Số lần đọc/download: 1155 / 27
Cập nhật: 2017-04-04 13:33:18 +0700
Chương IX - Người Bán Sách Phố Bonaparte
B
ạn thân mến,” Athos tư lự nói, “nên nhớ rằng chỉ có với người chết ta mới không phải chẳng may gặp lại trên thế giới này.”
A. Dumas, BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM.
Lucas Corso kêu cốc gin thứ hai rồi ngồi lại thoải mái trên cái ghế tựa đan bằng cành liễu gai. Dưới ánh nắng cảm giác thật dễ chịu. Gã ngồi trong sân trời của quán cà phê Atlas trên phố de Buci, dưới một khung sáng hình chữ nhật phủ lên những cái bàn. Đó là một buổi mai lạnh lẽo sáng sủa, trên bờ trái sông Seine người đông như kiến: những người Nhật lớ ngớ, người Anglo-Saxon mang giày đế mềm cầm vé xe điện ngầm đi tới đi lui đánh dấu bước chân của mình ở các địa danh trong tiểu thuyết của Hermingway, các bà xách giỏ đựng đầy rau diếp và bánh mì dài, những ông chủ phòng tranh gầy gò nghếch mũi tìm chỗ làm một ly cà phê trong bữa ăn trưa. Một thiếu phụ trẻ duyên dáng, tựa vào cánh tay một ông trung niên ăn mặc lịch sự, có vẻ là nhà buôn đồ cổ hay một thằng vô lại hoặc cả hai, đang ngắm quầy kính một cửa hàng thịt ướp sang trọng. Một chiếc Harley Davidson tất tật các chi tiết đều mạ kền sáng loáng, một con chó Fox Terrier bẳn tính bị buộc vào cửa một hàng rượu đắt tiền, một người đàn ông trẻ tóc tết bím chơi sáo bên ngoài một cửa hàng nhỏ. Và ở bàn bên cạnh Corso, một cặp người châu Phi nom rất thanh lịch uể oải hôn môi nhau, như thể toàn bộ thời gian trên cõi đời này thuộc về họ, như thể những chạy đua vũ trang, AIDS và lỗ hổng tầng ôzôn chẳng có nghĩa lý gì trong một buổi sáng Paris đầy nắng.
Gã thấy cô đi qua góc phố Mazarin về phía quán cà phê gã ngồi. Cùng với dáng dấp con trai, cái áo khoác len thô thả ngoài quần jean, đôi mắt giống như những ngọn đèn trên làn da cháy nắng, xa xa trông cô nổi bật trong đám đông, giữa đường phố đầy ánh mặt trời rực rỡ. Đẹp vô cùng, La Ponte chắc chắn sẽ nói vậy sau khi hắng giọng rồi xoay mình để phô ra hình dáng ưu nhã nhất của hắn – khi bộ ria hắn dày và xoăn hơn một chút – về phía cô. Nhưng Corso không phải là La Ponte, vì vậy gã chẳng nói hay tưởng cái gì. Gã chỉ hậm hực liếc nhìn người bồi bàn mang cốc gin đặt lên bàn – Pas d’Bols, m’sieu – Không có Bols, rồi chìa cho gã số tiền chính xác trên hóa đơn – Service compris, cả tiền phục vụ, anh bạn trẻ - trước khi quay lại nhìn cô gái đang tới gần. Đến lúc hết yêu nhau, Nikon để lại một lỗ trống trong lòng gã có kích thước bằng một loạt đạn. Thế là trọn vẹn cho tình yêu. Mà gã cũng chẳng tin rằng mình có hình dáng dễ coi, bây giờ cũng vậy hay bất cứ lúc nào cũng vậy. Và thật đáng bị ăn đòn nếu gã lại quan tâm đến chuyện ấy.
Gã tháo kính ra lau bằng cái khăn tay. Đường phố bây giờ đầy những hình dáng mơ hồ, những dáng người mang khuôn mặt nhòe mờ. Một trong số đó nổi bật và rõ ràng hơn khi tới gần, mặc dù chẳng bao giờ nó có thể hoàn toàn sắc nét: tóc ngắn, chần dài, giày mềm màu trắng, tất cả rõ lên dần khi gã chật vật tập trung nhìn rõ cô. Cô ngồi xuống cái ghế trống.
“Em thấy cửa hàng rồi. Cách mấy dãy phố.”
Gã đeo kính vào nhìn cô không trả lời. Họ đi cùng nhau từ Lisbon, sau khi vội vàng rời khỏi Sintra phi tới sân bay, cứ như theo lời kể của ông già Dumas. Hai mươi phút trước khi xuất phát, Corso phôn cho Amilcar Pinto báo với hắn rằng kiếp sống khốn khổ của nhà sưu tầm sách Fargas đã dứt và kế hoạch bị hủy bỏ. Pinto vẫn được trả số tiền đã thỏa thuận để đền bù cho hắn đã quan tâm giúp đỡ. Ngoại trừ cảm thấy bất ngờ – cú phôn đã đánh thức hắn – Pinto phản ứng khá tốt. Hắn chỉ nói, “Tôi không hiểu anh nói gì, Corso, anh và tôi đâu có gặp nhau đêm qua ở Sintra.” Nhưng hắn hứa sẽ cho ai đó điều tra cẩn thận về cái chết của Fargas. Đương nhiên là sau khi nhận được tin chính thức. Giờ thì hắn chẳng biết gì, và cũng chẳng muốn biết, còn về việc khám nghiệm tử thi, Corso nên hy vọng báo cáo giám định pháp y sẽ kết luận nguyên nhân cái chết là do tự sát. Để phòng xa, Pinto sẽ trao cho các cơ quan hữu quan mô tả một đối tượng tình nghi mang một vết sẹo. Hắn sẽ giữ liên lạc qua điện thoại. Hắn thuyết phục Corso đừng quay lại Bồ Đào Nha trong một thời gian. “Ồ, còn một chuyện cuối cùng,” Pinto nói thêm khi thông báo về chuyến bay đi Paris đến giờ xuất phát vang lên. Lần sau, trước khi lôi kéo một người bạn vào một vụ giết người, Corso nên nghĩ kỹ. Corso vội vàng bảo vệ sự vô tội của gã trước khi máy điện thoại nuốt nốt đồng escudo cuối cùng. Rồi, rồi, Pinto đáp, ai cũng nói thế cả.
