Being deeply loved by someone gives you strength, while loving someone deeply gives you courage.

Lao Tzu

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Walden
Dịch giả: Hiếu Tân
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 32
Cập nhật: 2023-06-22 21:34:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
9.Những Cái Đầm
ôi khi, chán ngấy giao du với mọi người và những chuyện tầm phào, và mệt lử với những người bạn trong làng, tôi đi lang thang xa hơn về phía tây, vào phần ít tới của thành phố, "đến những cánh rừng tươi xanh và những đồng cỏ mới" [330], hoặc trong khi mặt trời lặn, ăn bữa tối với việt quất trên Đồi Fair-Haven (Bến Đẹp), và để dành cho nhiều ngày tới. Loại quả này không mang lại hương vị thật cho người mua nó, cũng như cho người trồng nó để bán. Chỉ có một cách duy nhất để có được hương vị ấy, nhưng ít người làm theo. Nếu bạn muốn biết hương vị của việt quất, hãy hỏi một cậu chăn bò, hay một chú gà gô. Nếu bạn chưa bao giờ hái việt quất, thì đừng có nói đến mùi vị của nó. Việt quất chưa bao giờ ra đến Boston, ở đó chưa ai biết đến chúng từ khi chúng mọc trên ba quả đồi [331] đó. Mùi hương thần tiên và phần tinh túy nhất của quả bị mất khi lớp phấn trên vỏ nó bị chà đi trên những chuyến xe ra chợ, và trở thành thứ cỏ khô trần tục. Chừng nào Công lí Vĩnh cửu còn ngự trị, không một trái việt quất vô tội nào được chở từ những quả đồi vùng nông thôn đến đó.
Đôi khi, sau khi làm xong phần công việc chăm bón đậu trong ngày, tôi đi cùng một người bạn thiếu kiên nhẫn đã ngồi câu cá trên đầm từ sáng sớm, im lặng bất động như một chú vịt hay một chiếc lá nổi, và sau khi thực hành nhiều triết lí khác nhau, và lúc tôi đến, đã kết luận một cách bình thường rằng anh ta thuộc về giáo phái cổ Coenobite [332]. Có một người già hơn, là người câu cá rất giỏi, và thông thạo tất cả các nghề thuộc về rừng, ông vui lòng coi ngôi nhà của tôi như một ngôi nhà được dựng lên để tạo tiện nghi cho những người đánh cá, còn tôi cũng vui khi ông ngồi trên ngưỡng cửa nhà tôi để sắp xếp các dây câu của ông. Có lần chúng tôi ngồi với nhau trên đầm, ông ngồi trên một đầu thuyền, tôi ở đầu kia, nhưng không nhiều lời trao đổi giữa chúng tôi, vì mấy năm nay ông ngày càng điếc, thỉnh thoảng ông âm ư một bài thánh ca, nó khá hài hòa với triết lí của tôi. Mối quan hệ của chúng tôi như vậy thuận hòa và bền vững, dễ chịu để nhớ hơn là nếu nó được thực hiện bằng lời nói. Thông thường, khi không có gì để đàm luận, tôi thường gây nên một tiếng vọng bằng cách gõ một mái chèo lên mạn thuyền, làm cho những khu rừng xung quanh đầy những âm thanh quay vòng và loang rộng, khuấy động chúng như người dạy thú với bầy dã thú của mình, cho đến khi khơi dậy được một tiếng gầm rền từ thung lũng mọc đầy cây và từ sườn đồi.
Trong những buổi tối ấm áp tôi thường ngồi trong thuyền thổi sáo và nhìn con cá rô [333] dường như đã bị tôi mê hoặc, lởn vởn quanh tôi, và mặt trăng du ngoạn trên đáy nước lăn tăn, rải rác những mảnh vụn của rừng. Trước đây tôi đến đầm này một cách mạo hiểm, thỉnh thoảng, trong những đêm hè tối trời, với một người bạn, và đốt một đống lửa gân mép nước, chúng tôi nghĩ sẽ thu hút cá, chúng tôi câu cá nheo bằng mọt nhúm giun buộc vào một sợi cước, và khi chúng tôi câu được, trong đêm sâu, những cạnh củi cháy dở bay lên không trung như pháo thăng thiên, rơi xuống đầm rồi tắt ngúm với tiếng xèo xèo lớn, và chúng tôi bỗng nhiên phải sờ soạng mò mẫm trong bóng tối hoàn toàn. Cứ như thế, cao hứng huýt sáo, chúng tôi lại tìm đường về nơi trú ngụ của con người. Nhưng bây giờ tôi đã làm nhà bên bờ đầm.
Đôi khi, sau khi ngồi chơi trong một phòng khách ở làng cho đến khi gia đình chủ nhà đi nghỉ, tôi trở về rừng và, nghĩ đến bữa ăn ngày mai, trong đêm khuya tôi đi câu cá trên một cái thuyền dưới ánh trăng, nghe khúc nhạc chiều của lũ cú và cáo, và thỉnh thoảng lại nghe tiếng tích tích của một con chim vô danh ngay gần bên tai. Những trải nghiệm này vô cùng đáng nhớ và đáng quý đối với tôi, thả câu dưới mười hai thước nước, và cách bờ khoảng một trăm năm mươi mét, đôi khi được vây bủa bởi hàng ngàn con cá rô (pecca) và cá diếc [334] ánh bạc, những cái đuôi của chúng làm mặt nước gợn lăn tăn dưới ánh trăng; một sợi dây dài vàng nhạt kết nối tôi với những con cá ăn đêm bí mật ẩn náu dưới mười hai thước nước; hay đôi khi thuyền tôi lướt đi trong làn gió mát của đêm, kéo theo hai chục mét dây trên đầm, tôi cảm thấy có một rung động nhè nhẹ dọc theo dây, báo cho biết có sự sống quanh quất đâu đây ở cuối dây, về mục đích mơ hồ mò mẫm ở đó, và chậm chạp quyết định. Cuối cùng tôi chậm rãi nâng lên, hai bàn tay luân phiên buông bắt kéo, một con cá nheo mắc câu kêu ken két và quằn quại trên không. Thật lạ lùng, đặc biệt trong những đêm tối trời, khi trí óc của bạn đang lang thang trong những chủ đề mang mang vũ trụ, trên những hành trình khác, bạn đã không cảm thấy cái giật rất nhẹ này, nó làm gián đoạn những mơ mộng của bạn và kết nối bạn trở lại với Thiên nhiên. Cứ như thể tôi sau đó có thể quãng dây lên không khí cũng như thả xuống làn nước [335] không hề đặc hơn chút nào. Như vậy tôi đã câu hai con cá bằng một lưỡi câu.
