Số lần đọc/download: 204 / 9
Cập nhật: 2020-01-25 21:18:44 +0700
Chương 10 - Đường Lên Phương Bắc
D
ã trang bị đủ bàn chải, quần chẽn và kẻ mắt, hai chị em tôi lại tiếp tục đâm đầu vào dòng xe cộ lúc chiều muộn. Tôi chỉ đường cho Becky chạy xe ra làn đường cao tốc, và nửa giờ sau thì đỗ xuống một trạm dịch vụ để kiếm cái gì nhai tạm, đổ xăng và bàn bạc.
Hai đứa mua một khay đầy trứng ốp la, khoai tây rán và bánh kem, rồi chen tới một chỗ cạnh cửa sổ. Vừa ngồi xuống, Becky xiên lấy một miếng khoai, tôi tợp một ngụm nước chanh, rồi chị ấy mở miệng, “Giải thích. Ngay.”
Tôi bèn thuật lại đầu đuôi. Từ trò dọa đuổi học, vụ nghe lén phòng giám hiệu, thứ ngôn ngữ kỳ bí của cô Pearce và thầy Kidd, cho đến lúc Charlie hét “Spudvetch!” vào mặt thầy, và cuộc đột nhập căn gác của cô giáo...
Miếng khoai tây của Becky cứ cắm lửng lơ ở đầu chiếc dĩa, giữa cái đĩa và miệng bà chị, trong suốt câu chuyện của tôi.
“Vãi hết cả linh hồn,” chị ấy thốt lên. “Mọi chuyện đều là thật chứ hả?”
“Chứ còn gì nữa. Chị thấy mấy gã xông vào nhà mình rồi đấy thôi. Bọn họ giả vờ chắc?”
Bà chị thở dài sườn sượt nghe như tiếng huýt gió, rồi cuối cùng cũng ngoạm lấy miếng khoai.
“Xem đây...” tôi nói, tay lục sâu trong túi. Tôi lôi ra cái vòng tay và mở lớp giấy bạc gói vòng quanh ra. “Đeo vào đi.”
“Là cái này đó hả?”
“Ừ, là nó đó,” tôi đáp. “Giờ thì lấy tay kia chạm vào đi. Nhưng nhanh lên nhé.”
Chị ấy chạm vào cái vòng đồng và nhảy dựng lên khi thấy có tiếng ồn như máy bay hạ cánh giữa hai tai. “Cái quái gì...?”
Rồi giọng nói vang lên. Chị ấy quay ngoắt lại, hệt như tôi lần trước, tưởng có ai đang đứng cạnh nói thẳng vào tai mình.
Tôi giật cái vòng ra khỏi cổ tay bà chị, bọc nó lại trong lớp giấy bạc và cất vào túi.
“OK, OK, OK,” Becky nói. “Tao tin. Giời ạ, sợ mất mật.”
Tôi uống thêm một ngụm nước chanh. “Và em nghĩ là trên đó có gắn thiết bị dò tín hiệu gì đó, cho nên mình không thể nán lại đây quá lâu.”
Chị ấy bắt đầu ăn tới phần trứng ốp. “Giờ mình đi đâu?”
“Hồ Coruisk,” tôi vừa đáp vừa lục ba lô và lôi ra xấp bản đồ Khảo sát Quân nhu.
“Hồ gì cơ?” Becky hỏi.
“Hồ Coruisk,” tôi nói. “Ở trên đảo Skye.” Tôi trải tấm bản đồ số 32 lên mặt bàn.
“Đến đấy làm gì?”
“Bọn em tìm thấy một bức mật thư giấu trong hộp bánh bích quy trên căn gác nhà cô Pearce. Nó cũng được viết bằng cái thứ ngôn ngữ kỳ dị họ trao đổi trong phòng giám hiệu ấy. Trong đó có nhắc tới ‘Coruisk’. Xem này...” Tôi trỏ vào một vệt màu xanh da trời hình răng cưa ở ngay trung tâm tấm bản đồ.