Cô gái đang chờ trong phòng đợi lên máy bay. Corso, vẫn còn bàng hoàng và chưa nghĩ ra cách gì để thoát khỏi những éo le đeo đuổi gã khắp nơi,lấy làm ngạc nhiên về năng lực xuất chúng cô biểu hiện khi kiếm được hai tấm vé máy bay cho họ không khó khăn gì. “Em mới được thừa kế ít tiền.” cô trả lời trước lời nhận xét đầy mỉa mai của gã khi thấy cô dường như chỉ có ít tiền còm như thế mà vẫn có thể trả cho cả hai tấm vé. Sau đấy, trong hai giờ bay từ Lisbon đến Paris, cô từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi gì. Để đến lúc thích hợp, cô nhắc lại và lén nhìn gã một thoáng trước khi đắm mình vào những vệt mây ngưng tụ sau đuôi máy bay trong không khí lạnh. Rồi, tựa đầu vào vai gã, cô ngủ thiếp đi, hoặc làm bộ vậy. Qua nhịp thở của cô, Corso biết cô vẫn thức. Đấy là cách thích hợp để tránh những câu hỏi cô không sẵn sàng hoặc không được phép trả lời.
Người khác ở địa vị gã có lẽ sẽ đòi bằng được câu trả lời, sẽ lay cô dậy cho bằng được. Nhưng Corso thì không, gã là một con sói kiên nhẫn, có nghề, với bản năng và phản xạ của người đi săn. Dù sao cô cũng là sợi dây duy nhất có thực kết nối gã với hoàn cảnh trớ trêu, hư ảo như trong tiểu thuyết này. Hơn nữa, gã đã hoàn toàn gánh vác vai trò một độc giả kiêm vai chính ở màn này của vở kịch, cái vai mà kẻ nào đó, bất kể là ai đang thắt nút bên dưới tấm thảm trải nhà, dưới sâu xa cốt truyện, có vẻ như đang muốn mời gã đóng kèm theo một cái nháy mắt hoặc là khinh thường hoặc là bí ẩn, gã không rõ đằng nào là phải.
“Ai đó đang giở trò với tôi.” Corso nói to, ở độ cao chín ngàn mét bay trên vịnh Biscay. Gã nhìn cô, nhưng cô không động đậy. Bực bội vì sự im lặng của cô, gã dịch vai đi. Đầu cô xuôi xẹo một thoáng. Rồi cô thở dài, sửa lại thế ngồi cho thoải mái, lần này đầu cô dựa vào cửa sổ.
“Đương nhiên là thế,” rốt cuộc cô nói, giọng ngái ngủ và đầy vẻ khinh thường, hai mắt vẫn nhắm nghiền. “Bất cứ tên thộn nào cũng biết.”
“Chuyện gì xảy ra với Fargas?”
“Chính ông thấy rồi,” cô trả lời sau một giây. “Ông ta chết đuối.”
“Ai làm?”
Cô chầm chậm quay đầu, từ bên nọ qua bên kia, rồi nhìn ra ngoài cửa sổ. Bàn tay cô mảnh khảnh, rám nắng, móng không sơn, chậm rãi trượt theo mép tựa tay nơi rìa dưới cửa sổ. Rồi dừng lại ở bên lề, như thể những ngón tay cô đụng phải vật gì đấy không trông rõ.
“Đó không phải vấn đề.”
Corso nhăn mặt. Trông như gã sắp cười, nhưng thay vào đó gã chỉ nhe răng.
“Với tôi nó là vấn đề. Nó có rất nhiều ý nghĩa.”
Cô nhún vai. Vấn đề hai người quan tâm không giống nhau, có vẻ cô muốn tỏ ý như thế. Chúng không cùng thứ tự ưu tiên.
Corso vẫn khăng khăng. “Vai trò của cô trong toàn bộ truyện này là cái gì?”
“Em nói rồi. Chăm sóc ông.”
Cô quay lại nhìn thẳng vào gã, cũng dứt khoát như khi nãy cô tránh không nhìn gã. Bàn tay cô lại trượt theo mép cửa sổ như muốn nối liền khoảng cách giữa hai người. Cô quá gần ở bên cạnh, khiến Corso tránh ra theo bản năng, bối rối và khó chịu. Sâu trong gan ruột gã, nơi khoảng vắng Nikon để lại, những ám ảnh bứt rứt và u ám nhộn nhạo khuấy đảo. Sự trống trải và đau đớn đang trở lại. Trong đôi mắt bình thản và không ký ức của cô gái, gã thấy bóng những hồn ma quá khứ, cảm giác chúng đang khẽ phớt qua da gã.
“Ai cử cô đến?”
Cô cụp hàng mi phủ trên đôi mắt tỏa sáng, giống như cô lật một trang sách. Chẳng còn gì ở đó nữa. Cô nhăn mũi, bực bội.
“Ông làm em chán đấy, Corso.”
Cô quay đầu lại cửa sổ nhìn ra ngoài. Bầu trời xanh mênh mang điểm những sợi mây trắng bị chia cắt bởi một vệt màu vàng và màu hoàng thổ ở phía xa xa. Đất liền kia. Nước Pháp. Chặng tới, Paris. Hay là chương kế tiếp. Tiếp tục trong số tuần sau. Kết thúc, lưỡi kiếm giương cao, chỗ tạm ngưng đầy gay cấn điển hình cho tiểu thuyết nhiều kỳ. Gã nhớ lại Quinta da Soledade, dòng nước nhỏ giọt từ vòi phun, cái xác Fargas chìm trong đám cây hoa súng và lá rụng trong ao. Gã xoay xở khó khăn trên ghế. Gã có đủ lý do để cảm thấy mình đang phải bỏ chạy. Đúng là ngớ ngẩn. Thay vì tự mình chọn đường chạy trốn, đây là gã bị buộc phải chạy trốn.
Gã nhìn cô gái và cố đánh giá hoàn cảnh của mình thật khách quan. Có lẽ không phải gã chạy trốn mà đang hướng tới thứ gì khác. Hoặc có thể điều bí ẩn gã cố trốn tránh đang ẩn giấu trong va li của gã. Rượu vang Anjou. Chín cánh cửa. Irene Adler. Cô tiếp viên hàng không, với nụ cười luyện kỹ và ngốc nghếch, nói gì đó khi đi ngang qua. Corso mải mê suy nghĩ, nhìn mà không thấy cô. Giá mà gã biết đoạn kết của câu chuyện đã được viết ra hay là chính gã đang viết nó trong khi theo đuổi từ chương này đến chương khác.
