Số lần đọc/download: 0 / 10
Cập nhật: 2023-11-05 19:15:22 +0700
Chương 11
T
háng sáu sắp hết. Từ một tháng nay Ác-tê-mi-ép nằm bệnh viện mà từ đó cách đây ít lâu một chiếc xe hồng thập tự đã chở anh ra tiền tuyến. Mọi việc không xảy ra như A-púc-tin mong muốn: vẫn cần phải gặp lại nhau: ngay tối hôm đó, trên bàn mổ, Ác-tê-mi-ép, răng nghiến chặt, nằm để cho A-púc-tin rửa hai vết đạn, một ở tay gần bên vai, một ở sườn, với một lỗ đạn bắn ra ở ngay sát xương bả vai.
- Chuẩn bị người sau đi - A-púc-tin nói với chị y tá và hỏi Ác-tê-mi-ép - anh có đau lắm không?
Ác-tê-mi-ép càu nhàu:
- Cũng khá.
- Thì tôi đã bảo với anh là thu xếp làm sao để khỏi rơi vào tay tôi rồi cơ mà! Nhưng nhìn chung anh còn may mắn đấy: hai vết thương như thế, mà không chạm phải một mảnh xương nào! Nếu không mất nhiều máu như thế, thì chỉ một tuần nữa là anh bình phục thôi. Anh có muốn người ta đem anh đi Si-ta không? Anh thích ở lại đây à?
- Phái - Ác-tê-mi-ép lại càu nhàu sợ mở miệng và sợ đau không chịu được phải kêu lên.
Câu chuyện giữa hai người ngừng lại ở đó.
Những ngày đầu, sáng nào Ác-tê-mi-ép cũng hồi hộp trước tiếng nổ ầm ầm của động cơ một chiếc máy bay. Máy bay hạ xuống trên thảo nguyên, cách bệnh viện khoảng một cây số và chạy đến gần, gần đến nỗi, những thương binh từ trên giường nằm, nhìn thấy rõ cả bánh xe và thân máy bay qua cửa lều. Người ta chuyển thương binh lên máy bay và chạy từ từ giữa những chiếc lều như trong một phố, lăn trên thảo nguyên và cất cánh bay là là mặt đất đến tận Si-ta.
Có thể là do lệnh của A-púc-tin, cũng có thể là giai đoạn đầu người ta chỉ chuyển những người bị thương nặng đến Si-ta, hay vì chiến sự tạm ngừng lúc này khiến một nửa bệnh viện trống không, nên vấn đề di chuyển thương binh không đặt ra nữa; Ác-tê-mi-ép vẫn ở tại chỗ.
Cuộc sống ở bệnh viện không thú vị lắm - Ngày nóng đêm lạnh. Muỗi như từng đám mây bao quanh các lều. Nước không đủ để mỗi ngày rửa ráy kỹ một lượt. Phải đem nước từ xa đến và chiếc xe nước chỉ đi được có hai chuyến một ngày -Nhưng Ác-tê-mi-ép thích cuộc sống này hơn mọi tiện nghi ở bệnh viện Si-ta - Anh đã chiến đấu và rồi cả bị thương nữa trong lúc vẫn chưa được trên bố trí một công tác dứt khoát, ở Si-ta, khi bình phục rồi, có thể là người ta lại không để anh trở lại Mông-cổ nữa.
Hai tuần sau, khi A-púc-tin đến ngồi một lúc trên giường Ác-tê-mi-ép, anh nói mấy lời cảm ơn anh ta.
- Ơn với huệ gì, chính vì tôi mà anh bị thương, dĩ nhiên là tôi phải chăm sóc anh.
- Anh dính líu gì đến chuyện này?
- Sao lại không! Hôm ấy tôi đề nghị anh đi với tôi. Nếu không anh sẽ đi xe khác và đến đấy chậm hai tiếng, như vậy anh sẽ nhận được bất cứ một mệnh lệnh nào khác hay tham gia một trận đánh khác mà rất có thể là anh sẽ bình yên vô sự.
- Hay chết - Ác-tê-mi-ép nói.
- Cũng không phải là không có thể. Tôi không phải là một tín đồ của thuyết định mệnh, trái lại thế, nhưng tôi nghĩ rằng trong chiến tranh có rất nhiều cái ngẫu nhiên, may rủi, và khó có thể cho một chi tiết một giá trị tích cực hay tiêu cực, nhưng người ta vẫn bắt buộc phải kinh ngạc nhận thấy rằng đời sống của con người hoàn toàn lệ thuộc vào chỗ anh ta bước một bước sang bên trái hay sang bên phải, vào vị trí của cơ thể anh ta lúc tiếp xúc với mẩu kim khí mà rồi chúng tôi sẽ phải mổ lấy từ ở trong thịt ra.
- A-lếch-dăng Phi-ô-đô-rô-vít, anh diễn thuyết gì vậy? - một chị nữ y tá cao lớn và đẹp, ngừng lại sau lưng A-púc-tin và nhìn anh, bối rối, vẻ trìu mến, nói với anh.
- Anh thấy không - A-púc-tin vừa nói vừa đứng dậy - ở đây chúng tôi vẫn làm công tác khoa học, chúng tôi trao đổi kinh nghiệm. Thôi tạm biệt.
Anh đưa tay cho Ác-tê-mi-ép - Ác-tê-mi-ép giơ cánh tay trái không bị thương ra, nhưng A-púc-tin rụt tay lại.
- Không, không, thử bàn tay phải xem.
Ác-tê-mi-ép xê dịch bàn tay phải trên mặt chăn một cách khó khăn, anh thấy đau buốt ở vai, nhói nhói trong các ngón tay và yếu ớt nắm lấy tay A-púc-tin.
- Anh thấy không, chỉ vì anh sợ đấy thôi - A-púc-tin nói và bỏ đi, miệng hơi mỉm cười.
Đến cuối tuần thứ ba, Ác-tê-mi-ép bắt đầu đi lại - Người ta mang đến cho anh một đôi giày vải, bít-tất, và một bộ quần áo bệnh viện bằng ka-ki pha len - Ác-tê-mi-ép mặc ra ngoài bộ pi-gia-ma và chỉ xỏ ống tay trái.
