There is a great deal of difference between an eager man who wants to read a book and a tired man who wants a book to read.

G.K. Chesterton

 
 
 
 
 
Tác giả: James Rollins
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Black Order
Dịch giả: Đỗ Trọng Tân
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 498 / 28
Cập nhật: 2019-12-06 08:58:33 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 8 - Huyết Thống Pha Trộn
giờ 54 phút sáng
Paderborn, tại nước Đức
— Các vị cứ ở đây nhé. - Gray nói.
Anh đứng giữa khoang chính của chiếc Challenger, tay chống hông nắm chặt, không nhúc nhích.
— Vô lý. - Fiona bắt bẻ. Tránh sang một bước, cô tìm chỗ đứng.
Ở phía ngoài, Monk đứng dựa vào ô cửa mở, khoanh tay, trông khoái trá.
— Tôi vẫn chưa nói cho các anh địa chỉ cơ mà. - Fiona nói.
— Cứ việc dành cả tháng tới để tìm từng nhà trong cả thành phố, hoặc để tôi cùng đi và dẫn các anh đến tận nơi. Các anh tùy chọn đấy nhé.
Mặt Gray nóng bừng lên. Tại sao anh không moi địa chỉ từ cô gái lúc cô còn yếu đuối và yếu thế. Anh lắc đầu. Yếu đuối và yếu thế không bao giờ có thể là từ ngữ mô tả Fiona.
— Vậy thế nào đây?
— Trông có vẻ như ta bị bám đuôi rồi. - Monk nói..
Gray không trả lòi câu nói. Có thể anh dọa cô, gợi lại chuyện thoát chết của cô tại công viên giải trí Tivoli.
— Vết thương bị dính đạn thế nào rồi?
Fiona phổng mũi.
— Thế thì sao nào? Tốt như mới. Cái băng dẻo ấy. Ôn ngay tức thì.
— Cô ta còn có thể bơi được với nó. - Monk nói. - Loại chống ngấm nước mà.
Gray trừng mắt nhìn cộng sự.
— Đó không phải là ý chính.
— Thế ý chính là gì? - Fiona hỏi dồn.
Gray quay lại nhìn cô. Anh không muôn phải đảm trách cô gái này thêm một chút nào nữa. Và anh cũng không có thời gian để dỗ dành cô.
— Anh ta e rằng cô sẽ lại bị đau thêm đấy. - Monk nhún vai nói.
Gray thở dài.
— Fiona ơi, hãy cho chúng tôi biết địa chỉ đi.
— Khi nào chúng ta ngồi trên xe. - Cô nói. - Rồi tôi sẽ nói cho các ngài. Tôi không muôn bị úm kín ở đây.
— Ngày đang trôi qua mất thì giờ đấy. - Monk nói. - Và trông như là ta sẽ bị ướt.
Bầu trời buổi sáng xanh lơ và sáng chói, nhưng những đám mây đang kéo đến từ phía bắc. Cơn bão đang cuộn dồn đến.
— Được rồi.
Gray vẫy người cộng sự ra ngoài, ít nhất thì anh cũng có thể để mắt tới Fiona.
Bộ ba trèo xuống theo các bậc thang khỏi chiếc phi cơ. Họ đã có sẵn giấy tờ nhập cảnh và thuê một chiếc BMW đợi sẵn. Monk đeo một chiếc ba - lô đen một bên vai, Gray đeo một chiếc cùng loại. Anh ngó về phía Fiona. Cô cũng có một cái. Ớ đâu ra nhỉ…?
— Có thừa một cái. - Monk giải thích. - Đừng lo, cô ta không có súng hay lựu đạn trong đó đâu. Chí ít thì tôi không nghĩ thế.
Gray lắc đầu và tiếp tục băng qua con đường trải nhựa hướng tới gara đỗ xe. Ngoài ba - lô cùng loại, họ còn ăn mặc giống nhau: quần jeans đen, đi giày mềm, áo dài tay. Thời trang du lịch cao cấp. Thêm vào, Fiona tân trang bộ đồ với vài chiếc khuy cài! Một chiếc thu hút mắt anh. Dòng chữ “Của người lạ bao giờ cũng tốt nhất”.
Khi Gray tiến vào gara đỗ xe, anh lén kiểm tra vũ khí lần cuối. Vỗ nhẹ vào khẩu Glock 9mm trong bao súng dưới lớp áo, và chạm vào cán chiếc dao găm các - bon trong vỏ dưới cổ tay trái. Anh có thêm vũ khí trong ba - lô: lựu đạn, vài gói thuốc nổ C4 và vài kíp nổ phụ.
Lần này anh ta không đi tới chỗ nào mà không chuẩn bị kỹ.
Cuối cùng thì họ cũng đến nơi. Một chiếc BMW 525i xanh dương đậm.
Fiona sải bước tới cửa của người lái xe.
Gray ngăn lại. - Vui tính nhỉ.
Monk tiến tới phía bên kia của chiếc xe và kêu lên, - Súng săn!
Fiona vội né xuống, nhìn quanh dò xét.
Gray giúp cô bình tĩnh lại và hướng cô vào phía cửa sau xe.
— Anh chàng chỉ muốn chiếm ghế trước thôi mà.
Fiona cáu kỉnh với Monk ở phía bên kia xe.
— Đồ bất tài!
— Xin lỗi. Đừng hấp tấp như vậy, nhóc.
Họ vào trong chiếc xe mui kín. Gray bắt đầu nổ máy và liếc về phía Fiona.
— Thế nào? Đi đâu đây?
Monk đã có một tấm bản đồ trong tay.
Fiona ngả người về trước và với tới phía trên vai của Monk. Cô dò một ngón tay theo tấm bản đồ.
— Ra khỏi thị trấn. Hai mươi kilômét về phía đông nam. Ta phải đến làng Bủren ở thung lũng Alme.
— Địa chỉ ở đó là gì?
Fiona ngả về sau.
— Vui tính nhỉ, - cô nhắc lại câu mà anh vừa nói lúc nãy.
Anh bắt gặp cái nhìn chằm chằm của cô qua gương bên. Cô ta mang một vẻ mặt khinh bỉ trước lần dò hỏi lộ liễu vừa rồi của anh để lấy thông tin.