Gã không nói gì thêm với cô. Khi họ tới Orly, gã như quên mất cô, mặc dù vẫn biết cô đang theo chân gã. Ở chỗ kiểm tra hộ chiếu, sau khi trình thẻ căn cước, gã ngoái lại xem cô có loại giấy tờ gì, nhưng gã chỉ thấy một hộ chiếu bọc da đen, bên ngoài không có dấu hiệu gì. Hẳn là hộ chiếu châu Âu, vì cô đi qua cửa dành cho công dân cộng đồng châu Âu. Ra đến bên ngoài, khi Corso cho tài xế địa chỉ quen thuộc Louvre Concorde và leo lên taxi, cô trườn vào ghế bên cạnh gã. Họ đi trong im lặng. Cô xuống trước để gã trả tiền. Tài xế không có tiền trả lại, vì vậy Corso phải nán lại đôi chút. Khi gã đi qua hành lang, cô đã lấy được phòng và đang theo sau người phục vụ mang cái túi đeo của cô. Cô vẫy tay với Corso trước khi bước vào thang máy…
“Đó là một cửa hàng rất đẹp. Hiệu sách Replinger. Bản thảo chép tay và tư liệu lịch sử. Và đang mở cửa.”
Cô ra hiệu cho người bồi là không cần gì rồi nghiêng đầu nhìn Corso phía bên kia bàn, trong quán cà phê phố de Buci. Đường phố qua ô cửa sổ phản chiếu trong mắt cô long lanh như một cái gương.
“Ta có thể đến đó ngay bây giờ.”
Họ gặp lại nhau vào bữa sáng, khi Corso đang đọc báo bên một cửa sổ nhìn ra quảng trường Cung điện Hoàng gia. Cô chào buổi sáng rồi ngồi xuống. Cô nhai ngấu nghiến bánh mì nướng và bánh sừng bò. Rồi nhìn Corso, một đường viền cà phê sữa bám ở môi trên, giống như một cô gái nhỏ. “Chúng ta bắt đầu từ đâu?”
Vậy là lúc này họ ở đó, cách hiệu sách Achille Replinger hai dãy phố. Cô gái đề nghị đi tìm khi Corso uống ly rượu gin đầu tiên trong ngày của gã. Gã có cảm giác đó không phải là ly cuối cùng.
“Ta có thể tới đó ngay bây giờ,” cô lặp lại.
Corso vẫn do dự. Gã đã thấy làn da rám nắng của cô ở trong mơ. Gã nắm tay cô đi trên cánh đồng hoang mờ tối. Những cột khói dựng lên phía chân trời, núi lửa sắp phun trào. Họ ngẫu nhiên vượt qua một chiến binh với khuôn mặt nghiêm nghị, áo giáp phủ đầy bụi đất, lẳng lặng nhìn họ, xa lạ và lạnh lùng như những chiến binh tử thần u buồn thành Troie. Chân trời đang sẫm lại và cột khói dần đặc hơn. Những khuôn mặt dửng dưng ma quái của các chiến binh tử trận chứa đựng một lời cảnh báo. Corso muốn thoát đi. Gã cầm tay kéo cô đi, băn khoăn không muốn để cô ở lại, nhưng không khí trở nên đặc quánh, nóng giãy, tối tăm, ngột ngạt. Cuộc trốn chạy của họ kết thúc bằng một cú rơi vô tận, một cơn hấp hối chầm chậm trong đau đớn. Bóng đêm bùng cháy như lò lửa. Mối liên hệ duy nhất với bên ngoài là bàn tay gã đang cố nắm lấy tay cô. Điều cuối cùng gã cảm thấy là bàn tay cô lỏng dần khỏi tay gã, cuối cùng hóa thành tro. Và đằng trước gã, trong bóng đêm bao phủ bình nguyên bốc cháy và đầu óc gã, những đốm trắng, những dấu vết thoắt hiện thoắt biến như những tia chớp, làm nổi bật lên hình dáng ma quái của một cái sọ người. Không vui vẻ gì khi nhớ lại. Để xóa đi mùi vị của tro tàn trong miệng và những hình ảnh khủng khiếp này, Corso uống cạn cốc gin rồi nhìn cô gái. Cô cũng đang nhìn gã, như một đồng bọn có kỷ luật đang im lặng chờ chỉ thị. Đơn giản và lặng lẽ, cô chấp nhận vai trò kỳ quái của mình trong câu chuyện này. Khó mà giải thích được biểu hiện trung thành của cô.
Hai người đồng thời đứng dậy. Corso quàng cái túi vải qua vai, họ chậm rãi đi dọc bờ sông. Cô gái đi phía trong, thỉnh thoảng dừng bước trước một quầy hàng, khiến gã chú ý tới một tấm ảnh, một bức tranh khắc gỗ hay một cuốn sách. Cô nhìn mọi vật với cặp mắt mở to tràn ngập tò mò và luyến tiếc trong khi mỉm cười sâu lắng, như thể muốn tìm kiếm những dấu vết của chính mình trong những đồ vật xưa cũ nọ. Như thể, ở một góc nào đó trong ký ức, cô đã chia sẻ quá khứ chung với một vài người sống sót được thủy triều tấp vào bờ sau mỗi vụ đắm tàu tàn hại trong lịch sử.
Có hai cửa hàng bán sách đối diện ở hai bên đường phố. Cửa hàng Achille Replinger với bộ cửa gỗ cổ kính trang nhã đánh véc ni có tấm biển hiệu LIVRES ANCIENS, AUTOGRAPHES ET DOCUMENTS HISTORIQUES. Sách cổ, bản thảo viết tay và tư liệu lịch sử. Corso bảo cô gái chờ bên ngoài, cô cũng chẳng phản đối. Khi tới cửa, gã nhìn vào cửa sổ và thấy hình ảnh phản chiếu của cô sau lưng. Cô đứng bên kia đường, đợi gã.
Một tiếng chuông vang lên khi gã đẩy cửa ra. Có một cái bàn gỗ sồi, những giá sách cũ, những kệ đầy kẹp tài liệu, hàng tá tủ gỗ đựng giấy tờ. Các tủ này được đánh dấu theo vần chữ cái chạm tỉ mỉ trên những tấm lắc đồng thau. Một bản thảo viết tay đóng khung treo trên tường với dòng thuyết minh “Một đoạn trong Tartuffe. Molière.” Ngoài ra là ba ấn phẩm hoàn hảo: Victor Hugo, Flaubert, ở giữa là Dumas.
Achille Replinger đứng cạnh bàn, thân hình chắc nịch với nước da đỏ đắn. Một chàng Porthos với bộ ria xám rậm rì và cái cằm hai ngấn chèn cả lên cổ áo sơ mi mòn vẹt vì thắt cà vạt. Trang phục đắt tiền nhưng cẩu thả. Áo jacket căng ra chứa bộ ngực, cái quần flanen nhăn nhúm và xộc xệch.
“Corso… Lucas Corso,” hắn nói vẻ cau có, đưa bàn tay với những ngón to khỏe cầm bức thư giới thiệu của Boris Balkan. “Phải rồi, mấy hôm trước ông ta gọi cho tôi. Một việc gì đó về Dumas.”
