It often requires more courage to read some books than it does to fight a battle.

Sutton Elbert Griggs

 
 
 
 
 
Tác giả: Louisa M. Alcott
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 360 / 17
Cập nhật: 2019-05-14 10:23:21 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 11 - Lễ Tạ Ơn Của Emil
hiếc thuyền Brenda chạy hết tốc độ, mọi buồm đều vươn ra. Hành khách trên tàu vui mừng với ý nghĩ cuộc hành trình dài sắp kết thúc.
– Còn bốn tuần nữa, thưa bà Hardy, và rồi chúng tôi sẽ mời bà một tách trà bà chưa từng được uống! - Phó thuyền trưởng thứ hai Hoffmann nói khi đi qua hai phụ nữ đang ngồi ở một góc kín đáo trên boong tàu.
– Tôi rất vui, nhưng sẽ còn vui hơn khi tôi được đặt chân lên đất liền. - Người phụ nữ lớn tuổi hơn đáp, mỉm cười với Emil.
Cậu này chăm lo cho vợ và con gái của viên thuyền trưởng, những hành khách duy nhất trên chiếc thuyền, và cả hai đánh giá cao sự quan tâm của cậu.
– Con cũng vậy, cả khi con phải đi một đôi giày Trung Quốc. Con đã đi tới đi lui quá nhiều trên boong tàu nên sẽ phải đi chân đất mất nếu như chúng ta không sớm đến nơi. - Cô Mary nói và chỉ đôi giày bé nhỏ không còn nguyên vẹn nữa.
Cô liếc nhìn anh chàng thường ở cạnh cô, biết ơn khi nhớ lại tâm trạng vui thích mà cô có được nhờ anh ta.
– Tôi không nghĩ là sẽ có những đôi giày đủ nhỏ ở Trung Quốc. - Emil đáp một cách nhã nhặn, quyết tâm sẽ đi tìm mua một đôi giày thật xinh ngay khi lên đất liền.
– Mẹ tự hỏi không biết con có vận động đủ không, con yêu, nếu như ông Hoffmann không buộc con phải đi bộ mỗi ngày. Cuộc sống này không tốt cho các cô gái. Nó thích hợp với một người lớn tuổi như mẹ hơn, nhưng chỉ những lúc trời đẹp thôi. - Bà Hardy nói thêm.
Bà lo lắng nhìn về phía mặt trời lặn.
– Chỉ có gió nhẹ, thưa bà, đủ để đưa chúng ta về đến nơi an toàn. - Emil đáp và cậu nhìn ra khơi vẻ hiểu biết.
– Thưa ông Hoffmann, hãy hát cho chúng tôi nghe một cái gì đi. - Mary nói giọng thuyết phục có thể khiến cho một con cá mập cũng phải cất tiếng hát. - Vào giờ này, thật là dễ chịu. Chúng tôi sẽ rất nhớ các bài hát của ông bao giờ chúng tôi lên đất liền.
Emil, trong mấy tháng vừa qua, đã nhiều lần cảm thấy hạnh phúc vì có được biệt tài đó để làm người khác vui qua những ngày dài, biến buổi chiều tà thành một thời điểm đặc biệt. Thế rồi, tựa vào lan can, cạnh cô gái và nhìn các lọn tóc nâu bay trong gió, cậu hát một giai điệu yêu thích.
Giọng hát hay và mạnh mẽ vừa ngưng, bà Hardy bỗng thốt lên:
– Chuyện gì thế kia?
Cặp mắt nhanh nhẹn của Emil nhìn thấy ngay một đám khói bốc lên từ cửa boong tàu. Tim cậu như ngừng một lúc, trong khi từ “cháy” hiện ra trong óc cậu. Nhưng cậu giữ bình tĩnh, vừa xin phép rút lui vừa nói:
– Lửa bị cấm ở chỗ đó, tôi sẽ lo chuyện này.
Nét mặt cậu thay đổi khi đã ở xa tầm nhìn hai phụ nữ. Cậu chạy thật nhanh xuống boong và sau vài phút xuất hiện trở lại, gần như ngợp thở. Cậu đi tìm thuyền trưởng.
– Cháy trong hầm tàu, thưa thuyền trưởng.
– Đừng làm cho các bà sợ. - Thuyền trưởng Hardy nói.