Ngày anh đến bệnh viện, người ta đã lấy tông-đơ gọt tóc anh - Nó mọc thành một chiếc bàn chải ngắn và dầy trên đầu. Mặt anh, thường là rám đỏ vì không khí và ánh mặt trời, giờ tái nhợt. Với cảm giác sức khỏe đã khá hơn, đồng thời anh thấy buồn buồn, mặc dù đời sống của anh ở bệnh viện lúc này thèm một giải trí mới, vì anh được đi ăn trong «phòng ăn» của những người mới khỏi bệnh.
Sau căn lều cuối cùng của bệnh viện người ta đặt trong thảo nguyên nhiều chiếc bàn lớn hai bên có ghế trên phủ những tấm gỗ mỏng để che cho thương binh khỏi mưa nắng - Vả lại, trong suốt cả thời gian này không có đến một giọt mưa, và người ta cũng khó tưởng tượng làm thế nào mây lại có thể hình thành được trên thảo nguyên bị mặt trời đốt cháy khô khốc này.
Cách đấy mười bước, trong một chiếc nồi lớn để trên lò, người ta ninh thịt cừu từ sáng đến chiều.
Trong phòng ăn giữa trời này, những bệnh nhân mới khỏi và nhân viên bệnh viện thường là chiếm bốn bàn, bàn thứ năm dành cho tòa soạn tờ báo mặt trận làm việc cách đấy một cây số.
Ban chính trị của những lực lượng Xô-viết đóng tại Mông-cổ xuất bản tờ báo này. Từ bệnh viện, người ta nhìn thấy rất rõ những căn lều và những y-uốc-ta nơi tòa soạn dọn đến cách đây một tuần.
Tất cả nhân viên tòa soạn đến đây ăn cơm, từ chủ bút, một chỉnh ủy trung đoàn, đi xe đến và ăn rất nhanh đến nỗi người ta phải tự hỏi anh ta mất công đi từ xa đến để làm gì, đến thợ sắp chữ và lái xe, những người này nhai chậm chạp, cố kéo dài những giờ phút dãn gân cốt quanh bàn ăn.
Đền giờ ăn sáng, họ đem báo lại và kể những tin tức do đài phát thanh Mạc-tư-khoa phát đi buổi tối mà họ đã nghe được và ghi lại lúc năm giờ sáng - Nhân viên tòa soạn, ngoài những tin tức quân sự địa phương, thường lượm lặt những chi tiết về những trận không chiến mà kết quả trong những ngày vừa qua thường là khá.
Thường thường, một bộ phận nhan viên tòa soạn ngồi với thương binh, hay trái lại, Ác-tê-mi-ép và một số bệnh nhân khác đến ngồi vào bàn ăn của tòa soạn - Họ nói chuyện rất khó khăn vì muỗi bâu đầy mặt, đầy tay và rơi vào những chiếc ca bằng men xanh đầy ắp nước trà đường.
Muỗi nhiều đến nỗi, nhìn từ xa, quanh bàn ăn, đám người ngồi nói chuyện, người nào cũng vung tay xua muỗi, gợi lên hình ảnh một cuộc tranh luận gay go giữa những kẻ vừa câm vừa điếc.
Người ta cũng được dự xem cả mấy trận không chiến nữa. Đã hai lần, máy bay Nhật rơi xuống gần đấy, trong thảo nguyên.
Tiếng vang xa của một trận ném bom đôi lúc cũng vọng tới. Một hôm, vào lúc lặn mặt trời, ba chiếc máy bay phỏng pháo Nhật từ trên cao trút xuống một chục quả bom quanh tòa soạn.
Ngày chiến đấu bên bờ sông, Ác-tê-mi-ép chỉ nhìn thấy những máy bay trên đầu mình và những chấm đen của bom từ máy bay rơi ra, nhưng anh chưa nhìn thấy những «chấm» đó rơi xuống đất. Ở đây, sau những hình thù quen thuộc của những căn lều tòa soạn, anh nhìn thấy những cột đất đen dựng lên trời không tiếng động. Một giây sau, mới nghe thấy tiếng nổ và anh thấy đất rung lên.
Rồi những cột đen như những cây cổ thụ, trên đầu có một vòm đầy cành lá xum xuê, xòe rộng và tan ra với những tiếng rền nổ cuối cùng, thành một khoảng rừng đen như mực - Khoảng rừng đó chỉ lơ lừng vài giây trên không rồi hình thành một đám mây khói trên thảo nguyên.
Những chiếc phóng pháo lượn vòng và biến mất.
Hai mươi phút sau, nhân viên tòa soạn đến ăn - Theo câu chuyện ầm ĩ của họ, thì ra không một quả bom nào rơi cách tòa soạn tới ba trăm thước. Tất cả mọi người đều sống không một ai bị thương. Sau cơn nguy hiểm họ vừa phải đương đầu, tất cả đều nói ầm ĩ, cười phá lên vì chuyện một anh chàng vác hai mũ sắt vào trong hầm và vừa chỉ trích máy bay khu trục Xô-viết vừa tự hỏi không biết bây giờ đuổi còn kịp máy bay Nhật không.
Quang cảnh trận bom khiến Ác-tê-mi-ép lại nảy ra ý muốn trở lại mặt trận và sáng hôm sau, lúc khám bệnh, anh nói điều đó với A-púc-tin. Nhưng A-púc-tin xẵng giọng trả lời anh rằng ở bệnh viện chỉ có một người chỉ huy là anh ta, và đại úy Ác-tê-mi-ép chỉ ra viện khi nào thầy thuốc thấy cần.
Người ta nói rằng ở bệnh viện, A-púc-tin không thích những yêu cầu ra viện trước thời hạn như thế, anh thấy ở đó một «sự huênh hoang vô ích», Ác-tê-mi-ép im lặng chờ đợi một cơ hội thuận lợi hơn.
Lại mấy ngày qua đi. Ác-tê-mi-ép sau bữa ăn ngồi vào một chiếc bàn, uể oải chọn giữa hai khả năng đấu tranh với nỗi buồn: tìm một người nào đánh một ván cờ hay là thử đi ngủ.