Phong cảnh của đầm Walden khá bình thường, mặc dù cũng đẹp, nhưng không thể gọi là hùng vĩ, cũng không làm bận tâm nhiều đến những người thường xuyên lui tới hay sống bên bờ; tuy nhiên cái đầm này có một độ sâu và độ trong đáng để miêu tả đặc biệt. Nó là một hồ nước xanh trong và sâu, dài đến nửa dặm và chu vi một dặm ba phần tư, rộng khoảng sáu mươi mốt mẫu [336] rưỡi, một nguồn nước lâu năm ở giữa một rừng thông và sồi, không có lối vào hay lối ra nào trừ mây và hơi nước. Những quả đồi xung quanh đột ngột nhô lên trên mặt nước cao bốn mươi đến tám mươi foot [337], mặc dù ở hướng đông nam và đông chúng lên đến hàng trăm và trăm rưỡi foot, tương ứng, trong vòng một phần tư và phần ba dặm. Chúng là khoảng đất rừng riêng biệt. Tất cả những mặt nước ở Concord ít nhất có hai màu, một màu nhìn từ xa, và màu kia nhìn thích hợp hơn, ngay trước mặt. Cái trước phụ thuộc vào ánh sáng và theo sắc trời. Khi thời tiết tốt, mùa hè, chúng có màu xanh da trời ở khoảng cách gần, đặc biệt nếu xao động, và ở một khoảng cách lớn thì tất cả trông giống nhau. Trong mùa dông bão đôi khi chúng có màu xám sẫm. Tuy nhiên, người ta nói biển có màu xanh dương hôm nay nhưng xanh lục hôm khác, mà không có sự thay đổi nào có thể nhận biết trong bầu khí quyển. Tôi đã thấy dòng sông của chúng tôi, khi quang cảnh bị bao phủ bởi tuyết, cả nước và băng hầu như xanh như cỏ. Một số người coi xanh dương "là màu của nước trong, dù lỏng hay rắn". Nhưng, nhìn thẳng xuống nước từ một chiếc thuyền, chúng ta thấy có nhiều màu sắc rất khác nhau. Đầm xanh dương lúc này và xanh lục vào lúc khác, ngay cả từ cùng một điểm nhìn. Nằm giữa đất và trời, nó chia sẻ màu sắc của cả hai. Nhìn từ đỉnh đồi nó phản chiếu màu của bầu trời, nhưng nếu đến gần, thì ở cạnh bờ nơi bạn có thể nhìn thấy cát dưới đáy, nó có màu vàng; rồi chuyển sang xanh lá cây nhạt, rồi đậm dần để hòa với màu lục đậm ở giữa đầm. Dưới ánh nắng gắt, thì dù nhìn từ đỉnh đồi, bạn sẽ thấy ở gần bờ có màu xanh cây chói lọi. Có người cho là nó phản chiếu màu xanh tươi của cây cỏ; nhưng ở phía bờ cát gần với đường sắt, nó vẫn có màu xanh lục, ngay cả vào mùa xuân, khi cây chưa ra lộc; có lẽ đơn giản là kết quả sự pha trộn giữa màu xanh của bầu trời và màu vàng của cát. Đây là màu mắt của đầm Walden. Đây cũng là cái phần gần bờ, vào mùa xuân, lớp băng trên mặt nhận được nhiệt của những tia mặt trời phản xạ từ dưới đáy lên và của bờ truyền qua, tan sớm hơn những chỗ khác và tạo thành một dòng kênh hẹp bao quanh khoảng giữa đầm vẫn còn băng. Giống như những mặt nước khác, khi trời trong và có có mạnh, mặt sóng phản chiếu bầu trời ở một góc thích hợp, hay nói chung nhận được nhiều ánh sáng hơn, nhìn gần nó có một màu xanh dương đậm hơn cả bầu trời; và vào những lúc như thế, ngồi trên mặt đầm nhìn cả trời và nước để thấy sự phản chiếu ấy, tôi thấy rõ một màu xanh biếc tuyệt diệu khôn tả, gợi nghĩ đến những dải lụa hay những lưỡi gươm lấp lánh, xanh hơn bầu trời, luân phiên thay đổi với màu xanh lá cây sẫm ban đầu trên phần đối diện của sóng, xuất hiện cuối cùng nhưng mập mờ hơn. Nó là một màu thủy tinh xanh lam ngả sang lục, và tôi nhớ nó như những mảnh trời mùa đông nhìn qua những đám mây ở đằng tây trước khi mặt trời lặn. Ai cũng biết rằng một chiếc đĩa thủy tinh to sẽ có màu xanh lá cây, do "độ dày" của nó, như những người làm ra nó nói, nhưng một mảnh nhỏ của nó sẽ là không màu. Tôi chưa bao giờ thử xem nước đầm Walden cần có "độ dày" lớn đến đâu để phản chiếu màu xanh lục. Nước những con sông của chúng ta thì đen hoặc nâu rất đậm đối với những ai nhìn thẳng xuống nó, và, giống như phần lớn những cái đầm, vỗ vào thân thể người tắm trong nó một sắc thái ngả vàng, nhưng nước này có độ tinh khiết pha lê đến mức thân thể người tắm ánh lên sắc trắng thạch cao, còn phi tự nhiên hơn, khi các chi vừa bị phóng to vừa vặn vẹo, tạo ra một hiệu quả quái dị, xứng đáng làm hình nghiên cứu cho một Michael Angelo [338].
Nước trong suốt đến mức có thể dễ dàng trông thấy đáy ở độ sâu tám đến mười mét [339]. Chèo thuyền qua, bạn có thể thấy qua nhiều mét dưới mặt nước những bầy cá pecca, cá shiner, có lẽ chỉ dài một inch, nhưng loại cá pecca có thể dễ dàng phân biệt bằng những vạch ngang của chúng, và bạn nghĩ rằng chúng chắc là loài cá khổ hạnh đi tìm kế sinh nhai ở đó. Có lần, vào mùa đông, cách đây nhiều năm, sau khi đã đục một lỗ qua lớp băng để câu cá chó đen, tôi bước đi trên mép lỗ, và quãng chiếc rìu về phía sau, rơi trên mặt băng, nhưng, giống như có một thần ác nào hướng dẫn nó, nó trượt đi hơn mười mét rồi rơi thẳng vào một cái hố sâu khoảng tám mét. Quá ngạc nhiên, tôi nằm xuống trên băng và nhìn xuống lỗ, đến khi nhìn thấy chiếc rìu dựng đứng trên đầu của nó, cán dựng lên và hơi lắc lư theo nhịp chảy của nước đầm, và nó có thể cứ ở đó và lắc lư như thế cho đến khi chiếc cán mục ra, nếu tôi không động đến nó. Tôi đục rộng miệng lỗ ra và đục sâu xuống, bằng cái đục băng tôi mang theo, đục sâu bằng chiều dài của chiếc gậy dài nhất mà tôi có thể kiếm được trong vùng này, tôi làm một chiếc thòng lọng và buộc vào một đầu của chiếc gậy, thả xuống cẩn thận, thòng qua phần to nhất của cán rìu và kéo nó bằng một sợi dây dọc theo gậy, và như thế kéo được chiếc rìu lên.
Ôm quanh bờ đầm là vành đai lượn tròn mềm mại bằng đá trắng giống như đá lát đường, ngoại trừ một vài đoạn cát ngắn và dốc đến nỗi ở nhiều chỗ chỉ một cú nhảy sẽ đưa bạn ngập đầu xuống nước; và nếu như nước không trong suốt đến lạ lùng như thế, sẽ không thấy rõ đáy của nó cho tới tận bờ bên kia. Một số người nghĩ nó không có đáy. Không chỗ nào có bùn, và một người quan sát tình cờ sẽ bảo không có chút rong tảo nào trong đó, còn về những cây dễ nhận thấy, trừ trong những bãi cỏ nhỏ bị ngập gần đây, đúng ra không thuộc cái đầm này, nhìn kĩ thật gần sẽ không thấy một cây cỏ chỉ, không thấy cả một cây hoa loa kèn, vàng hay trắng, mà chỉ thấy một ít cây có lá hình tim nhỏ, và rong lá liễu [340], và có lẽ một hai loài thủy sinh; tuy nhiên tất cả những loài ấy người tắm không nhận thấy được; và những cây này sạch và sáng như cái nguyên tố [341] mà chúng mọc trong đó. Đá cuội trải dài một hai sải [342] trong nước, rồi tiếp đó là đáy cát sạch, ngoại trừ ở những chỗ sâu nhất, nơi thường có một ít cặn lắng, có lẽ từ lá mục bị chìm vào đó trong bao nhiêu mùa thu kế tiếp nhau, và tảo xanh bám chặt vào đó ngay cả giữa mùa đông.
Chúng tôi biết một chiếc đầm khác giống cái này, White Pond, ở Khu Chín Mẫu (Nine Acre Corner) khoảng hai dặm rưỡi về phía tây; nhưng, mặc dù tôi đã biết hầu hết các đầm trong phạm vi mười dặm của vùng này, tôi không thấy cái thứ ba có độ tinh khiết và đặc tính tốt như thế này. Các thế hệ tiếp nhau có thể đã đến uống ở đó, say mê, và thăm dò nó, rồi lần lượt qua đời, nhưng nước của nó vẫn trong xanh như muôn thuở. Cái nguồn này không bao giờ khô cạn. Có lẽ vào mùa xuân Adam và Eve bị đuổi khỏi Eden thì đầm Walden đã có rồi, và tan băng trong một màn mưa xuân dịu dàng kèm theo sương mù và gió nồm nam, và được phủ kín bởi hằng hà những ngỗng và vịt trời, bọn này chưa bao giờ nghe nói về mùa thu, khi những cái hồ trong vắt như thế này là đủ cho chúng rồi. Ngay từ khi đó nó đã bắt đầu lên và xuống, và đã khơi trong nước của nó, đã nhuộm cho nước những màu sắc như nó đang mang bây giờ, và được trời cấp chứng nhận là đầm Walden duy nhất trên thế giới và là bình chưng cất những giọt sương của trời. Ai biết được nó đã là Nguồn nước Castalia [343] khơi nguồn thi hứng cho bao nhiêu văn chương đã bị quên lãng của đất nước? Hay những nữ thần nào đã chủ trì nó trong thời Hoàng kim? Nó là một hạt ngọc mà Concord đính trên vương miện của nàng [344].
