, vua Thái tông lại nói:
- Trước vì sứ Mông Cổ mạn xược ta đã sai trói, có đứa đã chết. Sau chiến tranh họ lại cho hai sứ sang dụ, vẫn như bọn trước, rất là trịch thượng, vô lễ, ta cũng sai trói lại đuổi về nước. Nhưng đấy là chuyện của những năm trước. Nay thì không thể xử như vậy được, phải “lấy nhu chế cương” như quốc sư vừa chỉ ra. Vậy chư vị thử nghĩ xem có chước nào khả dĩ để đem ra làm đối sách với người Nguyên.
Trạng nguyên Nguyễn Hiền xin nói:
- Tâu thượng hoàng, tâu quan gia, bạch đại lão thiền sư cùng chư vị bề trên và đồng liêu. Việc Hốt-tất-liệt đòi đặt chức Đạt-lỗ-hoa-xích ở Đại Việt là ông ta muốn ra oai thôi, chứ Đại Việt ta mênh mông thế này mà chỉ có một tên Mông Cổ với vài đứa tùy tùng, thử hỏi chúng đi được đến đâu và làm được gì ở nước ta. Ấy là chưa nói chúng còn gặp một trở ngại lớn là ngôn ngữ bất đồng.
Tâu thượng hoàng, việc này có thể nhận được, nhưng ta phải biến nó trở thành những kẻ mắt đui tai điếc. Nói cho dân chúng biết không một ai được tiếp xúc với chúng. Nếu chúng nói gì, hỏi gì đều lắc đầu không biết. Bọn này chỉ nói được tiếng Vân Nam hoặc Quảng Tây. Vì vậy, nếu gặp khi nó hỏi, người dân cứ lắc đầu không biết hoặc dẫn nó vào cửa quan. Quan nọ lại dẫn đến quan kia cứ quần cho nó phát chán. Tức là nó đi đến đâu cũng là đi vào cửa quan cả, thử hỏi nó còn thâu nhận được gì. Tâu thượng hoàng, liền chỗ nó ở, ta cho mở hàng quán lầu ca, viện hát để cung phụng nó mà không thu tiền. Lại biếu xén nó, các đồ sang quý kể cả vàng bạc. Ta cứ nuôi vỗ cho nó béo, chiều nó hết lòng chắc nó cũng chẳng muốn đi dò xét ta làm gì nữa. Mà dò xét cũng không tìm biết được cái gì. Còn hạch sách ư? Chưa cần hạch sách ta đã cung phụng tới mức ở nước nó có nằm mơ cũng chẳng được.
Tâu thượng hoàng, làm như vậy cũng tức là ta biến ngài Đạt-lỗ-hoa-xích thành một con lợn được nuôi vỗ đầy đủ trong một khung chuồng. Và thỉnh thoảng ngài lại kiếm cớ về nước, tức là khuân của được biếu tặng về. Và đây là dịp y sẽ tâu lên thiên tử thuần những lời tốt đẹp về Đại Việt.
Tâu thượng hoàng thần nghĩ làm cách này đỡ tốn kém hơn, bang giao êm thuận hơn. Trong khi đó ta phải mau chóng chuẩn bị quân, lương, phòng khi nó đã diệt xong nhà nam Tống nó sẽ ép ta mạnh hơn, hoặc đưa quân sang chinh phục.
Mọi người vừa chú mục vừa lắng nghe Nguyễn Hiền nói. Ai cũng thầm khen đó là một cao ý.
Thái tông tỏ vẻ hài lòng, vua khen:
- Quả khanh là người thông tuệ, mười ba tuổi đỗ trạng nguyên có khác. Mưu này dùng được. Vậy là theo chiếu thư của Hốt-tất-liệt đòi ta ba việc, nhưng quy về chỉ có hai. Cống người và cống đồ trân quý. Đặt chức Đạt-lỗ-hoa-xích. Ta nhận cả hai. Nhưng việc cống thì chỉ cống vật chứ không cống người. Các đồ trân quý cũng tùy thứ cho thứ không, thứ nhiều thứ ít. Còn Đạt-lỗ-hoa-xích sẽ theo kế của Nguyễn Hiền.