Chiếc Em-ka nhỏ của tòa soạn, phủ đầy bụi đỗ gần đấy. Một quân nhân đi ra về phía bàn ăn - Sau khi liếc nhìn về hướng ấy, Ác-tê-mi-ép lại chìm đắm trong việc ngắm cảnh thảo nguyên như là việc đó sẽ gợi ý cho anh biết cách làm gì buổi chiều nay cho hết ngày.
Nóng. Mặt trời đốt cháy đất và ngoài tấm lưới mắt cáo rợp bóng mát, mở ra một thế giới khác vàng khè, một thế giới ở đó nước tiếp xúc với mặt đất sẽ sôi lên như trên một lò lửa rực hồng. Thảo nguyên, xanh xanh khi Ác-tê-mi-ép đến bệnh viện nay đã úa vàng; mầu nâu lúc hoàng hôn, biến thành vàng nhợt dưới ánh mặt trời buổi trưa.
Phía chân trời, sau khoảng vàng mênh mông vô tận này, một ảo cảnh vẽ trong không khí oi bức một mặt hồ lớn và một khu rừng xanh, tất cả dần dần tan ra ở hai đầu trước khi biến mất ở chỗ này để hiện lên ở chỗ khác.
- Những ảo cảnh này nom cũng kỳ nhỉ? - Có tiếng người nói đằng sau Ác-tê-mi-ép.
- Phải - Ác-tê-mi-ép trả lời, vừa quay lại mỉm cười - Tôi đang tự hỏi xem chỗ nước đó có thật không vì ngày nào tôi cũng nhìn thấy nó.
Người mới đến đưa một chân qua chiếc ghế dài và ngồi như cưỡi ngựa bên cạnh Ác-tê-mi-ép. Đó là «chuyên viên ngoại thương» đã đi cùng chuyến máy bay với anh từ Si-ta, đến Tam-xắc Bu-lắc.
- Lô-pa-tin - anh ta tự giới thiệu và đưa tay ra bắt tay Ác-tê-mi-ép.
Bộ quân phục anh mặc cũng chẳng thay đổi gì vẻ người của anh. Anh ít có dáng quân sự đến mức giá cứ mường tượng anh mặc quân phục trước kia khi anh còn mặc thường phục còn dễ dàng hơn là bây giờ khi anh đội kê-pi, đeo thắt lưng da đi bốt và có súng lục.
- Thế nào, anh điều trị ở đây à. Anh bị thương phải không? Lâu chưa? - Lô-pa-tin hỏi.
- Ngay hôm sau cuộc hành trình trên máy bay của chúng ta - Ác-tê-mi-ép trả lời một lần tất cả những câu hỏi. - Còn anh, anh đến đây có công tác gì? - Đến lượt Ác-tê-mi-ép hỏi, mắt nhìn băng mầu xanh thẫm trên mũ Lô-pa-tin và chiếc ve áo cũng đồng mầu - Anh công tác gì? Nếu anh ở quân nhu, như anh nói, thì những chiếc bánh xe trên phù hiệu đâu? Nếu anh là thầy thuốc, anh sẽ có một «con rắn» theo như quy định, vậy thì anh làm gì nếu anh không phải cả quân nhu lẫn thầy thuốc? - Tôi nghĩ rằng tôi có lẽ ở quân nhu, mặc dù có một hôm người ta đã yêu cầu tôi băng bó và tôi làm cũng không đến nỗi tồi lắm; ngày trước, tôi làm y tá trong quân đội. Nhưng công việc thường ngày của tôi là viết, anh nói thêm, nhìn thẳng vào mắt Ác-tê-mi-ép qua cặp kính, một cái nhìn lạnh lùng và riễu cợt.
- Anh viết gì? - Hỏi xong, Ác-tê-mi-ép thấy đã quá muộn rằng câu hỏi của mình thật ngớ ngẩn và hiện mình đang nói chuyện với một nhà báo công tác trong tòa soạn báo quân đội và đúng là từ đó anh ta đi xe của tòa báo đến đây.
- Hiện giờ, tôi viết tất cả những gì đồng chí tổng biên tập bảo tôi viết - Lô-pa-tin trả lời.
- Thế anh có thời giờ làm y tá vào khoảng nào? - Ác-tê-mi-ép hỏi tiếp, mỗi lúc một thấy có cảm tình hơn với người đang nói chuyện với mình.
- Thời kỳ Nội chiến, trên mặt trận Tuyếc-két-tăng- Lô-pa-tin trả lời vắn tắt và sau một lúc im lặng như ngập ngừng không muốn giải thích thêm. Nhưng rồi anh cũng nói thêm - Tôi bỏ học ra đi, hồi đó tôi học năm thứ ba trường thuốc ở Ta-sken. Sau chiến tranh tôi cũng không trở lại trưởng nữa; tôi làm thơ.
- Nhưng anh bao nhiêu tuổi?
Ác-tê-mi-ép hỏi, ngạc nhiên, không thể tưởng tượng được Lô-pa-tin lại đã tham gia Nội chiến.
- Tôi ấy à? Bốn mươi ba.
- Thế thì đúng là tôi đã đọc sách của anh viết rồi - Ác-tê-mi-ép nói. Cái anh chàng Lô-pa-tin này chắc đúng là tác giả hai cuốn sách nhỏ, một về bọn bát-xmát, một về Áp-ga-nít-xtăng mà anh đã đọc hồi còn ở trường quân sự.
Nhưng Lô-pa-tin không thích một tí nào nói về những sáng tác văn học của anh - Anh nói:
- Đồng chí tổng biên tập của chúng tôi, đến kia kìa - Một chiếc mô-tô lao như tên bắn trên thảo nguyên, từ phía tòa soạn lại. Cách bệnh viện một trăm thước, người lái xe mô-tô lượn nhanh và ngã. Anh vội vã nhìn xem có ai thấy anh ngã không, rồi dựng chiếc mô-tô dậy, anh leo lên, mở máy và lại phóng trên đường trở về tòa soạn.