Rồi cả hai nhanh nhẹn xem xét mức độ tàn phá thật sự. Hàng hóa trên tàu là thứ dễ cháy. Mặc dù đã đổ cả thác nước vào hầm, nhưng người ta nhanh chóng nhận thấy không thể cứu chiếc tàu được nữa. Khói bay ra từ khắp nơi và gió đang lên đã làm cho ngọn lửa bén nhanh, báo cho mọi người biết sự thật khủng khiếp.
Bà Hardy và Mary can đảm đón nhận tin xấu khi người ta yêu cầu cả hai sẵn sàng rời khỏi con tàu khi có lệnh. Họ chuẩn bị nhanh những chiếc sà lúp, trong khi cánh đàn ông cố gắng bịt các lỗ hổng để ngăn lửa có thể lan ra.
Loáng cái, chiếc Brenda trở thành một lò lửa trên mặt nước. Thuyền trưởng ra lệnh xuống sà lúp. Phụ nữ trước tiên, dĩ nhiên. Rất may, tàu
Brenda là một chiếc thuyền thương mại không chở hành khách. Không có sự hoảng loạn nào, và sà lúp được lần lượt thả xuống biển.
Thuyền trưởng ở lại thuyền cho đến phút cuối, Emil bên cạnh ông. Khi được lệnh ra đi, cậu miễn cưỡng vâng lệnh. Nhưng khi cậu vừa đến được chiếc sà lúp, thì một cột buồm bị cháy đổ xuống người thuyền trưởng Hardy, xô ông rơi xuống biển. Sà lúp đến ngay chỗ ông. Emil lặn xuống để vớt ông lên trong tình trạng bất tỉnh.
Nắm lấy quyền điều khiển, cậu ra lệnh lập tức lánh xa thật nhanh, vì chiếc tàu có thể nổ tung bất cứ lúc nào.
Khi đã ra xa, mấy chiếc sà lúp còn nấn ná một lúc để nhìn cảnh tượng hùng vĩ và khủng khiếp mà chiếc thuyền đang bốc cháy ngùn ngụt bày ra trước mắt. Một mình nó, giữa biển khơi, đốt cháy màn đêm và tỏa sáng trên sóng biển đang lắc lư mấy chiếc xuồng mỏng manh. Mấy người đàn ông nét mặt căng thẳng chào vĩnh biệt chiếc thuyền Brenda đang chìm dần.
Khi trời rạng sáng, sà lúp của Emil chỉ còn trơ lại một mình. Những người sống sót ngay lập tức hiểu ra tình cảnh khốn khổ của họ. Họ đã cho nước và thức ăn lên sà lúp, nhưng hiển nhiên là với một người bị thương nặng, hai phụ nữ và bảy thủy thủ, thì những đồ dự trữ ấy không thể kéo dài lâu. Hi vọng duy nhất là gặp được một chiếc tàu.
Gió thổi điên cuồng suốt đêm đã đẩy họ chệch khỏi hướng đi. Tất cả bám vào hi vọng cuối cùng, giết những tiếng đồng hồ dài chờ đợi bằng cách chăm chú nhìn chân trời và tự an ủi với ý nghĩ sớm muộn cũng sẽ được cứu. Phó thuyền trưởng Hoffmann tỏ ra can đảm và hiệu quả, nhưng trách nhiệm bất ngờ đè nặng lên đôi vai cậu.
Tình trạng của thuyền trưởng có vẻ vô vọng, sự đau khổ của vợ ông khiến lòng cậu đau nhói và niềm tin mù quáng mà cô gái đặt vào cậu không cho phép cậu để lộ ra một dấu hiệu lo lắng, dù là nhỏ nhất. Mấy người đàn ông xử sự đúng mực, nhưng Emil biết rõ cơn đói và nỗi tuyệt vọng sẽ biến họ thành những kẻ thô bạo và trách nhiệm của cậu có nguy cơ trở nên vô cùng khủng khiếp. Vì vậy cậu thu hết can đảm, bình thản nói một cách thật thuyết phục về những cơ may mà họ có để thoát khỏi tình cảnh này khiến cho tất cả đều đặt tin tưởng vào cậu.