Sử quan Lê Văn Hưu xin nói:
- Tâu, kế của quan binh bộ thị lang Nguyễn Hiền rất hay, nhưng nếu gặp viên Đạt-lỗ-hoa-xích là một kẻ tinh ranh lại trung thành với vua nó khiến ta không mua chuộc được thì sao?
Thông thị đại phu Trần Phụng Công nói:
- Nếu gặp một kẻ như sử quan nói thì ta lại có đối sách khác. Nó muốn đi đâu, ta lo cho nó đi đấy. Tức là tỏ ra thừa nhận quyền uy của nó, nhưng bên trong vẫn là làm cho nó trở thành kẻ khiếm thính, khiếm thị. Tức là nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy.
Tâu, muốn làm được điều này thì phải dạy cho dân chúng biết bọn người ấy là kẻ thù của mình, nó sẽ đem họa đến cho mọi người. Cả nước muôn người như một thì dù chúng ở Thăng Long hay vào nơi chợ búa, chùa quán, làng quê cũng vậy cả thôi. Còn như chốn quân cư, kho tàng, nơi chế tác khí giới đều phải tuyệt mật, một bước cũng không cho nó đặt chân tới. Tuy nhiên, tôi vẫn tin vào kế của quan binh bộ thị lang. Cũng như tôi tin vào lòng tham sân của kẻ xâm lược.
Nghe các quan phản bác, rồi lại có người phản bác lại, vua Thái tông lấy làm hài lòng. Bởi việc luận bàn như vậy mới thật là rốt ráo. Cuối cùng vua phán:
- Đáp lại chiếu thư của Hốt-tất-liệt lần này ta chỉ cống các đồ trân bảo cùng với tờ biểu mà không cống một người nào cả. Trong biểu dâng cống ta cũng không đả động tới. Nếu nhà Nguyên có bắt bẻ, sứ liệu lời mà biện bác. Ngay việc y đòi đặt chức Đạt-lỗ-hoa-xích ta không phản bác cũng không đả động gì tới. Nếu Hốt-tất-liệt có hỏi, sứ cứ trả lời quốc chủ tôi đang đón đợi.
Tuy nhiên, đây mới là việc nhỏ mở đầu cho một thời kỳ cam go sắp tới. Việc lớn của chúng ta là làm thế nào cho dân no ấm, binh mạnh, mong mọi người hiến kế.
Phiêu kỵ thượng tướng thiên tử nghĩa nam Trần Khánh Dư xin nói:
- Tâu thượng hoàng, còn một việc nữa nên làm, như ở Thăng Long và Vân Đồn hiện nay là hai nơi trọng yếu của nước nhà, thế mà cứ để cho bọn thương nhân Hồi Hột đi lại buôn bán tự nhiên. Liệu họ có buôn bán thật không hay ngoài là buôn bán nhưng lại ngầm dò la ta để tâu báo với người Nguyên, vì hiện nay cả hai nước Thổ Phồn và Hồi Hột đều là thuộc quốc của nước Nguyên, cho nên phải đề phòng kế dụng gián của họ.
Tâu, đuổi họ đi sợ lại đụng tới nhà Nguyên, chi bằng ngầm bảo người mình không ai mua bán giao dịch gì với họ nữa. Hàng họ nhập vào thì đánh thuế nặng. Còn hàng của ta thì thả cửa cho họ mua, nhưng nếu họ đem ra khỏi nước ta cũng đánh thuế thật cao. Như thế có nghĩa là hàng chất đống vào đầy kho không bán được, chắc chỉ một năm là cạn vốn, mấy người này phải bỏ của mà chạy chứ chẳng cần ta phải đuổi.
Ngoài cảng Vân Đồn hiện nay tàu thuyền nước ngoài ra vào buôn bán nhiều, mà người nước ngoài mở cửa hàng tại cảng cũng nhiều, nhiều nhất là người Tống. Xin bệ hạ cho dồn những người này vào buôn bán tại đất liền nếu họ còn muốn ở lại nước ta, khu cảng không cho người nước ngoài sinh sống ở đó nữa. Bởi nay mai quân thủy của ta chắc phải trú đóng và tập tành ở vùng này nhiều, cần phải giữ cho kín nhẹm.