- Anh ta tập lái - Lô-pa-tin nói - Tôi cứ nghĩ rằng anh ta đã đến tìm tôi. Anh ta muốn làm tất cả mọi việc một lúc: vừa đi khỏi, đã phải trở về ngay, viết bài, chữa bài và in xong, không một phút nào yên cho anh ta cũng cho người khác. Ngay cả để giải trí anh ta cũng phải tìm một cách giết thời giờ sôi nổi nhất, là chiếc mô-tô vừa rồi. Từ bốn hôm nay, người anh ta đầy những vết thâm tím.
Lô-pa-tin nói tất cả những điều trên, giọng càu nhàu, nhưng với một thái độ thiện cảm nào đó đối với người tổng biên tập của anh.
- Tất cả nhân viên tòa soạn đến đây ăn từ một tuần, sao tôi chẳng nhìn thấy anh một lần nào.
- Tuần qua tôi công tác ở sư đoàn kỵ binh thứ sáu Mông-cổ.
- Thế nào, ở đó, sườn bên trái lúc này ra sao? Yên tĩnh chứ?
- Tôi thấy nói là ở gần biên giới, quân Nhật có một hay hai sư đoàn, nhưng tôi, tôi không phải là nhà quân sự nên tôi thấy tất cả hình như đều yên tĩnh - Lô-pa-tin trả lời.
- Chính vì anh không phải là nhà quân sự, vậy anh hãy nói cho biết, liệu chúng ta có chiến tranh thực không? - Ác-tê-mi-ép hỏi - Nó sẽ nổ ra bao giờ và ở đâu, ở đây hay ở chỗ khác?
- Điều đó còn tùy anh hiểu nghĩa danh từ «nổ ra» thế nào -Lô-pa-tin trả lời -Đối với anh cần phải có gì nữa thì mới cho rằng chiến tranh đã nổ ra, bọn Nhật đã chẳng nhét vào cơ thể anh hai mẩu chì đó sao? Những nhà quân sự của chúng ta thật là hòa bình chủ nghĩa kỳ lạ - anh nói thêm, vừa nói vừa cười.
- Không đến nỗi như thế đâu - Ác-tê-mi-ép nói - Tôi chỉ ao ước được đóng góp phần nhỏ bé của tôi để tiêu diệt hai sư đoàn quân Nhật mà anh vừa nói.
- Nhưng đó là hai việc hoàn toàn khác nhau - Lô-pa-tin đáp lại - Lẽ dĩ nhiên, các anh rất muốn cho quân Nhật một bài học, trong khuôn khổ một vụ xung đột ở biên giới. Các anh là bộ đội và các anh không tha thứ dễ dàng. Nhưng nếu người ta bảo các anh «Một phát súng nữa và chiến tranh sẽ nổ ra, mà là một cuộc đại chiến» liệu các anh có dễ nổ phát súng đó không?
- Nhất định có trong những trường hợp nào đấy.
- Trong những trường hợp nào?
Ác-tê-mi-ép nhún vai.
- Chúng ta đã trả lời câu hỏi đó khi chúng ta tuyên bố rằng chúng ta sẽ bảo vệ biên giới Mông-cổ như chính biên giới của chúng ta. Nếu, để giữ lời hứa, cần phải tham gia một cuộc đại chiến, tôi cho rằng chúng ta cũng sẽ tham gia, phải không anh?
- Đó chính là điều tôi lo ngại - Lô-pa-tin nói vừa đội mũ - Nghĩa là tôi hoàn toàn đồng ý không để mặc cho quân Nhật muốn làm gì thì làm, nhưng tôi ngại rằng, chính vì như thế, chúng ta sẽ không thể tránh được chiến tranh. Vả lại, nếu người ta suy nghĩ về điều đó, người ta sẽ nhận thấy rằng trong bản chất của nhân dân ta, dưới chính quyền Xô-viết, đã hình thành một sự pha trộn kỳ lạ của tinh thần thượng võ với lòng yêu hòa bình, của chiến đấu tính cá nhân và chủ nghĩa hòa bình trong ý thức tập thể. Có thể là câu nói của tôi hơi khập khiễng trên quan điểm mác-xít, anh nói thêm sau khi im lặng một lát, như anh chờ đợi một câu trả lời, tôi không phải đảng viên, nhưng không hiểu sao tôi thấy điều tôi vừa nói, nhất định là đúng.
Ác-tê-mi-ép suýt hỏi sao anh ta không phải nhưng anh có thời giờ tránh được câu nói vụng về đó bằng cách hỏi Lô-pa-tin về một huân chương anh đeo hơi lệch trên túi áo.
Anh được tặng thưởng sau khi tham dự vào một chuyến đi nghiên cứu địa cực vừa rồi.
- Người ta bảo ở đấy, sau đường địa cực, gay go lắm - Lô-pa-tin nói - nhưng tôi cho rằng ở đây với nhiệt độ như thế này còn bi đát hơn - Rồi anh hất đầu chỉ về phía chiếc xe của anh đỗ ở xa - trong lúc chúng ta nói chuyện thì anh lái xe của tôi đang bị hầm chín, chừng nào xe chạy khả dĩ còn chịu được, nhưng chỉ cần ngừng lại nửa giờ là mui xe lên đến một nhiệt độ có thể tráng bánh được. Khi người ta bước ra khỏi xe, người ta bị muỗi ăn thịt. Thôi, đến giờ tôi phải đi rồi.
Đúng một phút sau anh đi, và nói là tuần tới anh sẽ trở về ăn bữa trưa ở đây.
Lại mấy ngày nữa trôi qua. Một buổi sớm, vào giờ khám bệnh, A-púc-tin báo Ác-tê-mi-ép cởi áo lót, lấy tay bóp mạnh vào vai và cánh tay anh và sau cùng, vẻ dễ chịu hơn, anh ta báo cho anh biết anh sẽ được ra viện «trong dăm ngày nữa».
Chiều hôm đó, Ác-tê-mi-ép trong lòng rất vui, nằm dài trên giường, không có việc gì làm, anh đọc lại một tờ báo cũng chẳng có tin gì là đặc biệt thú vị.