Tuy nhiên có lẽ người đầu tiên đến với cái đầm này đã để lại những dấu chân của họ. Tôi đã ngạc nhiên khi đi vòng quanh đầm, ngay ở nơi rừng rậm đã bị đốn hạ bên bờ, phát hiện ra một con đường nhỏ giống như một dải đá trên sườn dốc thoai thoải, lên lên xuống xuống, tiến gần đến mép nước rồi rút ra xa, có lẽ cũng cổ xưa như giống người ở đây, mòn đi dưới bước chân của những thợ săn người bản xứ, và hết lần này đến lần khác bị những bước chân vô ý thức của những người ngày nay chiếm lĩnh mảnh đất này giẫm đạp lên. Nếu một người đứng ở giữa đầm trong mùa đông, sau khi những bông tuyết nhẹ rơi xuống, sẽ thấy rất rõ một đường lượn sóng trắng nhấp nhô rõ nét hiện ra, không bị ngăn trở bởi cỏ dại và những nhánh cây con, và rõ ràng cách một phần tư dặm ở nhiều chỗ mà trong mùa hè khó phân biệt dù ngay gần bên. Tuyết đã in lại nó, như nó vốn thế, trong một kiểu hình đắp nổi màu trắng rõ ràng. Những cái nền trang trí của các biệt thự ngày trước đã được xây ở đây nay vẫn còn lưu lại vài vết tích.
Nước đầm lên rồi xuống, nhưng có đều đặn không và trong thời gian bao lâu, không ai biết, mặc dù, như vẫn thường thế, nhiều người giả vờ biết. Thông thường mực nước cao hơn về mùa đông và thấp hơn trong mùa hè, mặc dù không phụ thuộc khô hạn hay mưa nhiều. Tôi vẫn nhớ khi nó xuống thấp hơn một hai foot, cũng như khi nó lên cao hơn ít nhất năm foot, so với khi tôi sống ở đó. Có một dải cát hẹp chạy vào nó, một bên nước rất sâu, trên đó vào khoảng năm 1824, tôi đã đun một nồi xúp cá, tại một điểm cách bờ chính cả trăm mét, mà trong hai mươi lăm năm, đã không có thể làm được việc đó. Mặt khác, bạn bè của tôi thường nghe với vẻ ngờ vực khi tôi bảo họ rằng mấy năm sau đó tôi thường câu cá trên thuyền trong một cái vũng kín đáo trong rừng, cách cái bờ duy nhất mà họ biết hơn bảy chục mét, nơi từ đó đến nay đã biến thành bãi cỏ. Nhưng nước đầm cứ dâng lên đều đặn trong hai năm, và bây giờ, mùa hè năm 1852, nó chỉ cao hơn hồi tôi sống ở đấy năm foot, hoặc cao bằng mực nước cách nay ba mươi năm, và lại có thể câu cá trên bãi cỏ. Độ chênh về mực nước đến sáu bảy foot, mà nước từ những quả đồi xung quanh chảy vào không đáng kể, nên sự tăng lên này chắc do tác động của những dòng nước ngầm. Cũng trong mùa hè này nước đầm lại bắt đầu rút xuống. Đáng chú ý là sự thay đổi này, dù có chu lờ hay không, cần đến nhiều năm để diễn ra. Tôi đã chứng kiến một lần lên và hai lần xuống, và tôi hi vọng rằng mươi mười lăm năm kể từ đây nước lại xuống thấp như tôi đã từng biết. Đầm Flint cách một dặm về phía đông, và cũng là đầm nhỏ hơn cỡ trung, thông với Walden, và gần đây đạt được mực nước cao nhất cùng thời gian với Walden. Điều này, theo quan sát của tôi, cũng đúng với đầm Trắng (White Pond).
Sự lên xuống của nước đầm Walden trong những quãng cách thời gian dài ít nhất có cái lợi này, là mực nước đứng ở độ cao trong một năm hoặc hơn (mặc dù như vậy khó đi quanh nó), giết chết những bụi cây và cây chồi lên quanh mép của nó từ lần nước lớn trước - thông có nhựa (pitch-pine), bạch dương, cây tông quản sủi (alder), dương lá rung (aspen), và những thứ cây khác - và khi nước rút xuống, nó để lại bờ không có gì vướng cản, vì, không giống như nhiều đầm khác hay những sông ngòi chịu tác động của thủy triều lên xuống hằng ngày, bờ của nó là quang quẻ nhất khi nước rút xuống thấp nhất. Bên bờ đầm cạnh nhà tôi, một hàng pitch-pine cao bốn năm mét đã bị chết và đổ nghiêng như bị người ta dùng đòn bẩy bẩy lên, như vậy sự xâm lấn của rừng đã bị chặn lại, và từ kích thước của cây có thể biết được từ lần cuối nước lên đến độ cao này đến nay bao nhiêu năm đã trôi qua. Nhờ sự lên xuống của nước, đầm khẳng định quyền sở hữu của nó đối với bờ, và như vậy bờ (shore) bị xén lông (shorn), tức là những cây kia không có quyền đứng đó. Đây là những cái môi của hồ và râu không mọc trên đó. Nó lâu lâu lại liếm lên má của nó. Khi nước lên đến độ cao nhất của nó, những cây tổng quản sủi, cây liễu, cây thích, thân ngập trong nước, tỏa những bộ rễ đỏ xơ của chúng từ mọi phía, dài đến mấy foot và cao đến 3, 4 foot, để cố gắng tự duy trì, và tôi biết có những bụi việt quất cao quanh đầm, thường không ra trái, nhưng trong điều kiện này cho một mùa trái trĩu trịt.
Nhiều người thấy lạ lùng sao bờ đầm được lát đá đều đặn đến thế. Những người đồng hương với tôi đều đã được nghe về truyền thống này, những người già nhất kể với tôi rằng thời trẻ họ đã nghe từ xa xưa rằng những người Anhđiêng đã tụ tập trên một quả đồi ở đây, cao lên đến tận trời khi cái đầm thụt sâu xuống đất, và họ đã nói nhiều lời lẽ báng bổ, theo truyện kể, mặc dù đây là một trong những thói xấu mà người Anhđiêng không bao giờ mắc phải, và trong khi họ đang mải miết làm thế thì quả đồi bỗng nhiên rung lên và sập xuống, chỉ có một bà già Anhđiêng tên là Walden thoát được, và cái đầm được đặt theo tên bà. Người ta cho rằng khi quả đồi rung lên, những hòn đá đã lăn xuống và tạo thành bờ đầm như ngày nay. Dù sao, có một điều chắc chắn rằng ngày xưa không có cái đầm nào ở đây, và bây giờ có một cái; và câu chuyện ngụ ngôn Anhđiêng này không có khía cạnh nào mâu thuẫn với mô tả về người định cư cổ xưa mà tôi đã nhắc đến, anh ta nhớ rất rõ rằng khi lần đầu tiên tới đây với chiếc que dò mạch nước, anh ta đã thấy một làn hơi nước mỏng bay lên từ bãi cỏ, và cây gậy bằng gô phỉ cứ chỉ thẳng xuống, nên anh ta quyết định đào một cái giếng ở đây. Còn về đá, thì nhiều người vẫn nghĩ chúng khó mà được cân đo bằng tác động của sóng lên những quả đồi này, nhưng tôi quan sát thấy rằng những quả đồi bao quanh đầm đầy những hòn đá cùng một loại, đến nỗi người ta buộc phải xếp chồng chúng lên thành những bức tường ở cả hai bên đoạn đường ray xe lửa chạy gần nhất với đầm; và hơn nữa có nhiều đá nhất ở nơi bờ dốc đứng nhất; do đó, không may nó chẳng có gì là bí mật với tôi nữa. Tôi đã phát hiện ra người lát. Nếu cái tên này, Walden, không rút ra từ những cái tên tiếng Anh của địa phương, Saffron Walden [345] chẳng hạn, người ta có thể cho rằng ban đầu nó được gọi là Walled-in Pond (cái đầm được xây tường xung quanh).