“Lại còn có thêm cả tọa độ tham khảo của bản đồ nữa.” Tôi lục ra cuốn sổ Spudvetch! và đọc to dãy số: “Bốn-tám-bảy-một-chín-sáu.” Tôi rê ngón tay theo đường kẻ dọc xuống từ lề trên, và đường kẻ ngang từ lề trái. “Đây này.” Ở chỗ hai đường thẳng cắt nhau là một ô vuông bé xíu, thể hiện một loại kiến trúc gì đó, nằm ngay cửa hồ, chỗ ăn thông ra biển.
“Được rồi,” Becky nói, lần này nghe đã vững dạ hơn. “Nhưng sao lại phải đi đến đó?”
Tôi ngước lên. “Em phải đi tìm Charlie. Và đó là manh mối duy nhất ta hiện có trong tay. Mà cũng là manh mối duy nhất em giải mã được.”
Becky tỏ vẻ chưa được thuyết phục lắm.
“Tờ thông điệp đó - nó được giấu kỹ dưới bể nước. Tít trên gác xép. Rõ là cô ấy không muốn ai tìm ra. Chắc chắn là phải hệ trọng lắm.”
Tôi ngắm kỹ lại tấm bản đồ. Nhìn cứ như trong phim Chúa tể những chiếc nhẫn vậy. Cái hồ nằm lọt thỏm trong dãy đồi Cuillin. Phía Bắc có đỉnh Druim nan Ramh. Phía Nam là dải Sgurr Dubh Mor. Ngôi làng gần nhất ở cách đó hơn mười ba cây số. Thật khó mà tưởng tượng ra nơi nào hẻo lánh hơn thế.
“Mày có biết chỗ này heo hút thế nào không hả?” Becky chất vấn.
Tôi bắt chéo hai ngón tay trỏ cầu may mắn. Tôi cần bà chị hỗ trợ. Và tôi cần con xe Moto Guzzi. “Nhưng nó là bạn thân nhất của em. Và nó bị bắt cóc rồi.”
“Có khi gọi cớm tới giải quyết thì hơn,” Becky đề nghị.
“À, ừ, lại còn chuyện đó nữa chứ.”
“Chuyện gì?” Becky hỏi.
“Có một gã cảnh sát tới nhà Charlie.”
“Rồi sao...?”
“Gã cũng đeo một cái vòng như hồi nãy em cho chị xem. Gã ép em đi lên xe, nhưng em chạy thoát và gã lồng lộn lên.”
“Thế nghĩa là giờ lũ cớm cũng truy lùng mày hả?” Becky nói.
“Thực ra có khi chúng đang truy lùng cả hai chúng mình vào ngay lúc này đấy.”
“Tuyệt vời làm sao,” Becky nói. “Mình sắp du hành tới đảo Skye với thằng em búng ra sữa, trên một con xe không giấy tờ, không bằng lái, để đi tìm một đứa nhóc có thể giờ này đang nhởn nhơ tận bên Bồ Đào Nha cũng nên. Rồi thì bị một băng đảng điên loạn bí hiểm truy sát. Và bị lũ cớm lùng bắt...”
Rồi tôi được may mắn mỉm cười chút xíu. Nãy giờ ngồi mân mê mấy chiếc khuy và tua rua trên áo khoác của Mặt Rỗ, tôi đột nhiên phát hiện ra trong túi áo có vật gì cồm cộm, bèn thọc tay vào và lôi ra được một chiếc cờ lê, một bao thuốc lá, chiếc bật lửa, một đùm bông dính đầy dầu nhờn... và một chiếc ví.
Becky chộp lấy chiếc ví từ tay tôi. “Êu. Đồ cắp vặt.” Nhưng đúng lúc đó nó bật mở, làm một xấp tiền loại mười bảng rơi vung vãi khắp trên bản đồ.