Vào lúc chín giờ, người láng giềng bên trái giường (bên phải không có người từ lâu rồi), một người lái xe vận tải bị thương trong một trận bom, một anh chàng tháo vát bao giờ cũng là người thứ nhất biết mọi chuyện xẩy ra trong viện - đi ăn trở về, vẻ phởn phơ mà những người đang buồn tưởng có thể chết được cảm thấy khi họ có khả năng kể lại cho một người nào khúc nghe một tin, dù cái tin ấy chẳng có gì là phấn khởi lắm.
- Người ta vừa xe đến một phi công khu trục! Một trung tá! Người ta đang khâu lại! -Anh nói giọng sôi nổi vừa ngồi xuống giường.
- Điều đó làm anh sung sướng đến thế cơ à, Mi-a-ki-sép? Tôi không hiểu làm sao người ta lại có thể thích thú được khi biết tin người ta đang khâu lại một sinh mệnh - Ác-tê-mi-ép nói.
- Sao đồng chí lại có thể nghĩ được là tôi cảm thấy thích thú về việc đó, đồng chí đại úy? - Mi-a-ki-sép hỏi lại, tuy nhiên giọng anh ta vẫn có vẻ hỉ hả lắm. - Tôi chỉ kể cho đồng chí nghe điều tôi biết, thế thôi. Người ta nói rằng anh ta đã hạ được hai chiếc máy bay của địch, trước khi chính anh ta bị rơi xuống. Suýt nữa thì nát như cám. Nhưng A-púc-tin bảo «Hãy đặt anh ta lên bàn, tôi sẽ khâu lại cho!» Mi-a-ki-sép có một lòng tin không gì lay chuyển nổi vào sự hiểu biết vạn năng của giám đốc bệnh viện! Chính A-púc-tin đã khoan sọ cho anh. Anh chia cho tất cả mọi người xem một mẩu sắt anh để trong túi, nói rằng A-púc-tin đã lấy nó ở trong óc anh ra. Nhưng mẩu sắt hơi to quá một chút và Ác-tê-mi-ép nghi anh lái xe đã chìa ra một mẩu sắt khác lớn hơn, để khoe khoang.
- Trẻ măng nhé! - Mi-a-ki-sép tiếp tục - Mới hơn hai mươi tuổi mà đã trung tá! Huân chương đầy ngực. Một con người đẹp trai, đầu quấn băng. Và chân gẫy nát cả - Nhưng A-púc-tin sẽ chữa được, ồ, anh ta sẽ chữa được lành lặn cho mà xem!
Mi-a-ki-sép chắc còn tiếp tục ca ngợi lần nữa những tài năng kỳ lạ của A-púc-tin, nếu chính trung tá «nát như cám», không tự anh ta đi được đến căn lều của mấy người.
Anh ta đi bốt, mặc chiếc quần quân phục và một chiếc áo nịt lót người - Băng buộc trên trán và che lấp một bên tay. Một chị nữ y tá đi kèm, một tay đỡ anh, một tay mang bộ quần áo bệnh viện và đôi giầy vải. Chị chỉ vào chiếc giường trống bên cạnh Ác-tê-mi-ép:
- Đây, đồng chí Pô-li-nin, giường của đồng chí đây.
Chị đặt bộ quần áo lên đầu giường và để đôi giầy vải trên mặt đất bên cạnh.
- Đề nghị anh nằm nghỉ.
- Này chị, áo quân phục của tôi đâu? - Giọng của người phi công tuy có vẻ càu nhàu, nhưng vẫn thấy rõ là anh đã cố gắng nhã nhặn - Và còn giấy tờ của tôi nữa?
- Tất cả các thứ đó đều ở văn phòng - chị nữ y tá trả lời.
- Ừ, giấy má thì được rồi, nhưng áo tôi để đâu?
- Cũng để ở văn phòng.
- Thế văn phòng của các đồng chí là một cái tủ áo à?
- Anh đừng thắc mắc về việc đó, tốt hơn hết là anh nên nằm nghỉ, đồng chí Pô-li-nin ạ - chị y tá nói với nụ cười kiên nhẫn của nghề nghiệp - Anh cởi quần áo ra và đi nằm đi nếu không anh sẽ làm tôi bị rầy rà với đồng chí giám đốc viện đấy
- À đó thì lại là chuyện khác.
Pô-li-nin lấy bộ quần áo bệnh viện và mặc vào, nhưng vẫn để nguyên cả quần lẫn bốt.
- Tốt hơn hết là anh nên cởi tất cả ra, chị y tá nhắc lại.
- Việc đó, xin lỗi chị, người ta chỉ làm khi nào chị không có mặt ở đây - Pô-li-nin nói nửa bực tức, nửa bối rối, và anh đợi chị ỵ tá đi ra để ngồi trên giường và bắt đầu tháo bốt.
- Người ta nói rằng khi nằm ở đây người ta còn đem cả bô đến cho anh dùng nữa, có phải không
- Cũng có khi - Ác-tê-mi-ép trả lời.
- Tôi thì tôi sẽ không đồng ý điều đó.
Tháo bốt xong, anh đặt chiếc nọ bên chiếc kia gằn giường nằm và cẩn thận giải những poóc-ti-ăng-ki(1) lên trên. Anh cởi quần áo, chui vào chăn và kéo lên đến tận cằm.
- Ở đây bao giờ cũng tối thế này hay sao? - Anh hỏi, khi nhìn thấy trong cả căn lều chỉ có một bóng đèn nhỏ trên trần - Ở chỗ chúng tôi chỉ có nến thôi, không có điện, nhưng còn sáng hơn ở đây.
________________________________________ (1) Những dải vải nhỏ người Nga thưởng cuốn thay bít-tất khi đi bót. (N.D.) - Ở đây cũng có nến, tôi có thể biếu anh một cây nếu anh muốn - Ác-tê-mi-ép nói.
- Không, cảm ơn, tôi hỏi chỉ là để biết vậy thôi - Pô-li-nin thò tay ở dưới chăn và từ từ duỗi ra một cách thú vị rõ rệt và nói - Tôi buồn ngủ lắm rồi.