Cái đầm này là cái giếng được đào sẵn cho tôi. Bốn tháng trong một năm nước của nó lạnh cũng như quanh năm lúc nào cũng trong, và tôi nghĩ nó tốt như bất kì cái giếng nào trong thành phố, nếu không phải là tốt nhất, về mùa đông, tất cả những mặt nước lộ thiên lạnh hơn những mạch nước ngầm và những cái giếng được che phủ. Tôi ngồi trong phòng từ năm giờ chiều đến trưa hôm sau, ngày 6 tháng Ba, 1846, nhiệt kế có lúc chỉ lên đến 15,5° (C) hay 21,1° một phần do nắng trên mái nhà, thì nhiệt độ của nước đầm là 5,5° thấp hơn một độ so với nước vừa múc lên từ một cái giếng lạnh nhất trong làng. Nhiệt độ của Suối Nước Sôi [346] cùng ngày là 7,2°, ấm hơn bất kì thứ nước nào được thử, mặc dù trong mùa hè nó là lạnh nhất mà tôi biết, khi nó không bị nước của những ao nông và tù đọng hòa lẫn vào. Hơn nữa, trong mùa hè, do độ sâu của nó, Walden không bao giờ ấm lên như phần nhiều những nước lộ ra dưới ánh mặt trời. Khi trời nóng nhất tôi thường đặt một xô nước trong buồng, nó sẽ trở nên mát vào ban đêm, và tôi vẫn để thế cả ngày, mặc dù tôi cũng hay ra nghỉ bên một dòng suối gần đó. Sau một tuần nước vẫn ngon như vừa mới múc lên, và không có mùi máy bơm. Bất kì ai cắm trại một tuần vào mùa hè bên bờ một cái đầm, chỉ cần chôn một xô nước xuống sâu vài foot trong bóng mát thì chẳng cần đến nước đá nữa.
Trong đầm Walden có khi câu được cá măng [347] mỗi con nặng đến bảy pound [348], chưa nói đến một con khác lôi cả dây câu đi với tốc độ lớn, mà người câu đoán chừng nó phải đến tám pound vì ông ta không nhìn thấy nó, cá pecca và cá nheo, mỗi loại nặng hơn hai pound, shiner, chivin, hay cá rutilut (Leuciscus pulchellus,) rất ít cá tráp, và một vài con lươn, có con nặng đến bốn pound, và chúng là những con lươn duy nhất mà tôi từng nghe nói đến ở đây; tôi nói kĩ như vậy bởi vì trọng lượng của con cá câu được là minh chứng duy nhất cho danh tiếng của đầm; tôi cũng có một kí ức mờ nhạt về một con cá nhỏ dài khoảng năm inch [349], hai bên ánh bạc và lưng xanh lá cây nhạt, về đặc tính của nó hơi giống cá dace [350], mà tôi nhắc đến ở đây chủ yếu để lấy thực tế để củng cố cho truyền thuyết. Tuy nhiên cái đầm này không nhiều cá sinh sôi nảy nở. Những con cá chó đen, dù không nhiều, là niềm kiêu hãnh chủ yếu của nó. Có lần tôi đã thấy nằm trên băng ít nhất ba loại cá chó đen khác nhau, một loại dài và dẹt, màu thép, rất giống với những con cá câu được trên sông; một loại màu vàng sáng, phản chiếu ánh sáng xanh lục nhạt, và rất sâu, loại này phổ biến nhất ở đây; và một loại khác, màu vàng kim, hình dáng giống như loại trên, nhưng ở hai bên có những chấm nhỏ thưa màu vàng đậm và đen, pha một ít chấm nhỏ màu đỏ như máu nhạt, và rất giống cá hồi. Cái tên riêng reticulatus [351] không áp dụng cho loài này, gọi nó là guttatus [352] thì đúng hơn. Nó là một con cá chắc nịch, có cân nặng lớn hơn cân nặng mà kích thước của nó hứa hẹn. Những con cá tuế vàng (shiners), cá nheo, và pecca cũng vậy, và quả thật tất cả những con cá sống trong đầm này đều sạch hơn, đẹp hơn, và chắc thịt hơn những con sống ở sông hay hầu hết các đầm khác, và vì nước trong hơn nên dễ phân biệt chúng với những con ấy. Có lẽ nhiều nhà ngư học sẽ định ra nhiều giống mới từ những loài cá này. Trong đầm còn có những loài ếch và rùa sạch, và một ít trai, chuột nước, chồn vizon, để lại nhưng dấu vết của chúng, và thỉnh thoảng một chú rùa-bùn (mud-turtle - loài rùa nhỏ sống dưới đáy ao đầm sông suối) chu du đến thăm đầm này. Đôi khi, buổi sáng tôi chèo thuyền ra, tôi đã làm kinh động một chú rùa- bùn ẩn mình dưới thuyền trong đêm. Vịt và ngỗng trời thường tới đây vào mùa xuân và mùa thu, nhạn bụng trắng (Hirundo bicolor) bay là đà trên mặt đầm, chim bói cá phát ra tín hiệu báo động của chúng và những con peetweet [353] (Totanus macularius) gáy te te dọc bờ đá suốt mùa hè. Đôi khi tôi làm kinh động một con ó biển đậu trên cành một cây thông trắng trên nước; tôi tự hỏi liệu nó có bao giờ bị một con mòng biển xúc phạm, như Fair Haven không. Nhiều nhất thì nó phải chịu đựng một con chim lặn gavia lui tới đây hằng năm. Đây là tất cả những động vật quan trọng thường lui tới đầm này.
Khi thời tiết tốt, bạn có thể nhìn thấy từ một chiếc thuyền, gần bờ cát hướng đông, nơi nước sâu khoảng tám đến mười foot, cũng như ở một số phần khác của đầm, một đống tròn đường kính sáu foot, chiều cao một foot, gồm những viên đá nhỏ hơn quả trứng gà, ở nơi xung quanh toàn là cát. Đầu tiên bạn tự hỏi có phải người Anhđiêng đã xếp chúng thành hình trên băng cho một mục đích nào đó, và khi băng tan đi, chúng chìm xuống đáy; nhưng chúng quá tròn trịa và một số viên rõ rang còn quá mới, nên chuyện đó khó xảy ra. Chúng giống như những đống đá thấy trong các dòng sông, nhưng vì ở đây không có cá mút đá, tôi không biết chúng được làm ra bằng loại cá nào. Có lẽ chúng là những cái tổ của cá bống [354] (chivin). Những đống đá này mang lại cho đáy đầm một bí mật thú vị.
Bờ đầm không đều lắm nên không bị đơn điệu. Trong tâm tưởng, tôi hình dung bờ hướng tây lõm vào với những hõm sâu, bờ phía bắc dốc đứng, và bờ nam kiểu vỏ sò đẹp, nơi những hang động liên tiếp lấn lên nhau tạo thành những vịnh chưa có ai thăm dò. Rừng sẽ là một phong cảnh tuyệt đẹp, khi được nhìn từ giữa một cái hồ nhỏ ở giữa những quả đồi nhô lên từ mép nước; vì nước phản chiếu nó không chỉ tạo thành cái cận cảnh tốt nhất, mà, với dải bờ lộng gió của mình, còn tạo thành cái ranh giới tự nhiên và dễ thương nhất cho nó. Những bìa rừng không có vẻ thô và kém hoàn thiện, như ở nơi bị đốn chặt một phần, hay những mảnh đất trồng tiếp giáp với nó. Cây cối có một khoảng rộng để lan ra đến mép nước, và chúng tỏa những cành khỏe mạnh nhất về hướng đó. Ở đây Thiên nhiên đã đan một đường diềm tự nhiên, và mắt ngước dần lên từ những bụi cây thấp của bờ đến những ngọn cây cao nhất. Ở đây dường như chưa có dấu vết của con người. Nước đầm đã tắm rửa cho bờ như từ nghìn năm nay rồi.
Một cái hồ là nét đẹp và ấn tượng nhất của phong cảnh. Nó là con mắt của đất, nhìn vào nó, người nhìn đo được độ sâu thẳm của bản chất của chính mình. Những cây cối ven bờ là hàng lông mi thanh viền quanh nó, còn những quả đồi có cây và những vách đá bao quanh là những lông mày nhô ra của nó.