Không thể trách anh chàng.
Cô vẫy tay ra hiệu cho anh lái đi.
Không có sự lựa chọn, anh đành tuân theo.
Ở phía kia của gara đỗ xe, có hai người ngồi trong chiếc Mercedes màu trắng. Người đàn ông hạ thấp ống nhòm và đeo chiếc kính râm hiệu Italy. Hắn gật đầu với người chị gái song sinh ngồi bên cạnh. Cô ả đang nói chuyện trên chiếc điện thoại vệ tinh, thì thào bằng tiếng Đức.
Bàn tay còn lại của ả cầm lấy tay của em mình. Hắn xoa ngón tay cái vào vết xăm của ả.
Ả bóp chặt ngón tay của em mình.
Liếc xuống, hắn bỗng thấy nơi chị mình cắn bỏ một cái móng tay thành một cục nham nhở. Sai lệch kệch cỡm đó cũng như cái mũi gãy.
Cô ả để ý thấy thái độ của em trai mình và cố gắng giấu móng tay mình, ngượng ngập.
Không có lý do cho sự xấu hổ. Y thấu hiểu nỗi khiếp đảm và đau tim dẫn đến việc cắn móng tay. Chúng vừa mất Hans, một trong những người anh ruột tối qua.
Bị người lái trong chiếc xe kia sát hại.
Cơn thịnh nộ đã làm hẹp tầm nhìn của y khi chiếc BMW lướt qua gara. Thiết bị nhận phát sóng định vị toàn cầu GPS được cài vào sẽ giúp chúng theo dõi chiếc xe.
— Đã hiểu ạ. - Cô em gái nói trên điện thoại. - Như tính toán, bọn này đang lần theo dấu vết của quyển sách đến đây. Không nghi ngờ gì, chúng đang đi đến đồn điển Hirszfeld ở Buren. Chúng cháu sẽ cho giám sát chiếc phi cơ. Tất cả đã chuẩn bị.
Khi đang nghe, ả bắt gặp ánh mắt của người em song sinh.
— Vâng. - Ả nói cho cả điện thoại và em trai mình. - Chúng cháu sẽ không thất bại. Kinh thánh Darwin sẽ là của ta.
Y gật đầu, đồng ý. Rời tay y khỏi tay ả, y vặn chìa khóa, và mở máy.
— Tạm biệt ông. - Cô ả nói.
Bỏ điện thoại xuống, cô ả ngả người và gỡ chiếc cặp tóc đơn để mái tóc vàng bung ra. Ả lấy ngón tay cào tóc, và vuốt cho xuôi xuống.
Hoàn hảo.
Luôn hoàn hảo.
Y hôn lên đầu những ngón tay của ả lúc ả rút tay lại.
Tình yêu và một lời hứa hẹn.
Họ sẽ trả thù.
Thời gian cho tang lễ sẽ để sau.
Hắn lái chiếc Mercedes trắng như con gấu bắc cực ra khỏi gara để bắt đầu cuộc đi săn.
• 11 giờ 8 phút sáng
Himalayas
Đầu mối hàn sáng lóe lên ngọn lửa màu đỏ thẫm. Painter giữ cho công cụ được thăng bằng. Tay anh rung, nhưng không phải sợ hãi làm run rẩy những ngón tay. Cơn đau đầu tiếp tục hành hạ phía sau mắt phải anh. Anh đã uống cả một vốc đầy Tylenol, cùng với hai vỉ Phenobarbital, một loại thuốc chống co giật. Không thuốc nào có thể phòng ngừa được sự điên dại và suy nhược đang diễn ra, nhưng theo Anna, thuốc có thể giúp anh có thêm vài giờ làm việc nữa.
Anh đã có bao nhiêu thời gian?
Dưới ba ngày, có khi còn ngắn hơn trước khi anh bị kiệt sức.
Anh đấu tranh để đẩy lùi sự lo lắng này. Lo lắng và tuyệt vọng chỉ làm anh yếu di nhanh như căn bệnh. Như ông của anh nói với giọng điệu chín chắn của người Ấn Pequot, Buông xuôi tay chỉ ngăn bạn xắn tay áo lên để làm việc.
Khắc cốt ghi tâm câu nói, Painter tập trung hàn mối dây cáp với dây trần nối đất. Dây nối chạy dọc dưới đất xuyên qua cả tòa lâu đài và tới nhiều ăngten khác nhau. Bao gồm cả dây nối chảo vệ tinh ở đâu đó gần đỉnh núi.
Một khi đã xong, Painter tựa xuống và đợi mối hàn mới nguội. Anh ngồi trên ghế dài với một hàng công cụ và linh kiện được sắp xếp ngay ngắn, như bác sĩ phẫu thuật. Không gian làm việc của anh được trang bị hai bên với hai máy tính xách tay đang hoạt động.
Cả hai chiếc vi tính đều do Gunther mang đến. Kẻ đã thảm sát những nhà sư. Giết chết Ang Gelu. Painter vẫn còn cảm thấy rõ mối căm hờn mỗi khi ở gần hắn.
Như bây giờ chẳng hạn.
Tên vệ sĩ to con ấy đứng ngay bên vai anh, theo dõi anh qua từng chuyển động. Chỉ có hai người trong phòng bảo dưỡng máy. Painter đã nghĩ tới chuyện đâm kíp hàn xuyên qua mắt hắn. Nhưng rồi sao nữa? Họ đang ở rất xa với khu vực văn minh, và án tử hình đang treo lơ lửng trên đầu anh. Hợp tác là phương cách duy nhất để tồn tại. Phía bên kia, Lisa ở với Anna cùng nghiên cứu, tiếp tục tuyến điều tra tìm phương cứu chữa.
Painter và Gunther theo đuổi một khía cạnh khác.
Săn bắt kẻ phá hoại.
Theo Gunther, quả bom phá nát Cái chuông đã được kích nổ bằng tay. Và bởi vì không ai rời khỏi mặt đất từ khi vụ nổ xảy ra, kẻ phá hoại có thể vẫn ở trong lâu đài.
Nếu họ đánh giá đúng vấn đề, có lẽ vẫn còn nhiều điều nữa cần làm sáng tỏ.