Corso đặt túi lên bàn, lôi ra tập mười lăm trang bản thảo Rượu vang Anjou. Người bán sách trải chúng ra trước mặt, nhướn mày.
“Thú vị,” hắn khẽ nói. “Rất là thú vị.”
Hắn vừa nói vừa thở phì phò như người bệnh hen. Hắn móc từ trong túi áo jacket ra mấy cái ly, bày lên bàn sau khi thoáng liếc nhìn khách. Hắn cúi mình trên tập tài liệu. Rồi lại ngẩng lên với nụ cười mê mẩn.
“Thật đặc sắc,” hắn nói. “Tôi sẽ mua nó ngay bây giờ.”
“Nó không phải để bán.”
Replinger hơi ngạc nhiên. Hắn mím môi, vẻ gần như giận dỗi. “Tôi nghĩ…”
“Tôi chỉ cần ý kiến của một chuyên gia. Ông sẽ được trả tiền theo giờ, tất nhiên.”
Achille Replinger lắc đầu. Hắn không quan tâm đến tiền. Bối rối, hắn ngừng lại nghi hoặc nhìn Corso một lúc từ trên cái ly. Rồi lại cúi xuống tập bản thảo.
“Thật đáng tiếc,” cuối cùng hắn noi và nhìn Corso với vẻ tò mò, như thể không hiểu làm sao trên đời lại có thứ như vậy rơi vào tay gã. “Ông vớ được nó bằng cách nào?”
“Tôi được thừa kế từ một bà cô già. Trước kia đã bao giờ ông trông thấy nó chưa?”
Vẫn ngờ vực, Replinger nhìn qua vai Corso, qua cửa sổ ra ngoài phố, như thể có ai đó bên ngoài có thể mang lại cho hắn một ít thông tin về ông khách. Cũng có lẽ hắn đang nghĩ xem nên trả lời câu hỏi của gã như thế nào. Hắn giật giật bộ ria mép, như thể nó đang bị lệch và hắn đang xác định để chắc rằng nó vẫn ở đúng chỗ, rồi mỉm cười lảng tránh.
“Ở khu phố này ông chẳng bao giờ có thể chắc rằng mình đã nhìn thấy thứ gì trước đó… Lúc nào thì đây cũng là mảnh đất màu mỡ cho những ai làm ăn về sách và ấn phẩm. Mọi người tới mua và bán,mọi thứ qua tay cùng một người đến mấy lần.” Hắn dừng lại thở rồi nhìn Corso bực bội. “Tôi không nghĩ vậy… Không, trước đây tôi chưa bao giờ thấy bản thảo này,” hắn nói. Hắn lại nhìn ra đường, giọng kích động. “Nếu mà có nó thì tôi chắc…”
“Như vậy nó là đồ thật?” Corso hỏi.
“Hừm… kỳ thực, đúng vậy.” Replinger vừa ậm ừ vừa vuốt ve những tờ giấy màu xanh. Có vẻ như hắn đang kìm mình đừng sờ soạng chúng. Sau cùng hắn dùng ngón trỏ và ngón cái nhón lấy một tờ. “Nét chữ hơi tròn, cỡ trung bình, không có cước chú hay vết tẩy xóa… Hầu như không có dấu chấm câu, và viết hoa bất kể ở chỗ nào. Đây chính xác là Dumas ở thời kỳ đỉnh cao, khoảng giữa cuộc đời, khi ông viết Lính ngự lâm.” Hắn càng nói càng kích động. Rồi lại im và nhấc ngón tay ra. Corso nhìn thấy nụ cười của hắn ẩn dưới bộ ria mép. Dường như hắn đã quyết định. “Chờ chút đi.”
Hắn bước tới tủ tài liệu có đánh dấu chữ D, lôi ra mấy kẹp giấy bìa màu da bò.
“Tất cả đều của Alexandre Dumas bố. Kiểu chữ giống hệt nhau.”
Có khoảng một tá tài liệu, một vài tài liệu không có chữ ký hoặc chỉ có tên viết tắt chữ cái đầu A.D. Một số có chữ ký đầy đủ. Hầu hết đều là ghi chú ngắn gửi nhà xuất bản, thư cho bạn bè hoặc giấy mời.
“Đây là một trong những bản thảo viết tay gửi sang Mỹ của Dumas,” Replinger giải thích. “Lincoln hỏi xin một bản, Dumas liền gửi cho ông ta mười đô la và một trăm bản viết tay. Chúng được mang bán ở Pittsburgh với mục đích từ thiện.” Hắn chìa cho Corso xem toàn bộ số tư liệu với vẻ tự hào nghề nghiệp rõ rệt dù đã kiềm chế. “Nhìn này. Đây là một tấm thiệp mời tới ăn tối với Dumas ở Montecristo, tại nhà ông ở Port Marly. Đôi khi ông chỉ ký với chữ cái đầu, đôi khi lại dùng biệt hiệu. Nhưng không phải tất cả chữ ký trôi nổi trên thị trường đều là thứ thiệt. Ở tòa soạn báo Lính ngự lâm thuộc sở hữu của Dumas, có một người tên là Viello có thể bắt chước cách viết và chữ ký của ông. Và trong ba năm cuối đời tay Dumas bị run đến nỗi ông phải đọc tác phẩm của mình cho người khác chép lại.”
“Tờ màu xanh có ý nghĩa gì?”
“Loại giấy từ Lille gửi tới. Do một người thợ in rất ngưỡng mộ ông làm ra. Ông thường dùng màu này, nhất là với tiểu thuyết. Thỉnh thoảng ông dùng màu hồng nhạt khi viết báo, hoặc màu vàng cho thơ. Ông cũng dùng vài thứ bút khác nhau, tùy theo lúc đó đang viết thứ gì. Và không bao giờ dùng mực màu xanh lam.”
Corso trỏ bốn trang giấy màu trắng có những ghi chú và sửa chữa. “Những chỗ này thì sao?”
Replinger nhăn mặt. “Maquet. Người cộng tác với ông, Auguste Maquet. Đấy là Dumas sửa lại bản gốc.” Hắn vuốt ve bộ ria mép. Rồi cúi xuống đọc to với giọng sân khấu, “ ‘Kinh khủng! Kinh khủng!’ Athos lẩm bẩm trong khi Porthos đập tan những cái chai và Aramis ra lệnh hơi có chút muộn màng rằng hãy mời giáo sĩ tới nghe lời xưng tội…” Replinger thở dài rồi ngừng lại. Hắn gật đầu, thỏa mãn, rồi cho Corso xem một trang. “nhìn này, Maquet chỉ viết: Và gã thở hắt ra trước mặt mấy người bạn d’Artagnan trong cơn kinh hoảng. Dumas xóa hết dòng này và thêm vào những đoạn kia ở bên trên, thêm lời thoại cho đoạn văn dày dặn phong phú hơn.”