Đứng trên bãi cát mịn ở bờ đông của đầm, trong một chiều tháng Chín, khi màn sương nhẹ che mờ bờ bên kia, tôi hiểu ra thành ngữ "mặt gương của hồ" từ đâu đến. Khi bạn lộn ngược đầu [355], trông nó giống như sợi tơ của một tấm sa mỏng trải vắt qua thung lũng, và hắt sáng tới những cánh rừng thông xa xa, tách một tầng không khí ra khỏi một tầng khác. Bạn sẽ có cảm tưởng như bạn có thể bước đi qua nó sang đến những quả đồi bờ bên kia, và những con nhạn đang chao cánh bay có thể đậu trên nó. Quả thật, đôi khi chúng lặn xuống qua đường phân cách, như thể bị nhầm, và tỉnh ra. Khi nhìn qua đầm sang hướng tây, bạn buộc phải dùng cả hai bàn tay che mắt tránh ánh phản chiếu của mặt trời và ngay cả mặt trời thật, vì chúng sáng ngang nhau; và nếu, giữa hai nguồn sáng ấy, bạn quan sát kĩ lưỡng mặt đâm, thì đúng là nó phẳng mịn như gương, chỉ trừ phi loài skater [356] theo những quãng cách đều đặn, rải rác khắp mặt đầm, bằng những chuyển động của chúng tạo ra những lóe sáng li ti; hay có khi một con vịt tự rỉa lông, hay như tôi đã nói, một con nhạn chao liệng là là như chạm vào mặt nước, ở khoảng cách xa có thể coi một con cá tung mình lên không như một cầu vồng ba, bốn foot trong không khí, lóe sáng khi nó xuất hiện, và lóe lần nữa khi nó đập xuống nước; đôi khi hiện ra cả một vòng cung ánh bạc; hoặc đó đây, có lẽ, một nùi bông nhẹ chứa những hạt của cây kế [357] trôi nổi trên mặt nước, và những con cá lao tới lại làm mặt đầm gợn sóng lăn tăn. Nó giống như thủy tinh nấu chảy, được làm nguội nhưng chưa đông lại, và một ít hạt bụi trong nó trông tinh khiết và đẹp như những bọt khí trong thủy tinh. Bạn có thể thường nhận thấy trên mặt đầm có một mảng nước láng hơn và sẫm hơn, tách khỏi phần còn lại như thể bởi một mạng nhện vô hình, chiếc cầu nổi cho những nàng tiên cá nằm nghỉ. Từ trên một đỉnh đồi bạn có thể trông thấy một con cá nhảy ở bất cứ chỗ nào, một con cá rô hay cá tuế vàng đớp một con côn trùng từ mặt nước êm đềm này, nhưng rõ ràng nó làm rộn sự yên ả của cả mặt đầm. Sự kiện đơn giản này - một con cá đớp mồi trên mặt nước - hiện ra rõ ràng một sự cách kì lạ, và từ chỗ đứng xa của mình tôi nhận ra những vòng sóng lan toả rộng ra đến ba chục mét đường kính. Thậm chí bạn cũng có thể nhận ra một con rệp nước (Gyrinus) tiến lên không ngừng trên mặt nước phẳng lặng cách xa phần tư dặm; nó cày lướt trên mặt nước, tạo nên một gợn sóng lăn tăn dễ thấy ranh giới bởi hai đường rẽ ra, nhưng những con skater trượt trên mặt nước lại không làm gợn mảy may. Khi mặt nước xao động nhiều, không có con skater hoặc con rệp nước nào trên đó, nhưng rõ ràng là, trong những ngày êm lặng, chúng rời nơi trú ẩn để và liều lĩnh trượt từ bờ ra từng đợt ít một cho đến khi chúng hoàn toàn bao phủ mặt đầm. Vào một trong những ngày thu đẹp khi ta được hoàn toàn tận hưởng hơi ấm của mặt trời, thật dễ chịu khi ngồi trên một gốc cây ở một độ cao như thế này, nhìn bao quát đầm, và ngắm những vòng tròn lan tỏa không ngừng in trên mặt nước - nếu không có chúng thì mặt nước trở nên vô hình - giữa những mảng trời được phản chiếu và cây cối. Trên bề mặt mênh mông này không có gì gây xao động, nhưng nếu có thì lập tức lặng xuống êm ả trở lại và dãn các nếp nhăn của nó, giống như nước trong một cái bình bị chấn động, những vòng tròn rung động hướng đến bờ và tất cả lại trở lại êm đềm. Không có con cá nào nhảy vọt lên hay con côn trùng nào rơi xuống nhưng nếu có thì mặt đầm hiện ra những gợn sóng tròn, theo những đường đẹp đẽ, như sự phun trào thường xuyên của mạch nguồn của nó, mạch đập êm dịu của đời sống của nó, sự phập phồng của bộ ngực của nó. Run lên vì vui mừng hay run lên vì đau vốn không phân biệt được. Biểu hiện của cái hồ này thanh bình biết bao. Một lần nữa những công việc của con người tỏa sáng như trong mùa xuân. Mỗi chiếc lá mỗi cành cây mỗi hòn đá và mạng nhện vào giữa buổi trưa này lóng lánh như khi bị màn sương bao phủ vào một buổi sáng mùa xuân. Mọi chuyển động của một mái chèo hay một con côn trùng tạo ra một chớp lóe sáng; và nếu một mái chèo rơi, thì tiếng ngân mới dịu ngọt làm sao!
Trong một ngày như thế, tháng Chín hay tháng Mười, Walden là một tấm gương tuyệt hảo của rừng, xung quanh là những tảng đá mà trong mắt tôi, chúng như thể quý hiếm. Không có gì đẹp đẽ, trong trẻo, đồng thời lại lớn như một cái hồ, tình cờ, nằm trên trái đất. Nước trời. Không cần rào giậu. Các dân tộc đến và đi mà không làm nhơ bẩn nó. Nó là một tấm gương mà không hòn đá nào làm vỡ được, lớp thủy ngân của nó không bao giờ mòn, lớp mạ tự nhiên của nó liên tục được sửa chữa; không bão tố nào, không bụi bặm nào có thể làm mờ bề mặt luôn sáng trong như mới của nó; một tấm gương mà tất cả những gì không trong sạch hiện ra và bị quét đi, bị phủi đi bằng chiếc chổi sương của mặt trời - tấm giẻ lau bụi nhẹ nhàng ấy - nó không giữ lại hơi thở người ta đã thở lên nó, nhưng phả hơi thở của chính nó cho trôi như mây cao bên trên nó, và được phản chiếu trong bề mặt phẳng lì của nó.
Một mảng nước phản chiếu linh hồn trong không gian. Nó liên tục nhận được sự sống mới và chuyển động mới từ trên cao. Trong bản chất của nó, nó là trung gian giữa đất và trời. Trên mặt đất chỉ có cỏ cây reo vẫy như sóng, nhưng bản thân nước gợn sóng lăn tăn nhờ gió. Tôi biết nơi gió nhẹ lướt qua nó nhờ những sọc hay những đốm sáng. Được nhìn từ trên cao xuống mặt nước đầm thì thật tuyệt. Có lẽ cuối cùng rồi chúng ta cũng sẽ nhìn xuống bề mặt của không khí như vậy, và nhận ra nơi nào một linh hồn còn vi tế hơn quét qua nó.