Vì thế mồi nhử đã được phát tán bằng đường truyền miệng.
Còn lại là việc giăng sẵn theo một cái bẫy cùng với mồi nhử ấy.
Một chiếc máy tính đã được kết nối vào hệ thống liên lạc của tòa lâu đài. Painter đã ung dung sử dụng hệ thống, dùng mật mã Gunther cung cấp. Anh đã gửi đi một chuỗi những kí tự nén trong những gói tin, nhằm đế theo dõi hệ thông rà theo tất cả liên lạc ra. Nếu kẻ phá hoại thử liên lạc với thế giới bên ngoài, hắn sẽ bị phát hiện, và nơi ẩn náu sẽ bị lộ tẩy.
Nhưng Painter không mong đợi kẻ phá hoại sẽ hậu đậu như thế. Tên phá hoại đó, dù là nam hay nữ đã sống sót và hoạt động bí mật trong một thời gian dài. Như thế là rất khéo léo và có một phương tiện liên lạc khác độc lập với hệ thống liên lạc chính của lâu đài.
Vì vậy Painter đã sáng chế ra một thứ khác.
Kẻ phá hoại chắc hẳn phải có một chiếc điện thoại vệ tinh riêng, hoạt động bí mật để trao đổi thông tin với cấp trên. Nhưng một chiếc điện thoại như thế phải cần có một bộ liên hệ giữa ăng - ten của nó và vệ tinh quay quanh quỹ đạo. Không may có quá nhiều hốc tường, cửa sổ và cửa hầm nơi kẻ phá hoại có thể cài đặt đường dây này, quá nhiều để theo dõi mà không gây sự nghi ngờ.
Vậy cần có một phương án khác.
Painter kiểm tra máy khuếch đại tín hiệu mà anh vừa gắn với dây nối trần. Đó là một thiết bị mà anh tự tay chế ra tại lực lượng Sigma. Chuyên môn của anh khi còn là đặc vụ ở Sigma, trước khi nhận chức giám đốc, từng là giám sát và tiểu kĩ thuật. Đây là lĩnh vực chuyên môn của anh.
Máy khuếch đại kết nối dây đất tới chiếc máy tính xách tay thứ hai kia.
— Hẳn là được rồi. - Painter nói, cơn đau đầu của anh cuối cùng cũng dịu đi một chút.
— Bật lên đi.
Painter cắm nguồn điện cho pin, đặt biên độ cho tín hiệu, và điều chỉnh nhịp sung. Chiếc máy tính sẽ làm nhiệm vụ còn lại. Nó sẽ theo dõi để tìm tín hiệu bắt sóng.
Chiếc máy chưa hoàn thiện, không thể nghe trộm được. Nó chỉ có thể đem lại thông tin chung về tín hiệu - nơi bắt sóng của một liên lạc trái phép, chính xác trong vòng bán kính ba mươi thước. Như thế cũng đủ để dùng.
Painter hiệu chỉnh thiết bị
— Tất cả đã xong, bây giờ ta chỉ chờ thằng khốn ấy gọi ra ngoài thôi.
Gunther gật đầu.
— Ấy là nếu hắn cắn câu. - Painter nói thêm.
Nửa giờ trước đây, họ đã phát tán một tin đồn rằng một thùng giấu Xerum 525 còn sót lại sau vụ nổ, bị kẹt ở dưới hầm chì bí mật. Điều đó đem lại hy vọng cho mọi người trong lâu đài. Nếu một chút nguyên liệu không thể thay thế còn sót lại, có thể Cái chuông mới có thể được chế tạo. Anna đã cho nhiều nhà nghiên cứu lắp ráp lại một Cái chuông khác từ những mảnh võ sót lại. Nếu không phải là phương cứu chữa cho thứ bệnh đang lan nhanh, thì Cái chuông vẫn đem lại cho họ cơ hội có thêm thời gian. Cho tất cả mọi người.
Nhưng hy vọng không phải mục đích của thủ đoạn này.
Tin đồn phải đến tai tên phá hoại. Hắn phải tin là kế hoạch của hắn đã thất bại. Rằng Cái chuông có thể được tái tạo. Để tìm kiếm sự chỉ dẫn từ cấp trên, hắn sẽ phải gọi điện ra ngoài.
Và khi điều đó xảy ra, Painter đã chờ sẵn.
Lúc này, Painter quay về phía Gunther.
— Là siêu nhân thì như thế nào? - Anh hỏi.
— Một Hiệp sĩ của Mặt trời Đen.
Gunther nhún vai. Mức độ của cuộc nói chuyện có vẻ như dừng lại ở những tiếng càu nhàu, những cái chau mày và câu nhát gừng cộc lốc.
— Ý tôi là anh có cảm thấy siêu việt hơn không? Khỏe hơn, nhanh hơn, có thể nhảy qua các mái tòa nhà chỉ bằng một cú nhún.
Gunther chỉ nhìn chằm chằm vào anh.
Painter thở dài, thử một cách mới để kéo gã vào cuộc nói chuyện, bắt đầu một cuộc giao tiếp.
— Leprakõnige nghĩa là gì? Tôi nghe thấy mọi người dùng từ này khi anh ở chỗ họ.
Painter thừa biết chắc chắn nó nghĩa là gì, nhưng anh cần có lời đáp lại. Gunther nhìn đi nơi khác, nhưng Painter nhìn thấy ánh lửa trong mắt y. Im lặng kéo dài. Anh không chắc gã đàn ông này sẽ cất tiếng nói.
— Trùm hủi lậu. - Gunther cuối cùng tru lên.
Bây giờ đến lượt Painter im lặng. Anh cứ để mặc không khí nặng nề lơ lửng trong căn phòng nhỏ. Gunther cuối cùng cũng lên tiếng.
— Khi người ta đi tìm kiếm cái hoàn thiện, không ai muốn nhìn vào sự thất bại. Nếu chúng tôi không phát điên phát rồ, thì cũng sẽ phải chứng kiến căn bệnh thật kinh khủng. Tốt nhất là cách ly thật xa. Khuất mắt.
— Lưu đày. Như những người bị hủi.