- Theo tôi thấy, thì vết thương của anh cũng không nặng lắm - Ác-tê-mi-ép nói vừa liếc nhìn về phía giường Mi-a-ki-sép, nhưng anh lái xe đã biến mất.
- Cũng chưa hẳn là một vết thương! - Pô-li-nin nói-Tôi chỉ mất nhiều máu, như một con vật ở lò sát sinh thôi. Còn ngoài ra không việc gì cả.
- Chính vì anh mất nhiều máu nên anh buồn ngủ như thế; kể ra Ác-tê-mi-ép cũng đã có kinh nghiệm về chuyện này.
- Tôi nghĩ rằng ngay như chẳng mất máu tôi cũng vẫn buồn ngủ - Lúc này cái cục ấy nó lăn tròn trong hai mươi tiếng đồng hồ liền.
- Sao? - Ác-tê-mi-ép không hiểu.
- Chúng tôi gọi mặt trời là «cục tròn» và chừng nào nó còn ở trên vòm trời, là công việc không thiếu. Điều may mắn độc nhất để có thể ngủ đầy đủ là mưa, nhưng mưa ở đây, có lẽ chỉ được trông thấy vào những dịp đại lễ. Còn thì phải đến bệnh viện mới có thể ngủ hết cơn nghiện được.
Và quả nhiên anh ta ngủ luôn mười bốn tiếng đồng hồ liền. Trong khi nóng lòng chờ đợi có dịp nói chuyện với người mới đến, Ác-tê-mi-ép đã có thì giờ ăn sáng, đi dạo quanh, chơi hai ván cờ, thế mà Pô-li-nin vẫn ngủ. Khi anh thức giấc người ta đem anh luôn đến phòng băng bó và chỉ khi Pô-li-nin về, vì lúc ấy đã sắp đến bữa trưa, Ác-tê-mi-ép mới có thể nói chuyện với anh ta trong lều.
Pô-li-nin có vẻ khó chịu; chị nữ y tá vừa nói cho anh biết là A-púc-tin, đến ngày hôm sau, có thể cả ngày hôm sau nữa, mới cho anh ra viện.
Ác-tê-mi-ép, trái lại, tỏ vẻ phấn khởi vì đã sắp được ra và lại có khả năng rút ngắn thời gian ở bệnh viện bằng cách nói chuyện với anh bạn láng giềng mới này.
Trung tá Pô-li-nin là một người trạc ba mươi tuổi, vóc người tầm thước, dong dỏng, gầy thì đúng hơn, rất cân đối; chân anh đi nom dẻo và nhẹ, anh vẫn giữ được một vẻ phong nhã nào đó ngay cả trong bộ quần áo bệnh viện - Mái tóc đã thưa nhưng chải kỹ, rẽ đường ngôi lệch một bên, cặp mắt một màu xanh hiếm có, một nước da đục không bắt nắng, những nét mịn màng đều đặn làm anh gần như trở thành một công tử bột nhạt nhẽo nếu trong khối toàn thể đó không nổi lên điểm lạc điệu của cặp mắt hắc và cương nghị, của giọng nói rắn chắc và kiên quyết của anh.
Anh phát biểu không rào đón, dứt khoát, gọt bỏ tất cả những gì không phải là điểm chủ yếu của câu chuyện và điều đó khiến tất cả những gì anh nói đến có giọng sống sượng, mặc dù gần như lúc nào anh cũng lễ phép.
- Anh đau à? - Ác-tê-mi-ép hỏi khi anh bạn láng giềng ngồi xuống giường, tất cả những thớ thịt trên một nhăn nhúm lại tỏ vẻ bực bội.
- Không, băng cọ vào khó chịu quá. Người ta quấn cho tôi như quấn một đứa bé mới đẻ. Mà tôi có bị một vết thương nào đâu! Tôi chỉ hụt mất một nửa cái tai. Cái thằng Nhật ấy đã cướp nó của tôi bằng một tràng súng máy.
- Thật là phiền - Ác-tê-mi-ép nói, nghĩ rằng điều đó thật là phiền đặc biệt cho Pô-li-nin, vì anh này chắc được các cô gái mến lắm.
- Đáng kể gì cái tai đó! - Pô-li-nin nói đột nhiên, rất thành thật - Thà cho nó làm nát cả hai bên tai nhưng nó đừng thoát khỏi tay tôi. Bây giờ dù tôi có hạ một tên khác, tôi cũng không biết có phải chính là tên đó không, tôi không kịp nhìn số máy bay của nó.
- Thế nào chúng nó đã làm xấu mất chân dung đồng chí rồi phải không, đồng chí trung tá - Mi-a-ki-sép nói xen vào câu chuyện, giọng bông lơn.
Pô-li-nin đua mắt tức tối liếc nhanh về phía Mi-a-ki-sép; anh không thích ai đùa nghịch quá trớn.
- Chúng ta có lẽ đi ăn được rồi đấy? - Anh nói với Ác-tê-mi-ép, sau khi cố ý im lặng trong mấy giây - Có phải hắn là người tối qua đã kể chuyện là người ta đang ghép những mảnh xác nát vụn của tôi lại phải không? - Anh nói thêm khi cùng với Ác-tê-mi-ép đi qua mặt Mi-a-ki-sép, đang nằm lỏn trên giường.
- Phải, chính hắn ta đấy - Ác-tê-mi-ép trả lời vừa miễn cưỡng mỉm cười.
- Cậu ở đâu đến đây? - Pô-li-nin đột nhiên quay mặt về phía người lái xe hỏi.
- Tôi ở Rốt-xtốp - anh kia trả lời, hơi lúng túng, vừa đi chân xuống đất.
- Thật, tôi không thể tưởng tượng người ta có thể cử từ Rốt-xtốp đến Mông-Cổ đây những thứ người như cậu, tôi nghĩ rằng người ta phải giáo dục họ tại chỗ - Pô-li-nin vừa nói vừa bước ra khỏi lều. Mi-a-ki-sép, đỏ mặt, không biết nên coi câu đó như một lời nói đùa hay một câu khiển trách.