Bọn côn trùng chân dài (skater) và rệp nước cuối cùng biến mất vào cuối tháng Mười, khi sương mù dày đặc; và sau đó vào tháng Mười Một, thông thường trong một ngày êm ả, tuyệt đối không có gì lăn tăn trên bề mặt. Một buổi tối tháng Mười Một, trong cái yên lặng vào cuối một cơn mưa dông kéo dài nhiều ngày, khi bầu trời còn phủ mây hoàn toàn và không khí đầy sương, tôi thấy đầm êm dịu lạ thường, do đó thật khó nhận ra đâu là mặt của nó; dù nó không còn phản chiếu những sắc màu tươi sáng của tháng Mười, mà là những màu tối tăm ảm đạm tháng Mười Một của những quả đồi xung quanh. Mặc dù tôi đã cố đi qua nó một cách nhẹ nhàng nhất, những lọn sóng nhỏ tạo ra bởi thuyền của tôi lan rộng ra gần như đến hết tầm nhìn của tôi, và làm nhăn nheo những hình ảnh phản chiếu. Nhưng khi nhìn lên mặt nước, tôi thấy đó đây xa xa le lói một ánh sáng mờ mờ, như thể một số côn trùng chân dài đã thoát khỏi màn sương giá nơi đó, hay có lẽ, bề mặt vốn quá êm dịu như thế, đã để lộ ra nơi một nguồn nước từ dưới đáy tuôn lên. Chèo thật êm đến một trong những nơi như thế, tôi ngạc nhiên thấy mình bị bao vây bởi vô số những cá rô nhỏ, dài khoảng năm inch, một màu đồng lộng lẫy trong màu nước xanh lục, đang đùa giỡn ở đó, và liên tục nhảy lên khỏi mặt nước làm nó gợn sóng lăn tăn, đôi khi để lại những bong bóng trên đó. Trong làn nước trong veo và dường như không đáy như thế, phản chiếu những đám mây, tôi thấy mình dường như đang nổi lên trong không khí như một quà bóng bay, và lũ cá bơi gây cho tôi ấn tượng như một kiểu bay lượn, như thể chúng là một đàn chim dày đặc đang bay qua bên dưới tôi bên trái bên phải, những cái vây của chúng giống như những cánh buồm. Có nhiều những bầy cá như thế trong đầm rõ ràng làm dễ chịu khoảng thời gian ngắn trước khi mùa đông kéo cánh cửa chớp băng giá trên cửa trời [358] rộng rãi của nó, đôi khi mang đến cho mặt đầm một vẻ ngoài như thể có một cơn gió nhẹ thổi vào nó, hay vài giọt mưa rơi. Khi tôi thận trọng đến gần và đánh thức chúng, chúng đột ngột quẫy tung làm mặt nước gợn sóng bằng những cái đuôi của chúng, như thể người ta đập nước bằng một cành cây lởm chởm, và lập tức trốn biệt xuống đáy. Cuối cùng gió nổi lên, và sương mù xuất hiện, sóng bắt đầu nổi, và đàn cá rô nhảy cao hơn trước, nửa mình lên khỏi mặt nước (tạo thành) hàng trăm chấm đen dài ba inch trên mặt nước. Thậm chí có năm đến tận mồng năm tháng Mười Hai, tôi thấy một số gợn sóng trên mặt nước, và nghĩ chắc mưa sẽ nặng hạt ngay bây giờ, bầu không khí đầy sương mù, tôi vội vàng nắm lấy mái chèo chèo về nhà, tưởng như mưa đã đổ xuống càng lúc càng mau, má tôi tê dại đi, và tôi chắc chắn sẽ ướt sũng. Nhưng bỗng nhiên những đợt sóng ngừng lại, vì vừa rồi chúng được tạo ra bởi lũ cá, mà mái chèo của tôi khua động dưới tầng sâu, và tôi đã lờ mờ trông thấy đàn cá biến đi; như vậy rốt cuộc cả buổi chiều ấy tôi vẫn khô ráo.
Một ông già thường lui tới đầm này gần sáu chục năm trước, khi những khu rừng xung quanh còn tối đen rậm rạp, nói với tôi rằng, thời ấy đôi khi ông thấy cả đầm sống động với những con vịt và chim nước, và quanh đó có nhiều đại bàng. Ông đến đây để câu cá, và dùng một chiếc thuyền độc mộc cũ mà ông thấy ở trên bờ. Nó được làm bằng hai thân cây thông trắng gắn lại với nhau, hai đầu cắt vuông. Trông nó thật thô kệch khó coi, nhưng đã qua được rất nhiều năm, cuối cùng có lẽ bị ngấm nước và chìm dưới đáy. Ông ấy không biết nó là của ai; nó thuộc về đầm. Ông thường buộc dây cáp vào neo làm bằng những lớp vỏ gỗ mại châu cột lại với nhau. Một ông già đi lang thang, sống ở bên đầm trước Cách mạng, có lần nói với ông rằng có một cái hòm sắt ở dưới đáy, và ông ta đã nhìn thấy nó. Đôi khi nó có thể trôi đến bờ, nhưng khi anh đến gần, nó lặn xuống đáy sâu và mất dạng. Tôi thích nghe câu chuyện về chiếc thuyền độc mộc, nó giống như chiếc thuyền của người Anhđiêng, cùng thứ vật liệu nhưng cấu trúc thanh nhã hơn, vốn có thể là cây gỗ đầu tiên trên bờ và sau đó, khi xuống nước, nó nổi trên đó suốt cả một thế hệ, là thứ thuyền bè thích hợp nhất để đi trên hồ. Tôi nhớ rằng khi lần đầu nhìn vào khoảng nước sâu ấy tôi thấy rõ có nhiều thân cây to nằm dưới đáy, chúng có thể hoặc trước đây bị gió thổi ngã, hoặc bị để nằm lại trên băng sau đợt đốn cuối cùng, khi ấy gỗ rẻ hơn; nhưng nay chúng hầu như đã biến mất.
Khi tôi chèo thuyền trên đầm Walden lần đầu tiên, nó còn được vây quanh bởi những cánh rừng thông và sồi rậm rạp và cao ngất, và ở vài nơi, những dây nho còn leo lên những cây gần mép nước tạo thành những vòm lá mà thuyền có thể bơi qua bên dưới. Những quả đồi làm thành bờ rất dốc, và cây mọc trên chúng rất cao, đến mức khi bạn từ bờ hướng tây nhìn xuống, trông nó như một loại khán đài hình vòng cung cho các khán giả đồng quê. Khi còn trẻ tôi đã bỏ ra nhiều giờ bơi thuyền trên mặt đầm khi gió tây thổi, sau khi đưa thuyền ra giữa đầm, và nằm ngửa vắt người qua các ghế trong một buổi sáng mùa hè, mơ mộng trong lúc thức, cho đến khi mái chèo chạm cát làm tôi sực tình, và tôi trở dậy xem số phận đã đưa đẩy tôi đến bờ nào; những ngày mà sự biếng nhác là hấp dẫn nhất và được việc nhất. Nhiều buổi sáng tôi đã chuồn đi, muốn dùng phần có giá trị nhất của ngày theo cách ấy; vì tôi nếu không giàu có về tiền bạc, thì cũng giàu những giờ nắng và những ngày hè, nên đã sử dụng chúng một cách hoang phí; tôi cũng không tiếc vì đã để chúng bị uổng phí hơn trong xưởng hoặc bàn thầy giáo [359]. Nhưng từ khi tôi rời khỏi bờ đầm này, những người thợ đốn gỗ vẫn tiếp tục làm cho nó hoang tàn và trong nhiều năm nay đã không còn những cuộc ngao du qua những con đường mòn trong rừng, từng quãng lại có khe hẹp qua đó có thể nhìn thấy nước. Nếu từ nay trở đi Nàng Thơ của tôi im tiếng thì nên thông cảm với nàng. Làm sao bạn có thể mong lũ chim kia cất tiếng hót khi lùm cây của chúng đã bị chặt?
Bây giờ những thân cây nằm dưới nước, và chiếc thuyền độc mộc cũ, và rừng cây tối sẫm bao quanh, đã mất, và những dân làng, những người chỉ vừa mới biết nó nằm ở đâu, chứ không phải đã từng đến đầm để tắm hoặc để uống, đang nghĩ đến chuyện đem nước về làng trong một đường ống [360], để rửa chén bát, thứ nước lẽ ra phải thiêng liêng như nước sông Hằng [361]! - để có được Walden của họ bằng cách vặn một cái vòi hay kéo một cái chốt! Con Ngựa sắt độc địa đó, mà tiếng hí xé toang lỗ tai của nó cả thành phố đều nghe thấy, đã khuấy tung bùn Suối Nước Sôi bằng chân của nó, và chính nó đã gặm nát tất cả những cánh rừng bên bờ Walden; con ngựa thành Troy [362] ấy, với một nghìn người trong bụng nó, đã được những tên Hi Lạp hám lợi đưa vào! Đâu rồi người anh hùng của đất nước, chàng Moore của Moore Hall [363], để đón đầu nó ở "Vết Cắt Sâu" (Deep Cut [364]) và đâm một nhát thương báo thù vào mạng sườn của loài sâu bọ phá hại béo phì này?
Tuy nhiên, trong tất cả những tính cách của Walden mà tôi đã biết, có lẽ sự tinh khiết [365] là đức tính tốt nhất mà nó mang và lưu giữ được. Nhiều người đã được so sánh với nó, nhưng ít ai xứng đáng với vinh dự ấy. Mặc dù những người thợ rừng đã đốn trọc hết bờ này đến bờ khác, và những người Ai Len đã xây những chuồng lợn của họ ở đấy, và đường sắt đã xâm phạm ranh giới của nó, và những người thợ đục băng đã có lần lướt qua, và bản thân nó thì không thay đổi, vẫn là nước mà đôi mắt thời trẻ của tôi đã nhìn, tất cả mọi thay đổi là ở nơi tôi. Tất cả những gợn sóng của nó không để lại một nếp nhăn vĩnh cửu nào cả. Nó vĩnh viễn trẻ trung, và tôi có thể đứng nhìn một con nhạn lao mình xuống mổ một con sâu trên mặt đầm như hồi nào. Đêm nay tôi lại ngạc nhiên như thể tôi chưa hề nhìn thấy nó hằng ngày trong suốt hai mươi năm, - Đây là Walden sao, cũng vẫn cái hồ trong rừng mà tôi phát hiện ra cách đây nhiều năm; nơi một cánh rừng bị đốn mùa đông năm ngoái một khu rừng khác đang bật lên bên những bờ của nó cường tráng hơn bao giờ hết; cùng luồng suy tưởng tuôn ra trên mặt của nó, cùng một niềm vui dịu dàng và niềm hạnh phúc đối với bản thân nó và Kẻ Sáng tạo ra nó, chà, có thể chính là tôi. Chắc chắn đó là công trình của một con người can đảm, trong đó không có sự gian dối nào! Ông khoanh tròn nước này bằng bàn tay ông, đào sâu và khơi trong nó trong ý nghĩ của ông, và trong di chúc của mình ông di tặng nó cho Concord. Tôi thấy trên bề mặt của nó rằng nó được cùng một suy tưởng viếng thăm, và tôi hầu như có thể nói - Walden, ngươi đấy ư?