Painter cố gắng hình dung nó sẽ như thế nào khi được nuôi dạy với tư cách là người Sonnekởnige cuối cùng, biết trước số phận bi đát của mình khi còn nhỏ. Từng là một dòng dõi hoàng tử sùng kính, bây giờ là một dòng dõi bị lánh xa và ruồng bỏ của lũ hủi.
— Vậy mà đến giờ anh vẫn giúp việc ở đây. - Painter nói. - Vẫn phục vụ.
— Đó là lý do tôi được sinh ra. Tôi biết nhiệm vụ của mình.
Painter tự hỏi liệu điều này đã được rèn luyện hay được di truyền theo một cách nào đó. Anh đã quan sát kỹ người này. Tuy nhiên, anh biết chuyện còn đi xa nữa. Nhưng đó là điều gì?
— Tại sao anh lại quan tâm tới việc điều gì sẽ xảy đến với tất cả chúng ta? - Painter hỏi.
— Tôi tin vào công việc ở đây. Những gì tôi chịu đựng sẽ một ngày nào đó giúp người khác tránh khỏi cùng định mệnh.
— Và cuộc tìm kiếm thuốc giải thì sao? Chẳng có.gì liên quan tới kéo dài cuộc sống của riêng anh.
Mắt Gunther lóe lên.
— Tôi không mắc bệnh (tiếng Đức).
— Ý ngài là gì, không mắc bệnh?
— Người Sonnekởnige được sinh ra dưới Cái chuông. - Gunther nhấn mạnh.
Painter giật mình khi hiểu ra. Anh nhớ lại sự miêu tả của Anna về những siêu nhân trong tòa lâu đài, họ cưỡng được bất kì ảnh hưởng nào từ Cái chuông. Để cho tốt hơn hoặc xấu đi.
— Anh miễn dịch rồi. - Anh nói.
Gunther quay đi chỗ khác.
Painter gạt bỏ hàm ý này đi. Như vậy không phải là bản năng sống còn khiến Gunther theo đuổi việc này.
Thế là điều gì?
Painter chợt nhớ tới kiểu Anna nhìn qua bàn tới Gunther trước đó. Một tình cảm ấm áp trìu mến. Người khổng lồ không hề can ngăn việc này. Rõ ràng hắn có một lý do khác để tiếp tục hợp tác, bất chấp thiếu tôn trọng của những người khác.
— Ngài yêu Anna. - Painter lầm bầm rõ tiếng.
— Tất nhiên rồi, tôi yêu. - Gunther đốp lại ngay. - Nó là em gái tôi mà.
Lọt thỏm trong phòng làm việc của Anna, Lisa đứng cạnh bức tường treo một hộp đèn nhỏ. Bình thường những chiếc hộp như thế chiếu sáng những tấm phim X - quang của người bệnh, nhưng hiện tại thì Lisa đã đính hai tấm a - xê - tát vào với những sọc đen. Đây là những bản đồ nhiễm sắc thể từ nghiên cứu đột biến ứng dụng tác động của Cái chuông, trước và sau khi bắn DNA phôi, thu thập được từ việc tổng hợp Aminô. Những ảnh sau có những vòng tròn tại điểm Cái chuông biến đổi một số nhiễm sắc thể nhất định. Những chú thích bằng tiếng Đức được viết ngay bên cạnh.
Anna đã dịch những chú thích ấy và ra ngoài để lấy thêm sách.
Cạnh chiếc hộp đèn, Lisa dò ngón tay dọc xuống chuỗi những đột biến, tìm kiếm quy luật bất kỳ.
Cô đã xem lại một vài bản nghiên cứu. Dường như không có lý giải nào cho đột biến.
Không tìm thấy câu trả lòi, Lisa quay trở lại bàn ăn, bây giờ chồng chất sách và những tập số liệu liên quan, bằng chứng của việc thí nghiệm trên con người từ nhiều thập kỷ trước.
Lò sưởi cháy lách tách phía sau cô. Cô đã cố gắng kiềm chế để không quẳng đống tài liệu nghiên cứu vào mồi lửa. Ấy nhưng, ngay cả khi Anna không có mặt ở đấy, Lisa cũng không làm thế. Cô đã đến Nê - pan để nghiên cứu những tác động sinh lý trên những độ cao khác nhau trên mặt nước biển. Là một bác sĩ khoa nội, cô là nhà nghiên cứu tim mạch.
Giống Anna.
Không… không hẳn đúng y như Anna.
Lisa đẩy qua một bên một chuyên khảo đang ở trên bàn. Sự hình thành quái thai trong thời kì đầu của bì phôi. Tài liệu này liên quan đến những quái dị bị bỏ đi, là kết quả bức xạ của Cái chuông. Lạnh lùng sao, những sọc đen trên tấm a - xê - tát mô tả những tấm hình trong quyển sách hé lộ ra với những chi tiết kinh hãi: Phôi thai không chi, bào thai một mắt, trẻ bị tràn dịch não chết non.
Không, cô chắc chắn không phải Anna.
Căm giận lại ứ lên trong lồng ngực Lisa.
Anna đi xuống chiếc thang sắt dẫn đến tầng hai của thư viện nghiên cứu của cô, ôm một tập sách khác trên tay. Những người Đức này không hề giấu giếm điều gì cả. Và sao họ phải làm thế cơ chứ? Đều là quan tâm hàng đầu của họ tới phương thuốc chữa bệnh liên quan tới lượng tử. Anna tin rằng đây là một nỗ lực vô vọng, tự tin là họ đã tìm hiểu tất cả những khả năng từ vài thập kỷ qua, nhưng cũng không phải tốn nhiều công thuyết phục cô cùng hợp tác.
Lisa để ý thấy tay của người phụ nữ run lên một cách rất khó nhận biết. Anna luôn xoa xoa lòng bàn tay, cố gắng che giấu điều đó. Những người còn lại trong lâu đài còn bị nặng hơn. Không khí căng thẳng đã hiện rõ mồn một. Lisa đã chứng kiến vài trận chửi nhau và một vụ đấm nhau. Cô cũng nghe được tin có hai vụ tự sát trong lâu đài vài giờ trước đó. Cái chuông bị mất và rất ít hy vọng cho thuốc giải, nơi này đang rã rời như quần đứt chỉ. Điều gì sẽ xảy ra nếu bệnh điên dại phát tiết trước khi Painter có thể tìm được một lối ra khỏi chốn này?