“Ông biết gì về Maquet?”
Replinger nhún đôi vai lực lưỡng, do dự.
“Cũng chẳng bao nhiêu,” Lại một lần nữa hắn có vẻ lảng tránh. “Kém Dumas mười tuổi. Một người bạn chung, Gérard de Nerval, đã giới thiệu ông ta. Maquet viết vài tiểu thuyết lịch sử không thành công. Ông ta cho Dumas xem bản gốc một cuốn như thế, Buvat người tốt bụng, hay Mưu đồ của Cellamare. Dumas biến câu chuyện này thành Kỵ sĩ d’Harmental rồi cho xuất bản dưới tên mình. Đổi lại Maquet được trả một ngàn hai trăm quan.”
“Ông có thể nói về chữ viết và văn phong trong Rượu vang Anjou không?”
“Đương nhiên là có thể. Nó tương tự như các văn bản khác năm 1844, năm của Ba người lính ngự lâm… Những tờ màu trắng và xanh này đúng là kiểu của ông. Dumas và người cộng tác cùng nhau sắp đặt câu chuyện. Từ d’Artagnan của Courtilz họ rút ra tên tuổi cho các người hùng, hành trình tới Paris, vụ tằng tịu với Milady, tính cách của bà vợ tay chủ quán – Dumas gán cho bà Bonacieux những nét cá tính của người tình Belle Krebsamer của ông. Vụ bắt cóc Constance là từ Hồi ký của De la Porte, một sủng thần của Nữ hoàng Anna nước Áo. Và họ có được câu chuyện nổi tiếng về vụ mấy viên kim cương là từ La Rochefoucauld và cuốn sách Những âm mưu chính trị và những cuộc tình lãng mạn trong triều đình nước Pháp của Roederer. Hồi đó, bên cạnh Ba người lính ngự lâm, đồng thời họ cũng viết Hoàng hậu Margot và Hồng lâu kỵ sĩ.”
Replinger lại ngừng lại lấy hơi. Mỗi lúc hắn một xúc động và phấn khích hơn. Hắn vội vàng nhắc tới mấy tên sách, hơi lắp bắp khi gặp mấy từ. Hắn sợ làm cho Corso chán, đồng thời cũng muốn truyền đạt toàn bộ những thông tin hắn có cho gã.
“Có một câu chuyện thú vị về Hồng lầu kỵ sĩ,” Replinger tiếp tục sau khi đã hít lấy hơi. “Khi công bố bộ truyện nhiều kỳ với cái tên ban đầu Hiệp sĩ Rougeville, Dumas nhận được thư phàn nàn của một vị Hầu Tước trùng tên. Chuyện này khiến ông thay đổi nhan đề, nhưng ngay sau đó lại nhận được một bức thư nữa. ‘Quý ông thân mến,’ Hầu tước viết. ‘Hãy đặt bất cứ cái tên gì ông muốn cho cuốn tiểu thuyết. Tôi là người cuối cùng của gia tộc và một giờ nữa sẽ bắn vỡ tung óc mình đây.’ Và ngài Hầu tước Rougeville quả thực đã tự sát, vì chuyện liên quan đến mấy người đàn bà.”
Hắn há miệng lấy hơi: Gò má cao hồng hào, hắn cười vẻ biết lỗi và chống một bàn tay to khỏe lên bàn bên cạnh xấp giấy màu xanh. Trông không khác gì một gã khổng lồ kiệt sức, Corso nghĩ thầm.. Porthos trong hang động ở Locmaria.
“Boris Balkan không đánh giá hết tài năng của ông. Ông là một bậc thầy về Dumas. Tôi không ngạc nhiên khi các ông là bạn bè.”
“Chúng tôi kính trọng lẫn nhau. Nhưng tôi chỉ làm công việc của mình,” Replinger cụp mắt xuống, bối rối. “Tôi là một người Pháp tận tâm làm việc với những cuốn sách và tự liệu được chú giải cùng với lời đề tặng viết tay. Thường thường là của các tác giả Pháp thế kỷ mười chín. Tôi không thể đánh giá những thứ đến với tôi nếu không xác định được là ai viết và viết như thế nào. Ông hiểu chứ?”
“Hoàn toàn hiểu,” Corso đáp. “Đó là sự khác biệt giữa người bán hàng chuyên nghiệp và kẻ tầm thường.”
Replinger nhìn gã vẻ biết ơn. “Ông cũng rất chuyên nghiệp. Rõ ràng thế.”
“Phải,” Corso nhăn mặt. “Chuyện nghiệp kiểu cũ nhất.”
Tiếng cười rộ của Replinger kết thúc bằng một cơn hen khò khè khác. Corso tranh thủ lúc này để một lần nữa lái câu chuyện sang Maquet.
“Cho tôi biết họ làm thế nào đi.”
“Kỹ thuật của họ khá phức tạp.” Replinger làm mấy cử chỉ trên ghế và trên bàn, như thể mọi sự diễn ra ở đó: “Dumas lập đề cương cho mỗi cuốn tiểu thuyết và thảo luận với người cộng sư, ông này nghiên cứu đưa ra bản nháp đầu tiên hay là phác thảo câu chuyện. Đấy là những tờ màu trắng. Rồi Dumas viết lại trên những tờ xanh. Ông mặc áo sơ mi trần làm việc, chỉ vào buổi sáng hay ban đêm, rất hiếm khi vào buổi chiều. Ông không uống cà phê hay rượu mạnh khi đang viết mà chỉ uống nước khoáng. Cũng rất ít hút thuốc. Ông viết hết trang nọ tới trang kia dưới áp lực của nhà xuất bản lúc nào cũng muốn nhiều hơn. Maquet gửi cho ông tư liệu theo từng gói qua bưu điện và Dumas thường phàn nàn vì sự chậm trễ.” Replinger cầm một tờ trong tập tư liệu đặt lên bàn trước mặt Corso.
“Đây là bằng chứng, nó nằm trong những ghi chép họ trao đổi khi viết Hoàng hậu Margot. Ông có thể thấy Dumas phàn nàn. “Moị việc tiến triển tuyệt vời, mặc dù có sáu hay bảy trang về chính trị ta phải duy trì để thêm hấp dẫn… Nếu chúng ta không nhanh hơn, bạn thân mến ạ, thì đó là lỗi ở anh. Tôi đã làm việc cật lực từ lúc chín giờ hôm qua đến giờ.” Hắn ngừng lại lấy hơi và trỏ Rượu vang Anjou.” Đây là bốn trang viết tay của Maquet với ghi chú của Dumas mà có thể ông đã nhận được ngay trước khi Le Siècle đem đi in. Vì vậy ông buộc phải cho in với mấy trang viết lại và vội vã tự sửa chữa mấy trang khác trong bản gốc.”