Không phải trong giấc mơ
Tôi trang trí một đường
Tôi không thể tới gần Chúa và Thiên đường hơn một chiều Walden
Tôi là bờ đá của nó,
Và con gió mát thổi qua
Trong hốc tay tôi
Là nước và cát của nó
Và nguồn sâu nhất của nó
Nằm cao trong suy nghĩ của tôi.
Những toa xe lửa không bao giờ dừng lại để nhìn nó; nhưng tôi tưởng tượng thấy những thợ máy, thợ đốt lò và người điều khiển phanh và những hành khách ấy có một vé mùa và thường xuyên thăm nó, là những người tốt hơn đối với quang cảnh này. Vào ban đêm người thợ máy không quên, vì bản chất anh ta là không quên, rằng anh đã nhìn thấy cảnh thanh bình và trong trẻo này ít nhất một lần trong ngày. Dù chỉ trông thấy một lần, nó cũng giúp gột rửa sạch State Street [366] và than bụi của đầu máy. Người ta [367] đã đề nghị gọi nó là "Giọt nước của Trời".
Tôi đã nói rằng Walden không có đầu vào và đầu ra, nhưng nó một mặt được nối từ xa và gián tiếp với đầm Flint, nằm cao hơn, bằng một chuỗi những đầm nhỏ trong khu vực đó, và mặt khác nối trực tiếp và lộ thiên với Sông Concord, nằm thấp hơn, bằng một chuỗi đầm tương tự, mà trong một thời kì địa chất nào đó có lẽ nó đã chảy vào, và nay chỉ cần đào lại một chút (nhưng điều này Chúa cấm) là nó lại có thể chảy ra đấy. Nếu sống giản dị và kín đáo thế này, giống như một ẩn sĩ trong rừng, nó đã đạt được sự trong sạch kì diệu như thế, ai mà không tiếc khi nước đầm Flints tương đối kém hơn trong có thể được hoà trộn với nó, hay khi bản thân nó phung phí sự ngọt lành của nó vào sóng đại dương?
Đầm Flint, hay Đầm Cát, ở Lincoln, cái hồ lớn nhất của chúng ta, hay biển trong đất liền, nằm cách Walden chừng một dặm về phía đông. Nó lớn hơn nhiều, nghe nói nó rộng đến một trăm chín mươi bảy mẫu, và nhiều cá hơn; nhưng nó tương đối nông và không cực kì trong. Đi bộ xuyên qua rừng đến đó thường là cách tiêu khiển của tôi. Thật đáng công, chỉ để cảm thấy gió thổi tự do trên gò má bạn, và nhìn những làn sóng chạy và nhớ đến đời thủy thủ. Mùa thu tôi đi nhặt hạt dẻ ở đó, trong những ngày gió, khi hạt dẻ rụng xuống nước và dạt vào chân tôi, và một ngày, khi tôi đi rón rén dọc theo ven bờ đầy lau sậy của nó, một cành tươi quất vào mặt tôi, tôi đi về phía một chiếc thuyền nát, không còn hai bên mạn thuyền, và cái đáy phẳng của nó chỉ còn là dấu vết giữa đám sau sậy, tuy nhiên hình dáng của nó vẫn còn rõ ràng sắc nét, như thể nó là một tấm bảng lớn mục nát với những đường vân. Nó gây một ấn tượng hoang tàn như người ta có thể tưởng tượng một xác tàu đắm trên một bãi biển và như một lời răn tốt. Còn bây giờ nó hóa thành mùn và lẫn vào bờ đầm, và những cây cói, cây irit [368] đã trồi lên qua nó. Tôi thường thích thú ngắm nhìn những dấu sóng gợn in trên đáy cát, ở đầu phía bắc của đầm này áp lực nước làm cho đáy trở nên cứng vững cho bước chân người lội, và lau sậy mọc thành hàng lối, theo những bước sóng, như thể các lớp sóng đã trồng chúng. Ở đó tôi còn thấy một lượng lớn những quả cầu[369] kì lạ, làm bằng cỏ hay rễ cỏ, có lẽ bằng pipewort [370], đường kính từ nửa inch đến bốn inch, và có hình cầu hoàn hảo. Chúng trôi ra dạt vào ở chỗ nước nông trên đáy cát, và đôi khi bị ném lên bờ. Chúng là những bó cỏ chặt, thường có một ít cát ở giữa. Lúc đầu có thể tưởng chúng được tạo nên bởi tác động của sóng, giống như sỏi; tuy nhiên những quả bé nhất, dài nửa inch, cũng bằng cỏ khô, và chúng được tạo ra chỉ trong một mùa. Hơn nữa, tôi nghĩ sóng thường không kiến tạo nhiều bằng bào mòn những vật liệu đã đạt được độ ổn định. Chúng giữ nguyên hình dạng khi khô đi trong một quãng thời gian vô định.
Đầm Flint! Ngôn ngữ của chúng ta nghèo nàn thế đấy. Gã nông dân ngu dốt và bẩn thỉu [371], đồng ruộng của y tiếp giáp với giọt nước của trời, mà những bờ của nó y đã tàn nhẫn đốn cho trơ trụi, thì có quyền gì mà lấy tên mình đặt cho nó? Một số kẻ keo bẩn yêu cái mặt sáng choang có thể soi được của đồng đô la hay đồng xu, trong đó y có thể nhìn thấy cái mặt trơ tráo của y; kẻ thậm chí coi những con vịt trời đậu trong đó như những kẻ xâm phạm, những ngón tay của y đã lớn lên thành những móng vuốt cong và sắc nhọn, do thói quen từ lâu nắm chặt như một mụ già tham lam - do đó tôi không ưa cái tên ấy. Tôi không đến để nhìn y hay nghe nói về y, kẻ chưa bao giờ trông thấy nó, chưa bao giờ tắm trong nó, chưa bao giờ yêu nó, chưa bao giờ bảo vệ nó, chưa bao giờ nói một lời tốt đẹp cho nó, chưa bao giờ cảm ơn Chúa vì người đã tạo ra nó. Đúng ra nên đặt tên nó theo tên những con cá bơi trong nó, những loài chim trời hay thú hoang thường lui tới nó, những bông hoa dại mọc bên bờ của nó, và một số người lớn hay trẻ con mà sợi chỉ tơ lịch sử của đời họ được dệt vào với nó; đừng đặt tên nó theo tên kẻ không thể trưng ra một danh nghĩa nào ngoài cái chứng thư mà một láng giềng đồng bọn hay cơ quan lập pháp cấp cho y, - y là kẻ chỉ nghĩ đến giá trị bằng tiền của nó, kẻ mà sự có mặt chỉ gây tai họa cho những bờ của nó; kẻ làm cạn kiệt đất xung quanh nó, kẻ có thể sẵn sàng làm cạn kiệt nước trong lòng nó; kẻ chỉ tiếc rằng nó không phải là một đồng cỏ Anh hoặc việt quất - trong mắt y đúng là không có gì bù lại được - và y có thể xả hết nước và bán cả bùn dưới đáy nó. Nó không làm quay guồng nước của y, và ngắm nhìn nó không phải là đặc quyền của y. Tôi không tôn trọng công sức của y, trang trại của y - trong đó không cái gì không có giá của nó, y có thể mang cả vẻ đẹp của đầm, cả Chúa của y ra chợ nếu có thể kiếm được cái gì đó cho riêng y, y cầu Chúa cũng chỉ vì thế; trong trang trại của y không có gì mọc tự do, các cánh đồng của y không có hoa màu, đồng cỏ của y không có hoa, cây cối của y không có quả, mà chỉ có đô la, y không yêu vẻ đẹp của những hoa trái của y, trái cây của y không chín cho y cho đến khi chúng biến thành đô la. Đối với tôi, trong cái nghèo có sự giàu có thật sự. Người nông dân càng nghèo tôi càng thấy họ đáng kính và thú vị. Bạn có biết một nông trại kiểu mẫu là thế nào không? Ở đó ngôi nhà đứng như một cây nấm trong đống phân, những căn buồng cho cả người, ngựa, bò, và lợn, sạch và bẩn, tất cả liền kề với nhau! Chật cứng những người! Nhem nhuốc dầu mỡ, sặc mùi phân chuồng và nước sữa! Trồng trọt một cách trang trọng thành kính, bón bằng trái tim và trí óc người! Như thể trồng khoai tây trong nghĩa trang nhà thờ! Một nông trại kiểu mẫu là thế đấy!