Cô cố xua đuổi ý nghĩ đó ra khỏi đầu. Cô sẽ không chịu thua đâu. Bất kể lý do gì cho việc cộng tác hiện nay, Lisa dự tính vẫn dùng nó để tạo lợi thế tốt nhất cho mình.
Lisa gật đầu với Anna khi mụ tiến lại gần.
— Được rồi, tôi nghĩ là đã nắm được phần nào vấn đề ở đây. Nhưng lúc nãy chị nhắc tới một điều khiến, tôi băn khoăn.
Để sách xuống bàn, Anna ngồi xuống một chiếc ghế.
— Điều gì thế?
— Chị nói rằng Cái chuông kiểm soát sự tiến hóa. - Lisa lướt tay qua khổ ngang cuốn sách và những bản thảo trên bàn. - Nhưng những gì tôi thấy được ở đây chỉ là vài biến đổi phóng xạ mà chị cho vào một chương trình ưu sinh. Tạo ra con người là phải trải qua sự vận động của gien. Có phải chị phóng đại khi dùng từ tiến hóa không?
Anna lắc đầu, không hề tỏ vẻ mất lòng.
— Thế cô định nghĩa tiến hóa thế nào, thưa bác sĩ Cummings?
— Theo cách thông thường của Darwin, tôi cứ cho là như vậy.
— Và cách đó là?
Lisa chau mày.
— Một tiến trình từ từ thay đổi sinh học… khi một đơn bào tản ra và đa dạng hóa thành những tổ chức hữu cơ sống muôn vẻ ngày nay.
— Thế Chúa không có vai trò nào trong chuyện này à?
Lisa sửng sốt bởi câu hỏi đó.
— Giống như thuyết sáng thế à?
Anna nhún vai, mắt không rời cô.
— Hoặc là thiết kế thông minh.
— Chị không thể nghiêm túc được sao? Rồi chị sẽ kể với tôi là tiến hóa chẳng qua chỉ là lý thuyết.
— Đừng dớ dẩn thế. Tôi đâu có phải người ngoại đạo sơ đẳng đến mức liên kết một học thuyết với “linh cảm” hay “đoán mò”. Chẳng có gì trong khoa học đạt đến cấp độ học thuyết mà lại không có lấy một biển lập luận và những giả thuyết qua kiểm định.
— Vậy là chị thừa nhận thuyết tiến hóa của Darwin?
— Hiển nhiên rồi. Không nghi ngờ gì cả. Thuyết ấy đúng với tất cả các nguyên tắc khoa học.
— Vậy sao chị lại nói đến…?
— Một thứ không nhất thiết cứ phải chi phối thứ kia.
Lisa rướn một bên lông mày lên.
— Thiết kế thông minh cùng với tiến hóa?
Anna gật đầu.
— Nhưng ta hãy tóm lược lại để tôi không bị hiểu lầm. Trước hết, hãy loại bỏ tín điều của những vị đã tin vào Trái Đất Phẳng, những người còn không cho rằng trái đất là một quả cầu, hoặc những thầy giảng Kinh thánh cho rằng hành tinh này chỉ mới nhiều nhất là mười ngàn năm tuổi. Giờ hãy nhảy cóc đến lập luận chính về những người biện lý cho thiết kế thông minh.
Lisa lắc đầu. Một kẻ cựu Quốc xã, người thuyết giáo khoa học giả hiệu. Chuyện gì đang xảy ra vậy?
Anna hắng giọng.
— Phải thừa nhận, tôi cho rằng hầu hết những lập luận cho thiết kế thông minh đều lầm. Hiểu sai Định luật thứ Hai của Nhiệt động lực học, xây dựng những mẫu thống kê mà lại không trụ được phản biện, hiểu nhầm cách tính tuổi đá qua phóng xạ. Danh sách như thế cứ dài mãi dài mãi. Chẳng thứ gì là xác đáng, nhưng lại tung ra bao nhiêu hỏa mù.
Lisa gật đầu. Đây là một trong những lý do chính khiến cô quan tâm đến xu hướng hiện tại để trình bày thứ khoa học giả hiệu cùng với tiến hóa trong môn sinh vật học tại các lớp trung học phổ thông. Đây là một vấn đề đa hợp phức tạp đến mức mà một tiến sĩ bình thường về môn đó còn thấy khó huống hồ là một học sinh trung học phổ thông.
Anna, mặc dầu vẫn chưa lý giải xong ý mình, nói:
— Nói tất cả thì như vậy, song chỉ còn lại mối quan tâm duy nhất có hiệu lực từ thiết kế thông minh là cần xem xét.
— Và đó là gì?
— Tính ngẫu nhiên của cá thể đột biến. Một cơ may theo đúng nghĩa không tạo ra những đột biến có lợi sau một thời gian. Cô có biết đã có bao nhiêu quái thai để có được những đột biến có ích không?
Lisa đã nghe lý lẽ này trước rồi. Sự sống tiến hóa quá nhanh không kịp tạo ra cơ hội thuần khiết. Cô không ngả theo quan điểm này.
— Tiến hóa thực chất không phải là một cơ hội thuần khiết. - Lisa biện minh. - Sự chọn lọc tự nhiên, còn gọi là áp lực của môi trường, gạt bỏ đi những thay đổi bất lợi và chỉ cho phép những cá thể tốt hơn thích nghi và di truyền lại gien của mình.
— Sống sót của những cá thể tốt nhất?
— Hay là vừa đủ tốt. Chuyển đổi không nhất thiết phải hoàn thiện. Chỉ cần vừa đủ và tạo được lợi thế. Và trong phạm vi rộng của vài trăm triệu năm, những lợi thế và thay đổi dù nhỏ đóng góp vào vẻ đa dạng mà chúng ta thấy ngày nay.
— Trên hàng triệu năm ư? Công nhận, thực sự là thời gian rất dài, nhưng có đủ dài để cho phép một sự thay đổi tiến hóa diễn ra đầy đủ không? Thế còn những bột phát tiến hóa lúc này lúc nọ thì sao, khi có những thay đổi diễn ra nhanh chóng.
— Tôi cho rằng chị đang nhắc đến những thay đổi ồ ạt trong kỷ Cambri?
Lisa hỏi. Đây là một trong những trụ mốc của thiết kế thông minh. Kỷ Cambri hình thành và kết thúc trong một thời gian khá ngắn. Mười lăm triệu năm. Nhưng trong thời gian này đã bùng nổ rộng khắp bao nhiêu dạng sông mới: bọt biển, ốc sên, sứa, và bọ ba thùy. Cứ như từ trên trời rơi xuống. Một tốc độ quá nhanh đối với những nhà phản tiến hóa.
— Không. Mẫu hóa thạch có rất nhiều bằng chứng cho thấy sự “xuất hiện đột ngột” của những loài không xương sống không đến nỗi đột ngột như vậy. Có rất nhiều bọt biển và đa thể dạng giun trước kỷ Cambri. Ngay cả tính đa dạng của hình dáng trong thời kì này cũng có thể được lý giải qua sự xuất hiện của mã hóa gien Hox.
— Gien Hox ư?
— Một tập hợp từ bốn đến sáu gien điều hành xuất hiện trong bộ mã hóa gien ngay trước kỉ Cambri. Đó hóa ra là những công tắc điều khiển sự phát triển của bào thai, xác định cho đâu là phía trên, dưới, trái, phải, đầu và chân, hình cơ thể cơ bản. Ruồi giấm, ếch, con người đều có gien Hox giống hệt nhau. Cô có thể cắt bỏ gien Hox từ con ruồi, và thay thế vào trong ADN của con ếch, nó hoạt động bình thường. Và chính vì những gien này là những công tắc chỉ huy chủ yếu cho việc phát triển của phôi, những thay đổi dù là rất nhỏ tới bất kì một trong những gien này đều có thể tạo ra những hình dạng cơ thể mới lạ hoàn toàn.
Mặc dù không chắc việc đó sẽ dẫn đến đâu, hiểu biết sâu rộng của người phụ nữ trong lĩnh vực này khiến Lisa kinh ngạc. Nó thách đố với chính hiểu biết của cô. Nếu Anna là một đồng nghiệp trong hội thảo, Lisa nghĩ, hẳn là cô sẽ rất khoái tranh luận. Thực tế, Lisa phải luôn tự nhủ với mình về người cô đang tiếp chuyện này.
— Vậy những gien Hox nổi trội trước kỷ Cambri có thể lý giải cho cuộc phát triển ồ ạt của những cá thể ấy. Nhưng mà, - Anna phản công, - Gien Hox không lý giải được cho những thời khắc phát triển mau lẹ khác… gần như là những tiến hóa có tính chủ định.
— Như là gì?
Cuộc nói chuyện mỗi lúc một hấp dẫn.
— Như bướm đốm đen. Cô có biết câu chuyện đó không?
Lisa gật đầu. Bây giờ Anna đang dùng những lập luận chính từ những chủ đề bên ngoài. Bướm đốm đen sống trên cây gỗ bu - lô và từng có đốm trắng, để hòa mình vào với màu vỏ cây và tránh bị chim chóc ăn thịt. Nhưng khi mỏ than được mở ra ở vùng Manchester và bồ hóng làm đen những thân cây, lũ bướm trắng trở thành miếng mồi dễ dàng và sẵn có cho chim chóc. Chỉ trong một vài thế hệ, giống bướm này thay đổi màu trắng nổi bật thành một màu đen tuyền, để ngụy trang cùng với những thân cây đầy bồ hóng.
— Nếu đột biến chỉ là ngẫu chiên, - Anna biện luận, - thật ngạc nhiên là màu đen được đem đến. Nếu đơn thuần chỉ là một sự kiện ngẫu nhiên, vậy phải lý giải ra sao với những con bướm màu đỏ, màu xanh lá cây và màu tím? Và cả những con hai đầu thì sao?
Lisa phải cố gắng lắm mới không trợn tròn mắt.
— Tôi có thể nói rằng những con bướm màu khác cũng đã bị ăn thịt. Và những con hai đầu chết lụi đi. Song chị đang hiểu sai ví dụ này. Những thay đổi trong sắc màu của những con bướm không phải xuất phát từ đột biến. Loài này đã có hẳn một gien quy định tính trạng màu đen. Vài con màu đen được sinh ra trong mỗi thế hệ, nhưng hầu hết bị ăn thịt, và còn lại số đông màu trắng. Nhưng một khi những thân cây bị đen đi, thì những con bướm đen có lợi thế và nhanh chóng trở thành số đông khi những con trắng bị tiêu diệt. Đấy mới là mục đích của câu chuyện. Môi trường có thể ảnh hưởng đến số lượng loài. Nhưng đó không phải là một sự kiện đột biến. Gien quy định tính trạng màu đen đã có sẵn rồi.
Anna đang mỉm cười với cô.
Lisa nhận thấy mình đang bị người phụ nữ kiểm tra kiến thức. Cô ngồi thẳng dậy, vừa cáu và vừa bị chọc tức
— Tốt lắm. - Anna nói. - Vậy để tôi đưa ra một sự kiện gần đây hơn nhé. Một việc diễn ra trong điều kiện kiểm soát chặt chẽ của phòng thí nghiệm. Một nhà nghiên cứu tạo ra một số lượng khuẩn E.coli, loại không tiêu hóa được đường Lactoza. Sau đó ông rải một số lượng đang phát triển mạnh lên một đĩa chỉ có nguồn ăn là đường Lactoza. Điều gì sẽ diễn ra theo phân tích khoa học?
Lisa nhún vai.
— Không hấp thụ được đường Lactoza, vi khuẩn đó sẽ bị chết đói.
— Và đó là điều đã xảy ra với chín mươi tám phần trăm số lượng vi khuẩn. Nhưng còn hai phần trăm phát triển bình thường. Chúng đã tự đột biến một gien để tiêu hóa đường Lactoza. Chỉ trong một thế hệ. Tôi thấy điều đó thật đáng ngạc nhiên, cô thấy thế không? Điều này đi ngược lại tất cả lý thuyết sác xuất của ngẫu nhiên. Trong số tất cả những gien ADN của một khuẩn E.coli và đột biến hiếm hoi, tại sao hai phần trăm số vi khuẩn đột biến một gien cần thiết để sống? Nó phủ nhận tính ngẫu nhiên.
Lisa phải công nhận rằng điều đó thật lạ kì.
— Có thể là do nhiễm khuẩn mới trong phòng thí nghiệm chăng?
— Thí nghiệm đã được làm lại. Thu được những kết quả tương tự.
Lisa vẫn còn nghi ngờ.
— Tôi thấy hồ nghi trong mắt chị. Vậy hãy tìm ở đâu đó một ví dụ khác về bất khả dĩ có ngẫu nhiên và sự sống.
— Ở đâu vậy?
— Quay lại sự bắt nguồn của sự sống. Quay về thời kì hỗn độn nguyên thủy. Khi mà quá trình tiến hóa diễn ra lần đầu tiên.
Lisa nhớ tới chuyện Anna nói lúc trước về việc Cái chuông có thể co giãn trở lại cội nguồn sự sống. Đây có phải là nơi mà Anna đang nhắc tới không? Lisa bứt tai mình thêm chút nữa, sẵn sàng tiếp nhận những gì mình sắp nghe được.
— Hãy quay ngược lại thời gian. - Anna nói. - Trước cả khi có tế bào đầu tiên. Cô còn nhớ tới nguyên lý của Darwin: những cá thể tồn tại hẳn được tạo thành từ những thể đơn giản, ít phức tạp hơn. Vậy trước khi có tế bào đầu tiên, ở đó có gì? Chúng ta có thể giản lược sự sống đến mức nào để vẫn coi đó là sự sống? Chuỗi ADN có tồn tại không? Chuỗi nhiễm thể thì sao? Cả protein và cả men tiêu hóa nữa? Đâu là ranh giới của hóa học và sự sống?
— Được rồi, đó là một câu hỏi hay đấy. - Lisa thừa nhận.
— Thế để tôi hỏi một câu khác. Sự sống sao có thể nhảy vọt từ thể nguyên thủy hỗn độn tới tế bào đầu tiên?
Lisa biết đáp án cho câu này.
— Trái đất được hình thành với khí quyển đầy khí hydro, metan, và hơi nước. Thêm vào một chút năng lượng, như!à từ tia sét chẳng hạn, sẽ khiến những khí này tạo nên một hợp chất hữu cơ sơ khai. Những chất này sau đấy được hâm nóng trong thể nguyên thủy hỗn độn mà ta đã biết và rồi cuối cùng tạo nên một phân tử có khả năng tự tái tạo.
— Điều đó đã được chứng minh trong phòng thí nghiệm.
— Anna đồng ý bằng cách gật đầu. - Một lọ đầy những khí cơ bản đem lại một dạng aminô acid sền sệt, những yêu tố cơ bản của protein.
— Và sự sống bắt đầu.
— Ô, cô vội nhảy cóc quá nhỉ. - Anna trêu cợt, - Ta chỉ mới có aminô acid. Yếu tố cơ bản. Làm sao ta lại có thể đi từ một vài aminô acid đến một protein đầu tiên có khả năng tự tái tạo đầy đủ?
— Hòa lẫn những aminô acid với nhau và cuối cùng chúng sẽ đính kết lại thành một hợp chất đúng.
— Bằng cơ hội ngẫu nhiên?
Gật đầu.
— Đó là chúng ta đã tới căn nguyên của vấn đề, thưa bác sĩ Cummings. Tôi có thể thừa nhận với cô rằng thuyết của Darwin có một vai trò chủ chốt sau khi protein với khả năng tự tái tạo đầu tiên được hình thành. Nhưng cô có biết cần bao nhiêu aminô acid nối nhau để hình thành cá thể protein đầu tiên này không?
— Không.
— Ít nhất là cần ba mươi hai aminô acid. Đó là mẫu protein nhỏ nhất có thể tự tái tạo. Mâu protein này hình thành theo sự ngẫu nhiên có tỷ lệ vô cùng mỏng. Một phần mười lũy thừa bậc bốn mươi mốt.
Lisa nhún vai khi nghe thấy con số đó. Mặc dù có những cảm xúc khác về người đàn bà này, trong cô bắt đầu hình thành sự kính phục một cách miễn cưỡng.
— Ta hãy đem tỷ lệ này vào lập luận. - Anna nói. - Nếu cô cho tất cả những chuỗi protein tìm thấy ở tất cả những khu rừng nhiệt đới trên thê giới và hòa tan tất cả vào trong một nhiễm thể aminô acid, Chuỗi ba mươi hai aminô acid vẫn còn chưa chắc chắn đã hình thành. Thực tế, phải mất tới một lượng gấp năm nghìn lần để tạo ra những chuỗi này. Năm ngàn khu rừng nhiệt đối. Vậy ta lại lập luận thế nào từ hỗn thể aminô acid tới cá thể tự tái tạo đầu tiên, dấu hiệu đầu tiên của sự sống?
Lisa lắc đầu.
Anna khoanh tay, bằng lòng.
— Đó là một khoảng trống mà ngay cả Darwin cuối cùng cũng bỏ qua.
— Nhưng mà, - Lisa phản kháng, không chịu thừa nhận, để lấp khoảng trống này với vai trò của Chúa không phải là khoa học. Chỉ vì chúng ta vẫn chưa có câu trả lòi để lấp khoảng trống này, không có nghĩa nhất định cứ phải có nguyên nhân liên quan đến quyền năng siêu nhiên.
— Tôi không nói đó là siêu nhiên. Và ai bảo rằng tôi không có câu trả lời cho khoảng trống này?
Lisa há hốc mồm.
— Câu trả lời nào?
— Chúng tôi đã khám phá ra vài thập kỉ trước khi nghiên cứu Cái chuông. Điều mà những nhà nghiên cứu hiện giờ mới bắt đầu tìm kiếm một cách nghiêm túc.
— Điều gì vậy? - Lisa ngồi thẳng dậy, không hề giấu giếm sự thích thú của mình về mọi thứ liên quan đến Cái chuông.