Hắn trả lại mấy trang đó vào các kẹp giấy rồi cất vào tủ tài liệu có chữ D. Corso kịp nhìn thấy đoạn văn mà Dumas đòi người cộng sự gửi thêm mấy trang. Ngoài kiểu chữ tương tự, trang giấy màu xanh kẻ ô vuông nhạt giống hệt với bản thảo Rượu vang Anjou.. Khổ folio cắt làm đôi, phần dưới nham nhở hơn những chỗ khác. Có lẽ tất cả các trang đều là một phần của ram giấy nằm trên bàn viết của nhà văn.
“Thực sự thì ai là người viết Ba người lính ngự lâm?”
Replinger đang mải đóng tủ tài liệu, một lúc sau mới trả lời.
“Tôi không thể cho anh câu trả lời chính xác. Maquet là người tháo vát, rất rành về lịch sử, ông ta đã đọc rất nhiều… nhưng không có tài năng của một bậc thầy.”
“Sau cùng họ mâu thuẫn với nhau, đúng không?”
“Phải. Thật đáng tiếc. Ông có biết rằng họ cùng đi Tây Ban Nha với nhau trong thời gian diễn ra đám cưới của Isabelle II không? Thậm chí Dumas còn xuất bản một loạt bài viết tựa là Từ Madrid tới Cadiz dưới dạng những bức thư. Về phần Maquet, sau đó ông ta kiện ra tòa đòi được công nhận là tác giả mười tám cuốn tiểu thuyết của Dumas, nhưng tòa phán rằng ông ta chỉ là người làm khâu chuẩn bị. Hiện nay ông ta bị coi là một nhà văn hạng nhì lợi dụng danh tiếng của Dumas để làm tiền. Mặc dù một số người cho rằng ông ta bị bóc lột – một người viết thuê cho danh nhân.”
“Ông nghĩ thế nào?”
Replinger len lén liếc nhìn chân dung Dumas phía trên cánh cửa.
“Tôi đã nói rằng tôi không phải chuyên gia như ông bạn Balkan của tôi mà chỉ là một nhà buôn, một người bán sách.” Hắn có vẻ nghĩ ngợi, cân nhắc xem đâu là chỗ để ý kiến chuyên môn của mình kết thúc và sở thích cá nhân bắt đầu. “Nhưng tôi muốn ông lưu ý một điều. Trong khoảng thời gian từ năm 1870 tới 1894, ba triệu cuốn sách và tám triệu tập sách ra theo kỳ đã bán ra ở Pháp với tên Alexandre Dumas trên trang bìa. Các cuốn tiểu thuyết được viết ra trước, trong và sau khi ông cộng tác với Maquet. Tôi nghĩ điều ấy có ý nghĩa gì đó.”
“Nổi tiếng khi còn sống, ít nhất là thế,” Corso nói.
“Chính xác. Ông là người phát ngôn của châu Âu trong suốt nửa thế kỷ. Thuyền bè từ khắp châu Mỹ được phái đi chỉ để chở tiểu thuyết của ông về. Người ta đọc chúng ở Cairo, Mạc Tư Khoa, Istanbul và Chandernagor nhiều không kém gì ở Pháp… Dumas sống hết mình, hưởng thụ hết thảy khoái lạc và danh tiếng dành cho ông. Ông đã sống và sống vui vẻ, mặc kệ mọi trở ngại, từng quyết đấu, từng ra tòa, từng cho thuê tàu, dùng tiền túi trợ cấp cho mọi người, đã yêu đương, tiệc tùng lu bù, kiếm chục triệu và hoang phí hai chục triệu, và rồi chết êm đềm trong giấc ngủ, như một đứa trẻ.” Replinger trỏ những đoạn văn của Maquet mà Dumas đã sửa chữa. “Có thể gọi đó bằng nhiều cách: tài năng, thiên phú… Nhưng dù là gì đi nữa ông cũng không tùy tiện bịa ra hay đạo văn người khác.” Hắn đấm ngực giống như Porthos. “Đó là cái ông có ở đây. Không phải bất cứ nhà văn nào khác cũng có được vinh quang khi còn sống như ông, Dumas làm nên tất cả từ tay trắng. Cứ như là ông đã ký kết khế ước với Chúa.”
“Đúng thế,” Corso nói. “Hoặc với ma quỷ.”
CORSO BĂNG QUA PHỐ sang hiệu sách bên kia đường. Dưới một mái che vải bạt ở bên ngoài, những chồng sách xếp đống trên mấy cái bàn chân mễ. Cô gái vẫn ở đó, đang mải mê trong đống sách, tranh hay bưu thiếp cổ. Cô đứng ngược chiều sáng. Ánh nắng rọi trên vai cô, biến mái tóc hai bên thái dương và sau gáy cô thành những sợi vàng óng ánh. Khi Corso tới nơi, cô vẫn tiếp tục việc mình đang làm mà không dừng lại.
“Ông chọn bức nào?” cô hỏi. Cô đang lưỡng lự giữa tấm bưu thiếp màu nâu đỏ vẽ cảnh Tristan và Isolde ôm nhau và bức Người săn ảnh của Daumier. Chưa biết quyết định thế nào, cô đặt chúng phía trước, lui ra xa.
“Lấy cả,” Corso khuyên. Qua khóe mắt, gã chợt nhận thấy cái nhìn của một người đàn ông dừng lại bên quầy hàng và sắp sửa đưa tay với lấy một bó thiếp dày buộc chặt bằng dây cao su. Với phản xạ của thợ săn, Corso chụp lấy cái gói. Người nọ càu nhàu bỏ đi. Corso xem lướt qua những tấm thiếp rồi chọn mua một vài tấm có chủ để Napoléon: Nữ hoàng Marie Louise, gia đình Bonaparte, cái chết của Hoàng đế và chiến thắng cuối cùng của ông – một kỵ sĩ Ba Lan cầm thương và hai khinh kỵ binh cưỡi ngựa phía trước giáo đường Reims, trong chiến dịch nước Pháp năm 1814, đang phất những lá cờ giành được của quân địch. Sau một chút do dự, gã lấy thêm tấm thiếp có thống chế Ney mặc quân phục và một tấm chụp Wellington lúc về già để lại cho hậu thế. Lão quỷ may mắn.
Đôi bàn tay dài rám nắng của cô gái khéo léo lướt trên đám bưu thiếp và những tờ giấy in ngả vàng. Cô chọn thêm mấy tấm: Robespierre, Saint-Just và một chân dung trang nhã của Richelieu trong trang phục Hồng y giáo chủ đeo huân chương Danh dự Linh thiêng.