“Anh ấy làm cái trò gì đây?” tôi hỏi. “Cướp bưu điện à?”
Becky bị cấm khẩu. Chẳng mấy khi tôi thấy bà chị rơi vào tình cảnh này.
“Xấu mã, nhưng mà giầu,” tôi nói, bụng nghĩ thầm có lẽ mình cư xử hơi quá.
Nhưng Becky không thèm để tai. Chị ấy còn đang bận đếm tiền. “Hai trăm. Ba trăm.” Vẫn còn một đống chưa đếm. “Con lợn dối trá,” bà chị ngoa ngoắt. “Thế mà hắn dám bảo mình là hắn kẹt tiền. Đúng là đồ đê tiện, đồ hai mặt, vô tích sự, hãm tài, ra vẻ ta đây...”
Tôi để mặc chị ấy lảm nhảm một lúc. Chị ấy đang cần giải tỏa mà. Còn tôi ngồi nghe thấy cũng vui tai. Sau vài phút, bà chị thấm mệt.
Tôi nhặt lên một nắm mười bảng. “Ngần này chắc đủ cho mình đến đảo Skye đấy nhỉ?”
Becky nhìn tôi im lặng trong vài giây, rồi rít lên, “Chứ còn cái khỉ mốc gì nữa. Nếu đồ đểu cáng ấy cứ tưởng bở là tao đang mau chóng tìm cách về nhà với hắn, thì hắn lầm to rồi. Jimbo, lên đường.”
Lúc bước ra khỏi trạm dịch vụ, chúng tôi mới nhớ ra là còn bố mẹ nữa, lúc này chắc hẳn hai người đang không vui vẻ gì. Becky bèn gọi điện về nhà. Ơn trời chế độ lưu giọng nói vẫn còn kích hoạt.
“Bố. Mẹ. Con Becky đây. Có Jimbo ở đây nữa. Bọn con đều ổn. Nhưng chưa về nhà được đâu. Lúc về bọn con giải thích sau. Bai bai.”
Rồi chúng tôi đổ xăng, mua hai cặp kính râm và lại bon bon trên xa lộ.
o O o
Đêm đã xuống mà đảo Skye vẫn còn cách xa ba trăm dặm nữa. Chúng tôi rời quốc lộ M6 và rẽ xuống một mê lộ đầy những con đường đất nhỏ hẹp cho tới khi bắt gặp một khu rừng gỗ nhỏ. Hai chị em bèn đậu xe vào một góc khuất khỏi mặt đường, trèo qua đám cây bụi và tìm thấy một khoảng đất đủ thoáng đãng để dựng lều.
Có một tin nhắn từ nhà gửi đến điện thoại của Becky, nhưng chúng tôi quyết định không mở nó ra. Sau tất cả ngần ấy chuyện, chắc chắn bố mẹ sẽ không chúc hai chị em một chuyến đi vui vẻ.
Phần thức ăn tôi gói ghém giờ đã nguội ngắt và méo mó, nhưng món khoai tây nướng và bánh mứt mâm xôi bố làm còn thừa vẫn ngon chán.
“Ê này?” Beck đưa tay chùi vụn bánh khỏi son môi.
“Gì cơ?”
“Tao rút lại lời nhận xét về bố.” Bà chị nhăn nhở. “Tao cóc cần biết ông già có bị rối loạn hormone không. Miễn là sản xuất ra đồ ăn thừa ngon cỡ này.”
o O o
Sáng hôm sau, chị em tôi thức dậy và phát hiện cơn mưa xối xả đêm qua đã tìm đường xuyên qua lớp vải bạt. Phía dưới hai chiếc túi ngủ lũng sũng nước bùn. Hai đôi giày để ngoài cửa lều cũng nhũn bở ra rồi.
“Sao không đợi đến tháng Bảy hãy mưa?” Becky rền rĩ.
Trong lúc tôi vắt giũ hai chiếc túi ngủ thì Becky chỉnh trang lại son phấn. Khi mặt mũi bà chị đã đâu vào đấy, chúng tôi nhổ lều, nhồi đồ đạc vào cốp xe, nhảy lên hai chỗ ngồi ẩm ướt và quay lại quốc lộ M6. Ngắm nhìn lớp đường nhựa lấp lánh bay vùn vụt dưới chân, tôi ngồi mơ tưởng về chăn ấm nệm êm, bữa sáng nóng hổi, tòa nhà đồ chơi bơm hơi và lò sưởi điện.
o O o
Chúng tôi ăn bánh mì phết đậu nhừ ở hạt Carlisle và dành phần lớn thời gian trong nhà vệ sinh để sấy từng mảnh quần áo dưới chiếc máy hong tay. Tới thành phố Glasgow thì mặt trời ló rạng. Và tới thị xã Dumbarton tôi mới thấy ra người ra ngợm phần nào.
Quang cảnh đồng quê nơi đây giờ nhìn lạ lùng, cũ kỹ và lôm nhôm hơn. Hai chị em tạt ngang rẽ ngửa dọc theo bờ hồ Lomond suốt hai chục dặm. Bên trái chúng tôi là sương mù bồng bềnh treo giữa những đỉnh đồi cao vút. Còn bên phải là mênh mông hàng dặm sóng nước, lăn tăn trải theo gió và lỗ mỗ những hòn đảo tí hon phủ đầy cây dại.
Con đường dốc dần lên. Qua làng Crianlarich, làng Tyndrum, làng Ballachulish. Những ngọn đồi lúc này trọc lốc hơn, dưới ánh mặt trời nhìn hệt như một tấm bưu thiếp. Còn nếu mưa chắc chẳng khác gì một cảnh phim kinh dị.
Cặp mông tôi bắt đầu đau ê ẩm. Chị em tôi đã đi được sáu giờ đồng hồ rồi còn gì. Thế nên tôi thở phào khi thấy đồi núi đang thưa thớt dần trên con đường chạy xuống biển, tới eo biển Lochalsh và cây cầu qua đảo Skye.
o O o
Chúng tôi rẽ khỏi đường cái và đậu xe trước một quán cà phê nằm ngay ven biển. Quán này đông khách thật. Có nhiều gia đình đang ăn trên ghế dài ngoài trời. Lũ trẻ chơi đuổi bắt dọc bến cảng. Đám chó cảnh được mang ra từ cốp xe để còn đi ra mép nước mà tè.
Chúng tôi xuống xe, vươn duỗi chân cẳng mỏi nhừ, rồi đi mua mấy que kem. Lũ mòng biển lượn vòng vòng trên đầu. Một chiếc thuyền đánh cá bình bịch lướt qua.
“Chúc mừng!” Becky cụng chiếc kem ốc quế vào kem của tôi.
“Chúc mừng!” tôi tán theo, và trong giây phút đó tôi quên khuấy cả Charlie. Tôi nhe răng cười với Becky, Becky nhe răng cười lại với tôi. Chị em tôi đang đồng hành trên chuyến phiêu lưu mạo hiểm này. Mặt trời rạng chiếu, và đây là lần đầu tiên trong đời tôi nhận thấy rằng thực ra tôi cũng ưa bà chị mình phết.
Rồi bà chị nói, “Không biết có kịp không.”
“Ý chị là gì?” tôi hỏi.
Bà chị nhìn xuống mặt đường đá, lầm bầm, “Jimbo à, bọn chúng là một lũ lưu manh. Giờ mình thậm chí còn chẳng biết Charlie có còn sống hay không.”
“Đừng nói nữa,” tôi thì thầm trả lời. “Làm ơn đừng có nói nữa.”
Chúng tôi ăn kem xong, đội mũ bảo hiểm lại, rồi rồ ga phóng trở lại về phía chân cầu.