- Anh cáu như thế là lầm, hắn cùng không phải là một người xấu, bây giờ hắn sẽ tự dằn vặt khổ sở trong ba ngày - Ác-tê-mi-ép nói, thấy thương hại Mi-a-ki-sép.
- Anh đừng để tâm đến việc đó, nó chẳng làm hại gì cho hắn ta cả, tôi không thích những chuyện đùa nghịch thô tục - Pô-li-nin nói vẫn một giọng tàn nhẫn - Nhất là trong quân đội! Thật là tai hại việc người ta thường không nhìn thấy, trong chúng ta, sự khác biệt giữa tính giản dị và tính đùa cợt thô tục. Có lúc người ta bảo một người ưa giản dị nhưng không chịu cho các bạn cùng công tác đấm trên lưng mình là kiêu ngạo. Người ta lại gọi một người khác là «một anh chàng thật giản dị», khi hắn ta chỉ là một tên vô giáo dục. Tôi không biết điều đó có xẩy ra trong bộ binh các anh không chứ ở trong không quân thì vẫn còn xẩy ra. Với tôi, thì tình bạn là tình bạn, công tác là công tác. không có nhập nhằng.
Ác-tê-mi-ép hiểu rằng câu chuyện chẳng có gì là quan trọng vừa xảy ra với Mi-a-ki-sép đã đánh thức dậy trong Pô-li-nin những kỷ niệm sâu xa và cay đắng.
Xong bữa ăn. hai người ở nán lại lâu trên thảo nguyên, phía sau căn lều cuối cùng của bệnh viện. Thảo nguyên hấp dẫn họ như biển cả. Thật ra đứng trước khoảng rộng đó người ta cảm thấy thèm khát đi đến tận chân trời và đi xa nữa, như là thảo nguyên không thể nào lại cứ lì phẳng và đều đều mãi, như là cần có một cái gì khác đằng sau chân trời kia.
- Ở phía bên kia Khan-khin Gon quang cảnh khác hẳn, đúng là ngược hẳn lại. những đồi là đồi - Ác-tê-mi-ép nói.
- Và mười lăm cây số nữa về phía đông bắt đầu dãy núi ăn ngang ra của rặng Đại Khin-gan, cao ba bốn trăm thước, Pô-li-nin đáp lại.
- Và xa nữa?
- Xa nữa, là Mãn Châu, lệnh của trên là không được bay trên đó.
- Thế đến đấy anh bay quay lại thật à?-Ác-tê-mi-ép hỏi.
- Nói chung thì thế - Pô-li-nin vừa nói vừa cười - Không nên đánh giá phi công theo những cái anh ta làm dưới đất. Ở trên kia, họ có kỷ luật hơn nhiều.
- Cả anh nữa à?
- Lẽ dĩ nhiên. Tại sao anh lại muốn tôi là một ngoại lệ. Có mỗi một điều là tôi không thể nào chịu được những kẻ bất nhã - Ngoài giờ làm việc ra, người ta rất có thể vui chơi, uống một cốc rượu với mọi người, ôn lại những kỷ niệm chung - Ở đây, chúng tôi hiếm có dịp đó. Với thời tiết đẹp cố định này, người ta đi làm nhiệm vụ sáu bảy lần một ngày. Ngay cả ở Ma-đơ-rit, với một tình thế còn khó khăn hơn, chúng tôi cũng không sống một cuộc đời thế này. Mỗi ngày cũng như ở đây, không ngủ được quá ba bốn tiếng và cũng xuất trận sáu bảy chuyến, nhưng cuối cùng khi người ta đời tàu bay là để đi đến một khách sạn với những buồng tắm có hương sen và một chiếc giường ra giường. Và nhất là, không có muỗi -Ở đây thật kinh khủng, những con muỗi... Chúng tôi gọi chúng là lũ «xa-mua-rai».
- Anh nghĩ về quân Nhật thế nào?
- Bay đường thẳng, tốc độ của chúng có nhanh hơn của chúng ta chút ít, nhưng chúng kém ta khi phải vận dụng trong một trận không chiến. Còn về phi công, chúng cũng đủ các cỡ đấy, nhưng đa số, dù sao, cũng đã có kinh nghiệm, sau những trận đánh ở Trung-quốc. Những ngày đầu, chẳng cần phải giấu, chúng cũng có vặt lông chúng ta chút ít. Nhưng bây giờ, ngược lại, chính chúng ta vặt lông chúng. Ở trong chúng ta đã có những phi công kỳ cựu như tôi, nhưng ngay cả những anh em trẻ nữa sau khi đã từng chiến đấu nhiều lần, cũng bắt đầu biết làm ăn cả. Anh phải ghé qua sân bay chúng tôi chơi một lần mới được. Cách đây có mười một cây số thôi. Khi có gió bắc, ở đây cũng nghe rõ tiếng động cơ.
- Tôi không nghe thấy.
- Anh không cỗ lỗ tai của một phi công.
Pô-li-nin để một tay lên tai và đứng một lúc lâu im lặng, nghe.
- Anh có thể nói là không đúng sự thật, nhưng tôi, tôi nghe thấy. Đến đấy với tôi đi, anh sẽ không ân hận đâu. Những sĩ quan lục quân các anh, nói chung là các anh nên đến thăm những sân bay nhiều hơn, để hiểu rõ hơn điều mà các anh có thể đòi hỏi chúng tôi và vào những lúc nào - Các anh đòi hỏi có lúc quá, có lúc lại chưa đến một nửa những cái chúng tôi có thể làm được.
- Tôi rất thích được đến thăm cho anh, nhưng ngay sau khi ra khỏi viện tôi phải có mặt lập tức ở ban tham mưu tập đoàn, và chừng nào mà tôi còn ở đây, thì A-púc-tin, tôi biết anh ta lắm, không phải là người đồng ý để tôi đi đến đó.
Pô-li-nin nhíu lông mày một lát, nhưng rồi nói sang chuyện khác, không nhấn lại nữa.
Trong bệnh viện, người ta rất chóng chán nhau hay ngược lại cũng rất chóng trở thành những người bạn thật sự.