“Thật phù hợp làm sao,” Corso chua chát nhận xét.
Cô không trả lời. Cô bước về phía một chồng sách, ánh nắng trượt qua vai cô trùm lên Corso như một đám bụi vàng. Gã nhắm mắt lại vì lóa. Khi mở mắt gã thấy cô chìa ra một tập sách dày khổ quarto.
“Ông nghĩ sao?”
Gã liếc nhìn: Ba người lính ngự lâm, với minh họa gốc của Leloir, bìa bằng vải và da, còn tốt nguyên. Gã ngước lên thấy cô nhếch mép cười chờ đợi, mắt nhìn gã chăm chú.
“Một cuốn thật ngon lành,” gã chỉ nói được có thế. “Cô có định đọc không?”
“Đương nhiên. Đừng kể cho em nghe đoạn kết.”
Corso cười gượng gạo.
“Cứ làm như tôi có thể kể đoạn kết cho cô ấy,” gã nói khi vẫn tìm tòi trong đống bưu thiếp.
“EM CÓ QUÀ CHO ÔNG,” cô gái nói.
Họ đi dọc theo bờ trái dòng sông, vượt qua những quầy hàng cũ với những ấn phẩm bọc túi ni lông hay giấy bóng kính, những cuốn sách cũ xếp dọc theo bức tường chắn. Một chiếc tàu du lịch chậm rãi đi ngược dòng sông, oằn mình dưới sức nặng của chừng năm ngàn người Nhật và ngần ấy máy ghi hình Sony. Bên kia đường phố, đằng sau những cửa hàng siêu cấp dán đầy logo của Visa và American Express, những người bán đồ cổ nhìn ngang nhìn ngửa mong chờ một gã Côoét, một tay buôn đồ chợ trời hay một viên bộ trưởng người Phi có thể mua con ngựa nhỏ bằng sứ Sèvre của Engénie Grandet. Tất nhiên ngôn ngữ bán hàng của họ được hót với giọng chuẩn nhất.
“Tôi không thích quà,” Corso lẩm bẩm nghe đến là ảo não. “Đôi khi có những thằng cha thích một con ngựa gỗ. Hàng thủ công của người Achaean[1], có dán nhãn xác nhận. Đúng là điên.”
“Không có kẻ ngoại đạo nào hay sao?”
“Có một, cùng với con trai hắn. Nhưng quân man rợ từ ngoài biển tràn tới và tạo ra nền điêu khắc dễ thương của họ. Văn hóa cổ Hy Lạp, nếu tôi nhớ không nhầm. Trường phái Rhodes. Vào thời ấy, họ được Thượng đế ban phước.”
“Lúc nào họ cũng được ban phước.” Cô gái chăm chú nhìn bờ sông lầy lội như thể nó mang đi mất ký ức của mình. Corso thấy cô cười tư lự, xa vắng. “Em chưa bao giờ thấy một Thượng đế, hay một con quỷ nào không thiên vị.” Cô chợt quay lại nhìn gã – những suy tư trước đó của cô dường như trôi đi sạch sẽ theo dòng nước. “Ông tin vào ma quỷ không, ông Corso?”
Gã nhìn cô chăm chú, nhưng dòng sông đã xóa sạch những hình ảnh trước đó đọng đầy trong mắt cô. Gã chỉ thấy một vùng trong veo xanh lục, và đầy ánh sáng.
“Tôi tin vào sự khờ dại và ngu ngốc.” Gã cười mệt mỏi. “Và tôi tin rằng cách đoạn tuyệt tốt nhất với chúng là một thứ cô có được ở đây. Thấy không?” Gã trỏ vào háng mình. “Trong động mạch đùi. Khi cô ở trong vòng tay ai đấy.”
“Ông sợ cái gì nào, ông Corso? Sợ em ôm ông? Sợ trời sập xuống đầu?”
“Tôi sợ những con ngựa gỗ, rượu gin rẻ tiền và những cô gái đẹp. Đặc biệt là khi họ tặng tôi quà. Và khi họ mang tên người đàn bà từng đánh bại Sherlock Holmes.”
Họ tiếp tục đi và lúc này đang bước lên những tấm ván gỗ trên cầu Pont des Arts. Cô gái dừng lại, cúi mình trên thanh chắn kim loại, bên cạnh một họa sĩ đường phố bán những bức tranh màu nước bé xíu.
“Em thích cây cầu này,” cô nói. “Không có xe cộ, chỉ có những người yêu nhau và những quý bà đội mũ. Mọi người không làm gì hết. Cây cầu này tuyệt đối không có gì chung chạ.”
Corso không nói gì. Gã nhìn những chiếc sà lan, buồm rủ, chạy qua những cậy cột đỡ cấu kiện bằng sắt. Có lần tiếng bước chân Nikon đã cùng bước chân gã vang vọng dọc theo chiếc cầu này. Gã nhớ nàng cũng dừng lại một quầy để mua những bức tranh màu nước bên bờ tường chắn. Có thể vẫn là quầy này. Nàng nhăn mũi, vì máy đo sáng của nàng không kham nổi ánh nắng chói chang xiên qua những ngọn tháp Nhà thờ Đức Bà. Họ mua gan ngỗng béo và một chai Bourgogne. Rồi hai người ăn tối với món đó trong buồng khách sạn, ngồi trên giường vừa ăn vừa coi một cuộc tranh luận dài dòng trong một trường quay truyền hình đầy khán giả mà người Pháp rất thích. Trước đấy Nikon đã chụp cho gã một bức ảnh trên cầu mà gã không biết. Nàng thú nhận điều này, miệng đầy bánh mì và gan béo, đôi môi ướt đẫm rượu vang, rồi nàng vuốt ve gã với bàn chân trần. Em biết anh không thích, Lucas Corso, nhưng anh sẽ phải chịu đựng. Em chụp hình nghiêng khi anh nhìn những chiếc sà lan lách qua bên dưới cầu, lần này anh trông khá bảnh trai, đồ tồi ạ. Nikon là người Do Thái Ashkenazi với đôi mắt to. Cha nàng mang số 77843 ở trại Treblinka[2], chỉ được cứu thoát ở phút cuối cùng. Mỗi khi trên ti vi xuất hiện binh sĩ Israel ngồi trên những chiếc xe tăng to tướng xâm chiếm một vùng nào đó là nàng nhảy khỏi giường, trần trụi, rồi hôn lên màn hình, mắt đẫm lệ, thì thầm âu yếm: “Shalom, shalom.” Với giọng nói nàng chỉ dùng khi gọi Corso bằng tên riêng trước lúc thôi nhau. Nikon. Gã không bao giờ được xem bức ảnh chính mình cúi người trên cầu nhìn những chiếc sà lan lướt đi dưới vòm cầu Pont des Arts. Trông nghiêng, trông khá bảnh trai, đồ tồi ạ.