Ngày đầu tiên và đêm đầu tiên trôi qua tương đối yên ổn, nhưng đến ngày hôm sau, hy vọng đã bắt đầu nhạt đi. Người bị thương mê sảng. Vợ ông vô cùng lo lắng. Còn cô gái lả đi vì thiếu ăn. Thật vậy, cô đã giữ phân nửa phần bánh quy của cô cho mẹ, và đã dùng phần nước của cô để thấm ướt đôi môi khô nóng của bố. Các thủy thủ thôi không chèo nữa và bắt đầu trách móc Emil. Cậu đã làm hết sức mình, nhưng không ai đến giúp cậu. Cậu ngoảnh gương mặt thất thần đi, không dám nhìn bầu trời vô cảm không hề gửi đến cơn mưa nào để làm dịu đi cơn khát của họ. Cậu chăm chú nhìn mặt biển, trên đó không một bóng dáng cánh buồm nào. Suốt cả ngày, cậu tìm cách an ủi mọi người, trong khi cơn đói dày vò, cơn khát thiêu đốt và nỗi lo sợ càng lúc càng tăng đè nặng lên lòng cậu. Cậu kể chuyện cho mấy người đàn ông nghe, van xin họ nhân danh các phụ nữ, chịu đựng thử thách và hứa sẽ thưởng nếu họ chịu chèo khi còn một chút sức lực để có thể trở lại con đường mà họ đã rời xa và làm tăng thêm cơ may được cứu vớt.
Cậu che một tấm vải bạt trên người bị thương, chăm lo cho ông như thể con trai ông. Cậu an ủi người vợ và cố gắng giải khuây cho cô gái bằng cách hát tất cả những bài cậu thuộc hoặc kể về các cuộc phiêu lưu cho đến khi cô mỉm cười và lấy lại can đảm.
Thế rồi mọi chuyện dần dần cũng ổn.
Ngày thứ tư, thức ăn và nước uống dự trữ gần cạn kiệt, Emil đề nghị giữ các thứ lại cho người bệnh và phụ nữ. Nhưng hai trong số mấy người đàn ông đòi khẩu phần của mình. Emil từ bỏ phần của mình để làm gương, một số người làm theo cậu. Ngày hôm sau tương đối bình yên, nhưng ban đêm, trong khi Emil kiệt sức giao phiên gác cho hai thủy thủ tin cẩn để có được một tiếng đồng hồ nghỉ ngơi, thì chính họ đã lấy cắp phần bánh mì, nước còn lại và chai rượu cognac được giữ phòng trường hợp cần thiết. Gần như phát điên vì khát, bọn họ uống lấy uống để. Sáng hôm sau, một người bất tỉnh, không dậy được. Còn kẻ thứ hai, điên vì say, đã nhảy xuống biển và người ta không tìm thấy gã. Kinh hãi trước cảnh tượng ghê gớm đó, mấy người kia ở yên, và con thuyền tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng một thử thách khác sẽ khiến họ càng thêm tuyệt vọng.
Họ trông thấy một chiếc thuyền khiến họ vui mừng một lúc khá lâu. Nhưng chiếc thuyền không trông thấy những dấu hiệu tuyệt vọng của họ và cũng không nghe thấy những tiếng la hét điên cuồng của họ. Lòng can đảm của Emil bị lung lay. Thuyền trưởng có vẻ như sắp chết, hai người phụ nữ không còn chịu đựng thêm được nữa. Cậu cố giữ bình tĩnh cho đến khi màn đêm xuống. Nhưng rồi, trong tiếng sóng ồn ào đầy ám ảnh, chỉ bị xen ngang bởi tiếng mê sảng của bệnh nhân và tiếng thầm thì cầu nguyện của vợ ông, Emil hai tay ôm lấy đầu, trải qua một tiếng đồng hồ âm thầm đau khổ khiến cho cậu già xọm đi. Không phải sự mệt mỏi về thể xác đã hành hạ cậu, mà chính là sự bất lực không thể vượt qua số phận ác nghiệt của họ. Đàn ông dám đương đầu với những cảnh nguy hiểm trong cuộc sống mà họ lựa chọn. Nhưng cậu rất muốn tránh một cái chết thê thảm cho chỉ huy của mình, một người cậu rất đỗi thương yêu, cho người vợ tốt bụng và cô con gái tuyệt vời của ông, mà sự hiện diện của họ đã khiến cho cuộc hành trình dài đằng đẵng trở nên thật dễ chịu đối với tất cả mọi người. Cậu cảm thấy sẵn sàng hi sinh cuộc sống của mình cho họ.
Cậu ngồi đấy, lả đi, mệt nhoài bởi thử thách to lớn đầu tiên trong đời trai trẻ. Bầu trời bắt đầu nhiều mây, biển không ngớt động mạnh dưới chân, và quanh cậu là tâm trạng đau đớn, nỗi tuyệt vọng mà cậu không thể làm gì để xóa đi được. Bỗng một tiếng thì thầm êm ái phá tan sự im lặng như trong một giấc mơ. Đó là Mary: cô hát cho mẹ nghe, người đang khóc trong vòng tay cô, vô cùng đau khổ.
Giọng cô run run. Môi cô khô vì khát. Trái tim biết thương yêu của cô theo bản năng hướng về sự cứu giúp duy nhất trong những giờ phút tuyệt vọng: cô hát bài thánh ca cổ xưa mà chính Emil thường hay hát ở Plumfield. Và, vừa lắng nghe, cậu nhớ lại mồn một quá khứ hạnh phúc và quên đi nỗi đắng cay của hiện tại, thấy mình lại được ở nhà, nhớ lại những cuộc chuyện trò với bác Jo. Cậu nghĩ, tim se thắt:
“Sợi chỉ đỏ! Ta không được quên nó! Ta sẽ làm bổn phận của ta cho đến cùng! Hãy tiến bước, chàng trai, và nếu như cậu không đến được đích một cách an toàn, thì đành phải chìm với tất cả các cánh buồm đã giương lên thôi”.
Bài hát êm dịu tiếp tục ru ngủ người phụ nữ đáng thương. Emil mơ về Plumfield. Cậu thấy lại tất cả các bạn, nghe thấy giọng nói quen thuộc, cảm nhận sự ấm áp của những đôi tay sẵn sàng đón cậu.
“Không được để họ xấu hổ vì mình cho dù họ không còn được nhìn thấy mình nữa”, cậu tự nhủ.
Một tiếng thét kéo cậu ra khỏi cơn mê. Một giọt nước rơi trên trán cậu. Cơn mưa chờ đợi từ lâu cuối cùng cũng đã rơi, mang theo sự giải thoát. Vì ta biết cơn khát khó chịu đựng hơn là đói, cái nóng hoặc cái lạnh. Hét lên vì vui mừng, tất cả mọi người ngước gương mặt khô héo lên trời và trải quần áo ra để hứng nước, thứ có thể làm dịu cơn sốt của người bệnh, làm dịu cơn khát và làm mát cơ thể.
Mưa rơi suốt đêm và những người đắm thuyền lấy lại can đảm. Như mấy cây cỏ sắp chết sống lại dưới ảnh hưởng tốt lành của sương đêm.
Sáng sớm, mây tan. Emil đã lấy lại can đảm. Trong khi đăm đăm nhìn về phía chân trời, cậu trông thấy cánh buồm trắng của một con thuyền, gần đến nỗi cậu có thể trông thấy lá cờ đuôi én treo trên đỉnh cột buồm và mấy bóng người đang hối hả đi lại trên boong.
Một tiếng hét sung sướng bật ra từ tất cả các cổ họng và lan trên mặt biển. Mấy người đàn ông dùng mũ và khăn tay để vẫy. Hai người phụ nữ đưa những đôi tay van xin về phía thiên thần áo trắng. Những cánh buồm căng gió, đang đi về phía họ.
Lần này họ không bị thất vọng. Người ta đã đáp lại tín hiệu của họ. Lúc đó, giây phút đẹp nhất đời cậu, hai phụ nữ bám lấy cổ Emil để cám ơn. Rồi Mary ngã xuống bất tỉnh. Người bị thương, dường như cảm nhận được sự vui vẻ hối hả quanh ông, lại ra lệnh như lúc ông còn ở trên tàu.
Tất cả nhanh chóng được an toàn trên chiếc tàu Urania. Trong khi kể lại câu chuyện về vụ đắm tàu, thì mùi xúp ngon lành nhắc cho Emil nhớ là cậu gần như chết đói. Người ta cho cậu ăn, cho cậu mặc ấm và nghỉ ngơi. Khi viên bác sĩ rời cabin, cậu hỏi giọng run run:
– Hôm nay là ngày mấy vậy, thưa ông? Đầu óc tôi không còn nhớ gì nữa!
– Hôm nay là ngày lễ Tạ ơn, thưa ngài! - Vị bác sĩ đáp nhiệt tình. - À, nếu như có thể làm cho ngài vui thì chúng tôi mời ông một bữa tiệc xứng đáng với New England.
Nhưng Emil quá kiệt sức để có thể làm gì khác hơn là nằm xuống, sung sướng hơn bao giờ hết rằng cậu vẫn còn sống và hơn thế nữa, đã làm tròn nhiệm vụ.
Các Cậu Bé Của Jo Các Cậu Bé Của Jo - Louisa M. Alcott Các Cậu Bé Của Jo