Thái tông gật đầu khen:
- Điều khanh nói chí phải. Quan gia nhớ sai khu mật viện phái người đi làm ngay việc đó. Nhớ là không giao thương, không giao tiếp.
Thái úy Chiêu Minh vương Trần Quang Khải là người trẻ tuổi nhất trong số những người có mặt ở đây, năm nay vương mới hai mươi ba tuổi. Người cao, dáng hơi gầy, gương mặt thanh tú, đôi mắt sáng lạ lùng. Vương được vua sai vào trị nhậm Châu Nghệ An cũng là một sự tập dượt. Bữa nay vương chưa nói năng gì mà chỉ lắng nghe mọi người. Vương vừa nghe vừa nhìn về phía bức đại tự có bốn chữ “Giang sơn cẩm tú” là lưu bút của bá phụ Yên Sinh đại vương, và vương tự suy ngẫm.
Vua Thái tông lại gặng:
- Nào, ta muốn nghe kế để hưng thế quân, hưng thế nước không kể việc lớn việc nhỏ, mưu kỳ chước lạ chỉ cần có suy nghĩ chân thực, lời nói ắt chân thành còn việc dùng được hay chưa dùng được hoặc không dùng được đều phải bàn thảo, vì vậy chớ ngại đúng sai.
Đô thượng tướng quân Trần Khuê Kình xin nói:
- Tâu thượng hoàng, thế quân nằm trong thế nước. Thế nước đã hưng, thế quân ắt có đà. Từ cả chục năm nay bệ hạ sai đắp đê ngăn lũ, ngăn mặn từ nguồn tới biển, nhiều nơi lúc trước lúa chỉ cấy được một vụ, nay đã một năm hai vụ gặt. Thóc ninh ních đầy bồ, dân no ấm. Bệ hạ lại sai bán ruộng quốc điền cho những nông phu không có ruộng cày, ai không có tiền thì bán chịu, chỉ có năm quan tiền một mẫu ruộng. Gần đây bệ hạ còn cho các vương hầu được khai hoang, vỡ hóa mở các điền trang. Việc này phải chờ dăm ba năm mới thấy được kết quả. Sức dân sẽ lên từ từ, vận nước vì thế mà hưng hơn nữa.
Tuy vậy cái cấp kỳ hiện nay là phải hưng thế quân. Đây là việc muôn khó. Trước hết là phương cách đánh trận. Vì rằng cách kình chống với quân Tống và kình chống với quân Nguyên hoàn toàn khác. Ví như năm Đinh Tỵ giặc lâm vào thế yếu phải bỏ chạy, vậy mà quân ta không có cách gì truy đuổi kịp nó. Giá như lũ giặc ấy là quân Tống, chắc đã bị quân ta tiêu diệt hết. Hơn nữa là binh khí. Binh khí của ta chỉ ngang hoặc hơn quân Tống chứ không so được với quân Nguyên. Nội trong một cây cung ta đã không so được với giặc. Cung của giặc, sức ta ít người giương nổi. Vì vậy nó bắn được xa và sức xuyên thì áo giáp thường không cản nổi. Nhưng cái sở trường về binh khí của quân ta là gì? Xin chư liệt vị chỉ ra. Nếu đã có thì ta phát tác nó lên, nếu chưa có thì tìm, phải tìm ra cái hình hài của nó.
Khi Trần Khuê Kình nói phải hưng thế quân và các điều cần yếu làm cho quân ta có sức mạnh, ai cũng cho là phải và đó là khâu then chốt. Nhưng làm thế nào thực hiện được điều mong ước đó lại không dễ.
Bỗng Thái sư Trần Thủ Độ lên tiếng:
- Việc Khuê Kình đòi hỏi, ta chắc Quốc Tuấn có thể giải đáp được. Vì sao ta nói vậy? Là vì ta biết Quốc Tuấn đã khảo cứu binh pháp của các binh gia từ thuở mười lăm, mười sáu tuổi, nay Tuấn đã ngoài ba mươi tuổi, là cái tuổi đang chín. Vả lại, cuộc chiến năm Đinh Tỵ, Quốc Tuấn đã phối với Hà Bổng, Hà Khuất vừa tiêu diệt vừa đuổi về nước ba vạn quân Mông Cổ và hơn hai vạn binh lính và phu phen của Đoàn Hưng Trí, cắt cái đuôi tiếp ứng của quân Mông Cổ, khiến chúng chiếm Thăng Long ở chưa được ấm chỗ, khi bị thượng hoàng tiến đánh là chúng tháo chạy. Khi ấy Quốc Tuấn lại cùng với Hà Bổng phối đánh tiêu diệt khá nhiều quân Mông Cổ. Nay lại nghe nói Quốc Tuấn đang trước tác binh pháp. Do đó mà ta tin là Quốc Tuấn đã có đối sách. Khá mau tường trình lên hai vua cùng chư liệt vị đây để cùng cứu xét.
Nghe Thái sư Trần Thủ Độ nói mọi người đều sửng sốt, kể cả vua Thái tông đều không khỏi bất ngờ. Mặc dù nhà vua đã biết Quốc Tuấn có tài làm tướng và đôi lần thái sư có nhắc phải trao cho Quốc Tuấn nắm việc quân. Nhưng nhà vua vẫn còn phân vân, phần vì tuổi Quốc Tuấn còn trẻ, binh nghiệp chưa có gì vượt trội hơn mọi người. Và còn một điều nữa tuy chưa có gì đáng nghi nhưng có phần hơi ngại vì cha Quốc Tuấn có hận với triều đình. Nếu mang quân quyền giao hết cho Quốc Tuấn, lỡ có điều gì thì chẳng nguy lắm sao. Tuy vậy, cái phần ngài ngại ấy nhà vua vẫn bao kín ở trong lòng, ngay với các con ngài cũng không nói, sợ gieo trong anh em nó nỗi nghi kỵ rồi xảy đến bất hòa là điều đại họa không chỉ cho nhà mà còn cho nước nữa. Nhất là trong lúc này, kẻ thù đang dòm ngó núi sông ta.
Nghe Thái sư nói, Quốc Tuấn vẫn ngồi yên. Mọi con mắt đều đổ dồn về phía vị tướng trẻ. Chỉ khi vua Thái tông nói:
- Quốc Tuấn khá tường trình kế sách hưng thế quân của ngươi đi.
Thái tông vừa dứt lời, Quốc Tuấn bèn đứng lên thưa gửi hai vua cùng các bậc bề trên, các đồng liêu rồi nói:
- Tâu thượng hoàng thần có xem xét cách đánh trận từ cổ đại tới nay. Cổ đại dùng đội hình hàng dọc xông vào giáp chiến, sự thắng thua phụ thuộc trước hết vào các vị tướng của cả hai bên. Vì vậy, tướng phải là người cực khỏe, võ nghệ siêu quần.
Sau này trận bày thiên về đội hình hàng ngang. Các tướng vẫn giữ địa vị ưu tuyệt của các đội quân, nhưng chủ tướng không xông lên phía trước mà ở phía sau, lên cao quan sát thế trận của đối phương xem nên công phá ở phía nào hoặc giả phán đoán sự thua chạy của đối phương là thật hay chỉ giả thua để dụ quân mình vào ổ phục. Do đó mới quyết định cho truy đuổi hay dừng lại.
Tiến lên một bước nữa vừa bày trận dàn quân đánh nhau, vừa có thành trì phòng thủ.
Như nhà Tống hiện nay phối hợp nhiều chủng quân: quân bộ, quân thủy, quân kỵ, vừa bày trận dàn quân vừa có thành cao hào sâu cố thủ.
Nhưng so giữa hai cách hành binh và đối trận có thể nói kiểu của quân Tống là ở thế tĩnh. Còn kiểu của người Mông Cổ là ở thế động.
Vì họ ở thế động, nên họ áp đảo đối phương rất nhanh khiến không kịp trở tay đối phó. Do vậy khi lâm trận họ thường chủ động và gây cho đối phương nỗi kinh hoàng không thể chống đỡ. Thường là họ lấy quân ít đánh quân nhiều và họ luôn là kẻ chiến thắng.
Ví như đối phương có một nghìn quân bộ lập thành một thế trận hình vuông, quân sĩ chĩa khí giới về cả bốn hướng để cự địch. Trong khi họ chỉ có hai ba trăm quân kỵ chia làm hai toán. Các kỵ sĩ phóng nước đại quây đối phương thành một vòng kín, một nửa chạy xuôi, nửa kia chạy ngược, vòng vây ngày một khép chặt. Họ vừa phi ngựa vừa bắn vào quân của đối phương. Thỉnh thoảng lại quăng thòng lọng vào giữa đám quân đông đúc của đối phương mà bắt tướng. Vòng vây cứ ngày một siết nhỏ lại khiến quân đối phương dồn vón như một đàn kiến bị dìm trong nước không thể chống cự. Nếu quân kia hạ khí giới đầu hàng may còn được sống, nếu có hành vi kháng cự hoặc trù trừ thì hàng trăm con ngựa lớn cứ thế xông thẳng vào đám đông và lính Mông Cổ từ trên mình ngựa vung gươm chém lia lịa, kỵ sĩ cứ cho ngựa quần và chém giết đến người cuối cùng. Với cách đánh lạ lùng ấy cho tới nay, chưa có một đội quân nào, một quốc gia nào không bị quân Mông Cổ đánh bại.
Quốc Tuấn tạm ngừng lời để dò xét ý tứ các bậc bề trên và các đồng liêu.
Bỗng Phiêu kỵ thượng tướng quân Trần Khánh Dư lên tiếng:
- Huynh nói vậy và quả thực là như vậy về phương lược tác chiến cũng như khí cụ tham chiến, quân Mông Cổ đã phát triển theo một hướng mới, khác hẳn với lối tác chiến cổ xưa và đem lại hiệu quả chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh. Xin huynh cho nghe phương lược mới mà huynh trứ tác.
Cứ nghe cách hỏi của Trần Khánh Dư, Quốc Tuấn biết kiến thức người này không thể xem thường. Và quả thực vương cũng không ngờ Khánh Dư còn trẻ mà đã có kiến văn đáng quý.
Đúng lúc Thái úy Trần Quang Khải cũng giục:
- Quốc Tuấn, huynh nói cái kế của huynh về tổ chức một đội quân để chống lại quân của người Nguyên. Huynh cho quân Thát-đát ở thế động, quân của các nước khác kể cả nước ta đều ở thế tĩnh. Và như vậy quân địch ở thế dương, quân ta ở thế âm. Thế thì làm thế nào để lấy tĩnh chế động, lấy âm chế dương.
Lại nghe lời hỏi của Quang Khải, Quốc Tuấn thầm đoán: Quang Khải là người bén nhạy, thông tuệ, vừa nghe đã muốn biết đến cái rốt ráo của sự việc và tóm thâu thế quân, thế trận của đôi bên để quy về có hai chữ âm, dương. Khải chắc sẽ trở thành bậc thượng tướng siêu việt.
Chưa thấy Quốc Tuấn lên tiếng, Thái sư Trần Thủ Độ bèn giục:
- Hưng Đạo vương cho mọi người nghe cao ý của cháu đi.
Quốc Tuấn bèn thưa:
- Tâu, quân Thát-đát Mông Cổ quả có lối đánh mới rất lợi hại. Nhưng ta không thể lập một đội quân theo kiểu của họ được. Vì rằng nếu quân lính và ngựa của ta có căng sức tập luyện tới ba năm cũng không thể quen thạo như một người du mục Mông Cổ cưỡi ngựa và ngựa của ta cũng vậy. Bởi vì thảo nguyên bao la, ngựa vừa ăn cỏ vừa nô giỡn đuổi nhau trên đồng cỏ vài ba chục dặm là thường. Một ngày đàn ngựa có cả chục lần giỡn đùa như vậy. Vì thế ngựa Mông Cổ vừa to khỏe vừa có sức chạy dẻo dai mà không giống ngựa nào có được. Cái ưu thế về thảo nguyên bao la, trời đã ban tặng riêng cho người và các giống vật Mông Cổ, trong đó có loài ngựa. Nay họ lấy cái thiện xảo trời phú cho làm kế sinh tồn để biến nó thành những đạo quân khổng lồ đi chinh phục các nước. Nếu ta lập các đạo quân theo hướng của họ ắt trở thành cái bóng ngả dài của họ và bị họ bóp chết trong thoáng lát.
Ta ví ta ở cái thế âm. Nhưng trong âm lại có dương. Còn người Mông Cổ lại ở cái thế thuần dương, cực dương. Cho nên trong giao đấu chiến trường, cái cực mạnh của họ nếu ta biết khắc chế, nó sẽ biến thành cái cực yếu.
Quốc Tuấn chợt ngừng lời như để nhớ lại các điều đã trước tác và chắt lọc nó ra để trình lên những ý chính, vì các bậc bề trên sẽ cho là thất lễ, nếu như ta cứ lạm dụng rườm rà.
Thật ra không phải như Quốc Tuấn khiêm nhường nghĩ vậy, mà mọi người đang căng tai lắng nghe.
Lê Tần, một viên dũng tướng văn võ song toàn, liền trong mấy chục năm cả nhà vua và thái sư đều không chê ông điều gì, thế mà nghe Quốc Tuấn nói ông cũng phải thầm khen: “Quốc Tuấn mới là bậc kỳ tài, mưu vương tướng lược. Có nhẽ trời ban cho Đại Việt con người này để kình chống với sức mạnh của nhà Nguyên đây”. Chính ông đang muốn nghe Quốc Tuấn nói tiếp.
Nhà vua và cả thái sư đều gật đầu vẻ hài lòng. Quốc sư Phù Vân tay lần tràng hạt, mắt thả vào hư vô, nhìn mà như không thấy.
Một thoáng ngưng nghỉ, Quốc Tuấn lại tiếp: - Sức mạnh của quân Mông Cổ là đánh vu hồi. Nó đòi hỏi một chiến trường rộng lớn, khô ráo, bằng phẳng với một đối phương đông đúc bày thành thế trận. Nếu có một đối phương như thế, ắt sẽ trở thành miếng mồi ngon cho quân Mông Cổ.
Với vẻ tự tin khác thường Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn nói hết sức dõng dạc:
- Nếu quân Nguyên, tức quân Mông Cổ xâm lấn, ta buộc nó phải chấp nhận cách đánh của ta. Tức là ta phân nhỏ địch ra mà đánh, ta kéo nó vào đầm lầy, rừng rậm, sông hồ mà đánh. Với một chiến trường như thế, ngựa Mông Cổ trở nên vô dụng. Mà quân Mông Cổ một khi đã rời khỏi lưng ngựa coi như một thứ đồ bỏ. Và ta chỉ đánh nhau với chúng vào mùa mưa, mùa ngập úng, lũ lụt. Mùa đó, ngựa Mông Cổ không có cỏ sạch mà ăn, không có nước sạch mà uống, cỏ tươi ngập nước, mùa lũ nước sông đục ngầu, ngựa uống vào chỉ đi ỉa chảy mà chết. Còn thời tiết mùa mưa vừa nóng vừa ẩm, người phương bắc sẽ không chịu nổi bởi nó làm cho thân thể họ đau nhừ, mỏi mệt rồi mắc các bệnh thời khí khiến quân không còn sức chiến đấu nữa. Khi ấy, giặc co cụm lại giữa bốn bề mênh mông nước thì chính chúng lại là mồi ngon của quân ta.
Tâu, nhưng dụ được địch vào kế của ta không dễ. Vì dưới trướng Hốt-tất-liệt đều là những tướng bách chiến bách thắng, lại mai đây khi người Nguyên đã bình xong Trung Hoa thì tiềm lực của nó lớn lắm, sức mạnh của quân nó cũng lớn lắm. Khi ấy nó không chỉ là quân Mông Cổ thuần dương, cực dương mà nó sẽ có những đội quân nô lệ thuần người Hán với cách đánh rất giống ta. Nó cũng có quân thủy và các mưu sĩ Trung Hoa làm tay sai cho nó vừa thâm hiểm vừa hiểu ta. Cho nên con đường đối phó với giặc sau này là muôn khó. Những đạo quân với khí giới và sức tinh nhanh thiện chiến như của ta hiện nay, chưa thể là lực lượng bảo vệ vững chắc giang sơn được, xin bệ hạ sớm trù liệu.
Nghe Quốc Tuấn nói ai cũng thấy sự lý giải và cả sự lo lắng của Quốc Tuấn là có lý. Các tướng trẻ dường như hiểu được Quốc Tuấn, còn các tướng già, các bậc trưởng lão lại kỳ vọng nhiều hơn ở Quốc Tuấn.
Thái sư Trần Thủ Độ với vẻ hài lòng, ông nói:
- Ta nghĩ đây mới chỉ là đoạn giáo đầu trong trước tác về binh pháp của cháu. Cháu phải sớm hoàn thành trước tác đi, hẳn là nhờ vào binh pháp này mà quân ta đủ sức kháng giặc chăng. Cháu đúng là một trí tướng, sự biến thông của cháu đã hé lộ. Riêng một việc cháu lấy thời tiết, khí hậu và cả thời gian như là một đội quân tham chiến, thực ta chưa nghĩ tới. Phần ta coi như một thứ đồ bỏ. Nhưng ta hy vọng nhất định các cháu sẽ giữ được mảnh giang sơn gấm vóc này, mà mỗi cọng cỏ, mỗi viên sỏi đều thấm đẫm máu xương của tổ tiên bao đời nay. Để mất nó dù chỉ một tấc núi một thước sông đều là trọng tội.
Khi mọi người đã có vẻ hài lòng về những gì mà Quốc Tuấn nói, vua Thái tông liền dụ bảo:
- Nước ta nhỏ, nhưng cứ phải gồng mình chống đỡ những kẻ thù khổng lồ. Có nhẽ đúng như Quốc Tuấn nói, mai đây quân Nguyên bình định xong nước Trung Hoa thì mối hiểm nguy đối với nước ta lại càng lớn. Ta không thể lập một đội quân đông và đủ mạnh để chặn giặc từ biên thùy. Tốt nhất vẫn là không nên có chiến tranh. Nhưng vạn nhất không tránh được thì ta phải có kế sách thế nào để có thể ngăn giặc, để có thể giữ được nước. Vì vậy ngoài sức mạnh của các chủng quân còn phải có sức mạnh của trí tuệ nữa. Nếu ta thua giặc một trận, ta có thể đánh trận khác. Nhưng nếu ta thua giặc về trí tuệ tức là thua về mưu lược dù chỉ một lần sẽ là mãi mãi thua. Cho nên thái sư kỳ vọng Quốc Tuấn sẽ trở thành một binh gia là điều có lý. Vậy Quốc Tuấn sớm hoàn thiện trước tác để có thể đem ra huấn hỗ cho tướng lĩnh và dạy bảo cho binh sĩ.
Nhìn về phía Quốc Tuấn vua Thái tông gạn hỏi:
- Ta nghe các thân vương nói, Quốc Tuấn có đội gia binh vào loại lớn nhất và được huấn hỗ kỹ càng hơn các phủ binh khác. Vậy có thể làm một cuộc diễn tập ngay trên Lục Đầu giang này cho mọi người xem được không. Nếu phối được nhiều chủng quân, lại chia thành bên ta, bên giặc mà đánh nhau như thật là tốt nhất.
Vua hỏi, cũng có nghĩa là vua dụ bảo, không thể không tuân. May mà đã có dự liệu từ trước, Quốc Tuấn liền đứng dậy vái hai vua, vái các bậc bề trên rồi nói:
- Tâu, thần xin tuân chỉ. Sớm mai vào đầu giờ dần, nhằm lúc sương chưa tan, xin mời thượng hoàng, quan gia, thái sư cùng chư vị lên đỉnh hai ngọn núi ở hai bên tả hữu này xem quân của phủ binh Hưng Đạo vào trận.
Thái tông gật đầu vẻ hài lòng. Ai nấy đều lấy làm thỏa mãn và nóng lòng chờ xem Quốc Tuấn cho quân vào trận, mặc dù đây mới chỉ là trận giả.