Khi gã ngước lên, Nikon đã biến mất. Một người phụ nữ khác bên cạnh. Cao, da nâu, tóc ngắn kiểu con trai, và hai mắt như những quả nho vừa rửa, gần như không màu. Gã bối rối nhấp nháy mắt trong một giây, cho đến khi mọi thứ trở lại bình thường. Hiện thực làm một nhát cắt thật gọn ghẽ, như bằng một con dao mổ. Corso, trông nghiêng, đen trắng (Nikon bao giờ cũng chụp đen trắng), chập chờn rơi xuống sông rồi bị dòng nước cuốn đi theo lá khô và rác rưởi từ những chiếc sà lan và miệng cống tống ra. Bây giờ người con gái không phải là Nikon tay cầm cuốn sách nhỏ bìa da. Cô chìa nó cho gã.
“Hy vọng ông thích.”
Con quỷ đang yêu của Jacques Cazotte, xuất bản năm 1878. Khi mở nó ra, Corso nhận ra bản in từ lần xuất bản đầu tiên trong bản phụ lục facsimile: Alvaro trong vòng tròn ma thuật phía trước con quỷ, nó hỏi: ”Che vuoi – Muốn gì?”; Biondetta đang dùng ngón tay gỡ tóc rối; cậu bé xinh đẹp ngồi trước câu đàn cơ-la-vơ-xanh… Gã chọn ngẫu nhiên một trang:
… Đàn ông sinh ra từ một vốc đất và nước. Tại sao không làm nên đàn bà từ sương khói trần gian và những tia sáng, từ tinh chất cô đặc của cầu vồng? Cái khả dĩ nằm đâu? Và cái không khả dĩ nằm đâu?
Gã gấp cuốn sách lại và ngước lên. Gã bắt gặp nụ cười trong ánh mắt cô. Trên mặt nước phía dưới, ánh nắng lấp lánh trên vạt nước rẽ ra sau một con tàu, và những tia sáng lấp lánh trên làn da cô như được phản xạ từ các cạnh của một viên kim cương.
“Tinh chất cô đặc từ cầu vồng,” Corso lặp lại. “Cô biết gì về nó không?”
Cô đưa tay vuốt tóc và quay mặt về phía mặt trời, mắt nhắm lại dưới ánh nắng chói. Mọi thứ quanh cô đều sáng rực: ánh sáng phản xạ từ dòng sông, sự rạng rỡ của buổi sáng, hai khe sáng màu xanh lục giữa rèm mi tối sẫm.
“Em nghe kể từ ngày xưa. Cầu vồng nối trái đất với thiên đường. Sẽ bị hủy vào ngày tận thế, khi ác quỷ cưỡi ngựa phi qua đó.”
“Không tệ. Bà cô kể cho cô nghe ư?”
Cô lắc đầu. Rồi lại nhìn Corso, vừa bâng khuâng vừa nghiêm túc.
“Em nghe người ta kể cho một người bạn, Bileto.” Khi nhắc đến cái tên này, cô dừng lại một chút, khẽ nhăn mặt, giống như một cô bé đang tiết lộ một bí mật. “Anh ta thích ngựa và rượu vang, và là người lạc quan nhất em biết. Anh ta vẫn hy vọng trở lại thiên đường.”
HỌ ĐI QUA BÊN KIA CẦU. Corso ngỡ ngàng cảm thấy dường như những con quái thú trên đầu máng xối ở Nhà thờ Đức Bà đang nhìn gã từ xa. Chúng là đồ giả, đương nhiên, giống như bao nhiêu thứ khác. Chúng và những bộ mặt nhăn nhó, những chiếc sừng quỷ dị, những chòm râu dê, chúng không có ở đó khi những người thợ cả trung hậu ngẩng lên, đầm đìa mồ hôi và hãnh diện dốc cạn ly rượu mạnh. Hoặc khi Quasimodo ấp ủ mối tình không được đền đáp với cô gái lang thang Esmeralda. Nhưng kể từ khi Charles Laughton tạo nên vai người gù quái dị giống như chúng, và Gina Lollobrigida trong bộ phim làm lại sau này – phim màu Technicolor, như Nikon chỉ rõ – được thực hiện dưới cái bóng của chúng, thì không thể tưởng tượng Nhà thờ Đức Bà mà lại không có những tên lính canh hung ác tân Trung cổ nọ. Corso hình dung quang cảnh nhìn từ trên cao: cầu Pont Neuf, và bên kia, hẹp và tối trong buổi mai sáng sủa, cầu Pont des Arts trên dải sông xanh xám, với hai hình bóng nhỏ nhoi dịch chuyển hết sức chậm chạp sang bờ bên phải. Những cây cầu và cầu vồng với những chiếc sà lan Caronte màu đen từ từ lướt đi bên dưới những vòm cuốn và cột chống bằng đá. Thế gian đầy những bờ kè và những dòng sông chảy giữa đôi kè, đầy những đàn ông đàn bà băng qua cầu và bãi cạn, không để ý tới hậu quả, không nhìn về phía sau hay xuống chân, và không có xu nào cho người lái tàu.
Họ trồi lên ở chỗ đối diện với Louvre và đứng lại trước đèn giao thông trước khi qua đường. Corso sửa lại cái quai đeo túi trên vai và lơ đãng liếc nhìn hai bên. Rất nhiều xe qua lại và Corso chợt để ý một chiếc. Gã lạnh người, trong một thoáng gã hóa đá như cái đầu quái thú trên nóc nhà thờ.
“Chuyện gì vậy?” cô gái hỏi khi đèn xanh bật sáng nhưng Corso vẫn bất động. “Trông như ông vừa nhìn thấy ma ấy!”
Gã thấy ma thật. Không phải một mà là hai. Chúng ở hàng ghế sau một chiếc taxi đã biến đi tít đằng xa, đang say sưa nói chuyện và không nhận ra Corso. Người đàn bà tóc vàng rất quyến rũ. Gã nhận ra ngay lập tức dù ả đội mũ và đeo mạng. Liana Taillefer. Bên cạnh, choàng vai ả, phô ra bộ mặt điển trai nhất, bàn tay vuốt bộ ria xoắn với vẻ đắc thắng, là Flavio La Ponte.
-----------------------
[1] Một tên gọi chung của người Hy Lạp trong trường ca Ilyad và Odysseycủa Homer, ở đây nhắc đến truyền thuyết ngựa gỗ thành Troie
[2] Trại tập trung và cũng là một lò sát sinh của phát xít Đức ở Ba Lan trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai