Tôi không thể cho bạn một công thức thành công, nhưng tôi có thể cho bạn một công thức cho sự thất bại, đó là: cố gắng làm vừa lòng mọi người.

Herbert Bayard Swope

 
 
 
 
 
Tác giả: Kalil Gibran
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Broken Wings
Dịch giả: Nguyễn Ngọc Minh
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nam Le
Số chương: 12
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2162 / 23
Cập nhật: 2016-02-29 12:15:22 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 8: Bên Chúa Bên Tình
iữa những khu vườn và những ngọn đồi nối liền hải cảng Beirut với nọi địa Liban có một ngôi đền nhỏ rất cổ kính bằng đá hoa cương trắng, có ô liu, hạnh, và dương liễu vây quanh. Dù ngôi đền này chỉ cách quốc lộ chưa đầy một cây số, vào thời câu chuyện này xảy ra, ít người yêu cổ tích chịu khó đến viếng thăm. Đó là một trong những nơi thanh cảnh, kín đáo và bị lãng quên ở Liban. Chính nhờ cô tịch mà ngôi đền thành nơi nương tựa cho tín đồ, chốn Thiêng Liêng của những người tình cô đơn.
Thoạt bước vào đền người ta thấy trên tường phía đông là một bức tranh Phénicie tạc trong đá ảnh tượng Ishtar, nữ thần ái tình và sắc đẹp, ngồi trên ngai, xung quanh có bầy trinh nữ khỏa thân đứng theo những tư thế riêng. Nàng thứ nhất cầm một ngọn đuốc, nàng thứ hai một cây lục huyền cầm, nàng thứ ba một lư trầm hương, nàng thứ tư một bình rượu bồ đào, nàng thứ năm một cành hồng, nàng thứ sáu một vòng nguyệt quế, và nàng thứ bảy đeo cung tên; tất cả đều cung kính chiêm ngưỡng nữ thần Ishtar.
Trên bức tường thứ nhì khắc một bức tranh khác mới hơn bức tranh trước, biểu tượng Chúa Ki tô bị đóng đanh trên thập tự giá, bên cạnh Ngài là Đức Mẹ sầu thảm, nàng Madelaine và hai người đàn bà khác đang khóc lóc. Bức tranh kiểu Byzantine này chứng tỏ được khắc vào thế kỷ mười lăm hay mười sáu.
Trên tường phía tây có hai ngách hình tròn đưa ánh sáng vào đền rọi trên hai bức tranh, làm chúng trông như cẩn kim nhũ. Giữa đền là một bệ cẩm thạch có những bức tranh cổ bao quanh; một vài bức khó nhận ra dưới những khối huyết đã kết thạch, cho thấy người xưa đã dâng hiến những tế vật trên phiến đá, và xức nước hoa, rượu nho, và dầu lên trên.
Không còn gì khác trong ngôi đền nhỏ đó ngoài sự trầm lặng, thổ lộ cùng người đời những bí ẩn của vị nữ thần, nói lên bằng vô ngôn chuyện bao đời trước và bước thăng trầm của các tôn giáo. Một cảnh tượng như vậy đưa thi sĩ đến một thế giới ngàn trùng cách biệt với thế giới đang sống và làm cho triết gia tin rằng con người bẩm sinh đã mang lòng tín mộ; họ cảm thấy một nhu cầu về điều họ không thể mục kích nên họ vẽ những hình tượng mà ý nghĩa thổ lộ những bí ẩn sâu kín trong lòng cùng những khát vọng về cuộc đời và cái chết.
Trong ngôi đền hoang phế đó tôi gặp Selma mỗi tháng một lần, cùng nàng hàng giờ ngắm những bức tranh trên tường, nghĩ về Chúa bị đóng đinh và suy gẫm về những thanh niên thiếu nữ Phénicie đã sống, đã yêu, và đã thờ phụng cái đẹp trong hình tượng Ishtar bằng cách đốt hương dưới chân nàng và xức nước hoa lên bệ nàng, những người chẳng còn gì lưu lại ngoài cái tên mà bước thời gian nhắc nhở trước khuôn mặt Vô Cùng.
Khó mà viết thành lời kỷ niệm của những giờ tôi gặp Selma - những giờ thần thánh đầy đau đớn, hạnh phúc, sầu não, hy vọng, và khốn khổ.
Chúng tôi gặp nhau âm thầm trong ngôi đền cổ, nhớ lại những ngày xưa, bàn chuyện hiện tại, lo sợ tương lai, và dần dà bộc lộ những bí ẩn giấu kín trong đáy lòng, cùng nhau than thở nỗi khổ đau; và cố an ủi nhau bằng những hy vọng mơ hồ và những giấc mơ buồn thảm. Thỉnh thoảng chúng tôi lại lặng lẽ lau nước mắt và mỉm cười quên hết chỉ biết có tình yêu; chúng tôi hôn nhau đến chảy tan cả cõi lòng; rồi Selma sẽ ghi một cái hôn thanh khiết trên trán tôi và rót đầy hoan lạc trong tim tôi. Tôi sẽ hôn lại khi nàng nghiêng cổ ngà và gò má ửng hồng như tia bình minh thứ nhất trên trán đồi. Chúng tôi yên lặng ngắm chân trời xa nơi mây nhuộm màu cam của ánh hoàng hôn.