Pô-li-nin hỏi Ác-tê-mi-ép các thứ về những trận đánh diễn ra trong tháng năm và trước sự dũng cảm của người khác, anh tỏ ra ngạc nhiên, sự ngạc nhiên có tí chút ngây thơ của một con người dũng cảm, thấy sự dũng cảm của chính mình là tự nhiên, đến không nhận thấy nó nữa.
Ác-tê-mi-ép, về phía mình, rất chú ý đến những hoạt động của phi đội khu trục của Pô-li-nin - Nhiều người đã chiến đấu ở Tây-ban-nha, và những mẩu chuyện của Pô-li-nin bao giờ cũng chấm dứt bằng những kỷ niệm về Ma-đơ-rít hay Ca-ta-lô-nhơ.
Để giải thích diễn biến của những trận không chiến, Pô-li-nin sử dụng những ngón tay một cách rất hình ảnh. Anh gọi những bạn anh bằng tên tục của mỗi người. Vát-xi-li, A-lếch-dăng, Vích-to, và những cán bộ chỉ huy thì chỉ bằng cấp bậc của họ: chỉ huy đội, chỉ huy trung đoàn, tổng chỉ huy - Những mẩu chuyện anh kể như thể gợi cho người nghe tức khắc một cảm giác đồng chí và cũng cho thấy những nét chính của bản chất con người anh.
Hai ngày sau, khi Pô-li-nin, sau bữa ăn sáng, định đến hỏi A-púc-tin giấy ra viện, anh kéo Ác-tê-mi-ép đi cùng với mình.
- Tôi chẳng hy vọng một tý nào - Ác-tê-mi-ép nói.
- Không cần, anh cứ đi với tôi - Pô-li-nin nói, vẻ cả quyết đến độ Ác-tê-mi-ép thấy không cần phải bàn cãi vô ích.
Năm phút sau, hai người đi vào lều A-púc-tin. Thấy bọ đến, A-púc-tin lấy tay im lặng ra hiệu yêu cầu họ ngồi trên một chiếc băng ca trong lúc anh ngồi trên một chiếc khác tiếp tục ăn xúp đựng trong một chiếc cà-mèn - Sau cùng, anh gác chiếc cùi-dìa trên cà-mèn, đặt chiếc cà-mèn lèn bàn, chậm rãi châm một điếu thuốc và hỏi một giọng mệt mỏi và không ngọt ngào cho lắm:
- Thế nào?
- Anh không bận tâm đến việc gì à? - Pô-li-nin hỏi.
- Chẳng có việc gì cả - A-púc-tin nói bình tĩnh - Anh bảo tôi có thể bận tâm đến việc gì mới được chứ?
- Rất đơn giản - Pô-li-nin nói - đến việc những chiến sĩ của tôi ngày hôm nay chắc đã bay năm chuyến rồi không có tôi.
- Này, anh hãy bỏ những lối ấy đi đối với tôi - A-púc-tin nói - Có lẽ anh tưởng thế là tinh quái lắm, anh quên rằng anh mới nằm ở bệnh viện đây là lần đầu, tôi đã thấy qua tay tôi hơn năm trăm thương binh, trong số đó cứ ba người thì lại có một muốn ra viện sớm như anh; anh hãy tự nhận rằng, chẳng bao giờ anh lại có thể tinh quái hơn tôi về vấn đề này. Anh hãy thành thật trả lời tôi đừng quanh co! Anh muốn ra viện phải không?
- Đúng thế - Pô-li-nin nói.
- Bao giờ?
- Ngay hôm nay.
- Đêm thứ nhất anh ngủ được bao nhiêu tiếng!
- Mười lăm.
- Anh không nói dối chứ? Đừng giận, đây là một thầy thuốc đang hỏi anh.
- Mười bốn.
- Và đêm thứ hai.
- Mười.
- Nếu thế, tôi đồng ý để anh đi. Với điều kiện là anh phải nhờ người ta băng bó cho và mười ngày nữa trở lại đây để cắt những mối chỉ khâu ở tai. Đồng ý không?
- Đồng ý.
- Còn anh? - A-púc-tin hỏi, quay về phía Ác-tê-mi-ép.
- Tôi muốn đề nghị với bác sĩ - Pô-li-nin nói, đột nhiên với một giọng trêu chọc rõ ràng ít khi thấy ở anh đến độ Ác-tê-mi-ép không thể nhịn được cười - tôi muốn đề nghị với bác sĩ cho phép đại úy được đến thăm đơn vị tôi một ngày.
- Để làm gì? - A-púc-tin hỏi, vẻ nghiêm khắc.
- Chơi với tôi - Pô-li-nin nói, thật ra trong bụng cũng ngạc nhiên vì câu hỏi đó.
- Được, nếu thế, thì anh ta cứ việc đi - A-púc-tin nói đột ngột và bảo Pô-li-nin - Anh có một chiếc xe vận tải loại nhỏ phái không? Cho anh ta lên ngồi ca-bin, để lúc đầu anh ta không bị xóc quá và mai anh lại gửi anh ta trở lại đây. Ngày kia tôi sẽ cấp giấy ra viện cho anh ta. Và đừng có rượu nhé.
- Chúng tôi lấy rượu ở đâu và bằng cách nào được? - Pô-li-nin nói với một giọng ngạc nhiên không thành thật lắm.
- Lấy từ Si-ta đến -A-púc-tin nói - Người ta mang đến cho anh cách đây ba ngày, và để uống thật mát các anh đã cho đóng vào chai, và thòng dây cho xuống giếng ngâm cùng với những chai nước khác, để ngụy trang trường hợp cấp trên bất thình lình đến thăm. Đúng không nào?
Pô-li-nin cụt hứng, buông thõng tay xuống.
- Còn anh lái xe và anh thợ chuyên môn đến định đem anh về trong trường hợp tôi không để cho anh đi, họ đang ăn cơm ở phòng ăn ấy. Chính tôi bảo họ đến đấy, để họ đỡ sốt ruột. Anh cần muốn biết thêm điều gì khác nữa không? - A-púc-tin vừa nói vừa đứng dậy, rất thích thú về ấn tượng gây nên.