Không, không; nếu những nét đẹp nhất của phong cảnh được đặt theo tên người, thì hãy đặt theo tên những con người cao quý nhất và danh giá nhất mà thôi. Hãy để cho những cái hồ của chúng ta nhận những cái tên đích thực như Biển Icaria [372], nơi bờ yên tĩnh vẫn còn "vang dội kì tích oai hùng" [373].
Đầm Ngỗng, một đầm nhỏ trên đường tôi đến đầm Flint; đầm Bến Đẹp (Fair Haven) một đoạn phình ra của Sông Concord, nghe nói rộng đến bảy mươi mẫu, cách một dặm về hướng tây nam, và Đầm Trắng, khoảng bốn mươi mẫu, qua Bến Đẹp độ một dặm rưỡi. Đây là vùng đất hồ đầm của tôi. Những hồ đầm này, với Sông Concord, là những đặc quyền [374] sử dụng nước của tôi, cả ngày và đêm, năm này qua năm khác, chúng xay tất cả ngũ cốc mà tôi mang đến.
Vì những người thợ rừng và đường sắt và tôi đã xúc phạm Walden, nên có lẽ cái đầm quyến rũ nhất nếu không nói là đẹp nhất trong tất cả những hồ đầm của chúng tôi, hạt ngọc của rừng là đầm trắng - một cái tên tồi do cái nghĩa tầm thường của nó - dù là nói lên cái tinh khiết của nước hay màu cát của nó. Tuy nhiên trong khía cạnh này hay khác, nó là đứa em sinh đôi của đầm Walden. Chúng giống nhau nhiều đến nỗi người ta nghĩ chúng phải có liên hệ ngầm dưới đất. Nó cũng có bờ đá, và nước của nó có cùng màu. Cũng như ở Walden, vào những ngày nóng nực, nhìn xuyên qua rừng xuống một trong những vịnh của nó, nước không sâu lắm nhưng ánh sáng từ dưới đáy hắt lên tạo nên màu sắc của nó, một màu xanh lục ngả sang lam, hay màu nho xanh. Nhiều năm kể từ đó tôi thường đến đó lấy cát bằng những chuyến xe ngựa để về làm giấy nhám [375] và sau đó tiếp tục đến thăm nó. Một trong những người thường lui tới đầm này đề nghị gọi nó là Hồ Virit. Có lẽ nên gọi nó là Hồ Thông-vàng, từ hoàn cảnh sau đây. Khoảng mười lăm năm trước bạn có thể thấy trên ngọn những cây thông-cứng (pinus rigấm) một loài gọi là thông-vàng quanh đây, mặc dù nó không phải là một loài riêng biệt, nhô ra trên mặt nước ở vùng nước sâu, cách bờ nhiều sải. Thậm chí có người còn gợi ý rằng đó là một trong những khu rừng nguyên thủy có ở đây từ trước đã lún xuống thành đầm. Tôi thấy rằng ngay từ năm 1792, trong cuốn Mô tả Địa hình Thành phố Concord của một trong những công dân của nó, trong những Bộ Sưu tập của Hội Lịch sử Massachusetts, tác giả sau khi nói về đầm Walden và đầm Trắng, đã thêm: "Ở giữa đầm Trắng khi nước xuống thấp có thể nhìn thấy một cái cây xuất hiện như thể nó mọc lên ở chỗ nó đang đứng bây giờ, mặc dù những rễ cây nằm sâu năm mươi foot dưới mặt nước, ngọn của cái cây này bị gãy, và ở chỗ đó người ta đo được đường kính mười bốn inch". Trong mùa xuân 1849 tôi nói chuyện với một người sống gần nhất đầm ở Sudbury, anh ta nói rằng chính anh ta là người đã đưa cái cây này ra cách đây mười hay mười lăm năm. Anh vẫn còn nhớ nó đứng cách bờ gần nhất là mười hai hoặc mười lăm sải [376], nơi nước sâu ba mươi hoặc bốn mươi foot [377]. Lúc đó là mùa đông và trong buổi sáng anh đục băng ra, để nó tan trong buổi chiều, và với sự giúp đỡ của các hàng xóm, anh đã đưa được cây thông-vàng cổ thụ ấy ra. Anh cưa một rãnh trên băng tới bờ, rồi dùng một con bò mộng lôi bật nó ra và kéo lết trên băng; nhưng trước khi tiếp tục công việc anh ngạc nhiên thấy gốc nó chổng ngược lên trời, các cành hướng xuống, và phần ngọn dính chặt vào đáy cát. Ở đầu to đường kính nó khoảng một foot, và anh hi vọng sẽ có được một cây gỗ nguyên, nhưng nó mục đến mức chỉ còn đáng để làm củi. Anh đã có một ít loại này trong kho. Còn có những dấu rìu và vết chim gõ kiến trên gốc. Anh cho rằng có lẽ nó đã là một cây chết trên bờ, nhưng cuối cùng bị thổi xuống đầm, và sau khi ngọn của nó bị úng nước, trong khi gốc vẫn còn khô và nhẹ, nó bị trôi dạt và chìm phần ngọn xuống dưới. Cha của anh, tám mươi tuổi, không nhớ nổi khi nào không có nó ở đấy. Nhiều thân cây khá lớn vẫn còn thấy nằm dưới đáy, mà những gợn sóng trên mặt nước khiến chúng trông như những con rắn nước khổng lồ đang ngọ nguậy.
Đầm này hiếm khi bị một chiếc thuyền xâm phạm, vì không có nhiều cá để cám dỗ những người đánh bắt. Thay vì hoa huệ trắng, hoặc loại hoa diên vĩ thông thường, bông diên vĩ xanh mọc thưa thớt trong nước trong, vươn lên từ đáy đầm có nhiều đá ven bờ, ở đó nó được những con chim viếng thăm vào tháng Sáu, và màu sắc cả của những lá xanh lẫn hoa của nó, và đặc biệt hình phản chiếu của nó, hài hoà kì lạ với màu quả nho xanh của nước.
Đầm Trắng và đầm Walden là những viên pha lê lớn của trái đất, những Hồ Ánh sáng. Nếu chúng bị đóng băng vĩnh viễn, và đủ bé để cầm nắm, biết đâu chúng chẳng đã bị các nô lệ lấy đi như những viên đá quý, để trang điểm cho những mũ miện của các hoàng đế; nhưng chúng là chất lỏng, và rộng lớn, và được vĩnh viễn giữ lại cho chúng ta và hậu thế của chúng ta, thì chúng ta lại bỏ mặc chúng và chạy theo kim cương của Kohinoor. Chúng quá trong sạch nên không có một giá trị thị trường nào cả, chúng không có tạp chất ô uế. Chúng đẹp đẽ hơn cuộc sống của chúng ta biết bao nhiêu, chúng trong sáng hơn tính cách của chúng ta biết bao nhiêu. Chúng ta không bao giờ thấy cái tầm thường ti tiện của chúng.
Chúng xinh đẹp hơn hồ bơi trước cửa nhà người trại chủ biết bao nhiêu, nơi lũ vịt nhà anh ta bơi. Nơi đây những con vịt trời sạch sẽ bay đến. Một cõi thiên nhiên không có con người ở đó biết giá trị của nó. Những con chim với những bộ lông và những tiếng hót hài hòa với những bông hoa, nhưng những trai thanh gái lịch nhằm gì vào vẻ đẹp sum sê tươi tốt hoang dại của Thiên nhiên? Nàng nở hoa một mình, xa những thành phố nơi họ sinh sống. Nói chuyện trên trời, bạn đã bỏ quên mặt đất.
Walden - Một Mình Sống Trong Rừng Walden - Một Mình Sống Trong Rừng - Henry David Thoreau Walden - Một Mình Sống Trong Rừng