Lời tâm sự của chúng tôi không phải chỉ giới hạn trong chuyện yêu đương. Thỉnh thoảng chúng tôi lại lái sang những đề mục thường nhật và trao đổi tư tưởng. Trong khi trò chuyện Selma nói về địa vị người phụ nữ trong xã hội, vết hằn do các thế hệ trước in sâu trong cá tính họ, mối liên hệ vợ chồng, những chứng bệnh tinh thần và những sa đọa đe dọa cuộc sống lứa đôi. Tôi nhớ nàng nói: "Văn nhân thi sĩ cố tìm hiểu thực chất của người đàn bà, nhưng tới ngày nay họ chưa hiểu những bí ẩn chôn giấu trong lòng nàng, vì họ nhìn nàng qua tấm màn tình dục và chỉ thấy những khía cạnh bên ngoài. Họ quan sát nàng qua tấm kính khuếch đại làm bằng đố kỵ nên chẳng thấy gì khác hơn là sự yếu đuối và phục tòng".
Một lần khác nàng vừa chỉ vào những bức tranh khắc trên tường đền vừa nói: "Trong lòng tấm đá này có hai biểu hiệu mô tả bản chất ước vọng của người đàn bà và phơi bầy những bí ẩn chôn giấu của hồn nàng, giao động giữa yêu đương và sầu thảm, giữa luyến ái và hy sinh, giữa nữ thần Ishtar trên ngai và đức mẹ Maria bên thánh giá. Đàn ông mua vinh danh nhưng đàn bà là người phải trả giá".
Chẳng ai biết những cuộc gặp gỡ bí mật của chúng tôi ngoài Trời cao và những bầy chim bay qua đền. Selma thường đi xe đến một nơi gọi là công viên Thượng Quan rồi từ đó đi bộ lại gặp tôi đang đợi chờ lo lắng tại đền.
Chúng tôi không sợ cặp mắt của kẻ dòm ngó, cũng chẳng e ngại lương tâm cắn rứt; tinh thần thanh lọc bằng lửa và tẩy gội bằng nước mắt vượt trên những thứ người đời gọi là xấu hổ và ô nhục; nó thoát ra ngoài những lề thói đầy tính chất nô lệ và những cổ tục phản lại tình tự của con tim. Tinh thần đó có thể không hổ thẹn đến trước bệ Trời.
Xã hội loài người đã bảy ngàn năm quy phục những luật lệ hủ bại đến nỗi ngày nay không còn hiểu nổi ý nghĩa của những luật tối thượng và bất diệt. Mắt một người đã quen với ánh nến mờ không nhìn được ánh thái dương. Căn bệnh tâm linh lưu truyền từ đời này sang đời khác đến trở thành một di sản của thiên hạ; người đời không nhìn nó như một căn bệnh mà như một tặng phẩm tự nhiên Trời ban cho người đàn ông thứ nhất. Nếu thấy ai không mắc phải mầm bệnh thì họ yên trí rằng người đó phải xấu hổ và ô nhục.
Những người nghĩ xấu cho Selma Karamy vì nàng dời nhà chồng đến gặp tôi trong đền là loại người bệnh hoạn và yếu tinh thần, họ xem kẻ khỏe mạnh an lành là phản loạn. Họ giống như loài sâu bọ bò trong bóng tối vì sợ bước chân của khách qua đường xéo nát.
Tù nhân bị áp bức nào có thể phá ngục mà không làm là một người hèn. Selma, một tù nhân vô tội bị áp bức, không thể giải thoát mình khỏi vòng nô lệ. Nàng có đáng trách không vì đã dám nhìn những cánh đồng xanh và vòm trời rộng qua cửa sổ ngục thất? Người ta có kể là nàng không chung thủy với chồng chăng khi nàng từ nhà đến ngồi bên tôi giữa Chúa và nữ thần Tình Yêu? Hãy để người ta muốn nói gì thì nói; Selma đã vượt qua những đầm lầy từng nhận chìm các linh hồn khác, và bước vào một thế giới ngoài tầm tiếng tru của loài sói và tiếng rít của loài rắn. Người ta có thể nói gì về tôi mặc lòng, vì một tâm linh đã thấy dáng dáng Tử thần có bao giờ lại sợ mặt mũi phường đạo tặc; người lính đã thấy lưỡi gươm lóe trên đầu và máu tuôn dưới chân lẽ nào lại đếm xỉa đến sỏi đá của lũ trẻ bên đường ném ra.
Uyên Ương Gãy Cánh Uyên Ương Gãy Cánh - Kalil Gibran Uyên Ương Gãy Cánh