— Chúng tôi gọi nó là tiến hóa lượng tử.
Lisa nhớ lại lịch sử của Cái chuông, nghiên cứu của Đức quốc xã về lĩnh vực hạt tiểu nguyên tử kì lạ và rắc rối cùng vật lý lượng tử. - Điều này có liên quan gì đến tiến hóa cơ chứ?
— Lĩnh vực tiến hóa lượng tử mới mẻ không những đem lại những bằng chứng rõ ràng nhất chứng minh cho thiết kế thông minh. - Anna nói. - Mà nó còn trả lời cho câu hỏi cơ bản là ai đã tạo ra mẫu này.
— Hẳn chị đang đùa. Ai cơ? Chúa á?
— Không. - Anna nhìn chằm chằm vào mắt cô. - Chúng ta.
Trước khi Anna có thể giải thích thêm, chiếc đài cũ có dây nối qua tường kêu sè sè và rồi ổn định dần, một giọng nói quen thuộc réo lên. Đó là Gunther.
— Chúng ta đã có dấu vết của kẻ phá hoại, sẵn sàng đi thôi.
• 7 giờ 37 phút sáng
Bủren, nước Đức.
Gray lái chiếc BMW quanh một chiếc xe tải cũ trong nông trang. Trong khoang xe chứa chất đầy cỏ khô. Anh sang số năm và phóng qua chỗ quành chữ chi. Lên đỉnh đồi, anh có thể nhìn toàn cảnh về thung lũng trước mặt.
— Thung lũng Alme. - Monk nói bên cạnh. Cậu ta nắm chặt lấy tay vịn trên cửa xe.
Gray lái chậm lại, xuống số.
Monk nhìn anh.
— Tôi thấy là Rachel hẳn đã cho anh vài buổi học lái xe kiểu Ý.
— Nhập gia thì…
— Ta đâu có nhập gia [5] …
[5] Nguyên văn “Ta đâu có ở Rôma” dịch như trên để tiếp ý câu trước. ND
Rõ ràng là không. Qua dải đất hẹp hiện ra con sông rộng trải dài trước mặt, đồng cỏ xanh rì, rừng cây và cánh đồng canh tác. Bên kia thung lũng, một ngôi làng nhỏ đẹp như tranh vẽ, đông đúc trong khu đất trũng. Những vòm nhà cao lát đá đỏ và những ngôi nhà xây bằng đá, hẹp dần lại vào chính giữa. Những phố nhỏ quanh co.
Nhưng mọi ánh mắt đều hướng về tòa lâu đài đồ sộ trên phía dải đất bên kia. Nó nép mình vào phía khu rừng, trông xuống ngôi làng. Những ngọn tháp đâm thẳng lên cao với những lá cờ đang tung bay phía trên. Thô kệch và đồ sộ như những tòa nhà khác được kiên cố hóa dọc theo sông Rhine lớn, lâu đài có màu sắc cổ tích huyền ảo, nơi ở của những nàng công chúa có sắc đẹp mê hồn và những chàng hiệp sĩ cưỡi trên những chú bạch mã chiến binh.
— Nếu ma cà rồng Dracula là kẻ đồng tính. - Monk nói. - Hắn đó là tòa lâu đài của hắn.
Gray hiểu ý. Chỗ đấy có điều gì đó dường như quái gở, nhưng có thể là do bầu trời nặng mây đang hạ thấp ở hướng bắc. May mắn thì họ có thể đến được vùng đồi thấp của làng trước khi cơn bão kéo đến.
— Đến đâu bây giờ. - Gray hỏi.
Tiếng sột soạt từ phía sau vang lên khi Fiona nhìn lại bản đồ. Cô đã làm chủ được bản đồ của Monk và tự cho mình là người chỉ đường vì cô vẫn giấu đích đến.
Cô vươn mình tới và chỉ vào con sông.
— Anh phải qua cái cầu đó.
— Cô chắc chứ?
— Chắc chắn. Em biết cách đọc bản đồ mà.
Gray lái xe xuống thung lũng, tránh một hàng dài những người đua xe đạp mặc áo nịt sặc sỡ biểu trưng cho cuộc đua. Anh tăng tốc dọc theo con đường đầy gió tới chân thung lũng và tiến vào vùng ngoại ô ngôi làng.
Tưởng chừng khung cảnh như của thế kỷ khác. Một ngôi làng cổ kiểu Đức. Mọi nơi hoa tuy - líp mọc đầy những ô cửa sổ, và những mái nhà nhô lên, đỡ bằng hai đầu hồi cao vút. Dọc về những phía rìa, những đường phố rải đá vươn dài từ phố chính. Họ đi qua một quảng trường nơi có dãy tiệm cà phê ngoài trời, cửa hàng bia và bục dàn nhạc trung tâm, nơi Gray chắc chắn rằng tối nào cũng có một ban nhạc Polka đến chơi.
Họ lăn bánh qua chiếc cầu và chẳng mấy chốc thấy mình lọt vào những cánh đồng và nông trại nhỏ.
— Rẽ bên trái tới! - Fiona hét lên.
Gray phải thắng gấp và quay chiếc BMW quanh một khúc quành gấp.
— Lần sau báo trước một chút nhé.
Con đường trở nên hẹp dần. Hàng rào dóng song song hai bên. Từ nhựa đường chuyển sang sỏi cuội. Chiếc BMW chao đảo trên mặt đất gồ ghề. cỏ dại sớm mọc lên xuyên qua hàng sỏi cuội. Những cánh cửa sắt hiện ra trước mặt, xòe ra ôm lấy con đường nhỏ hẹp, đang mở sẵn chào đón.
Gray chạy chậm lại. - Ta đang ở đâu thế?
— Đây là chỗ cần tới. - Fiona nói. - Đây là nơi xuất phát cuốn Kinh thánh của Darwin. Đồn điền Hirszfeld.
Gray lách chiếc BMW qua cửa. Mưa bắt đầu trút xuống ào ào từ bầu trời sẫm sịt. Lúc đầu thì còn nhẹ… rồi thoáng sau đổ ầm ầm.
— Vừa kịp lúc - Monk nói.
Đằng sau những cánh cửa, một sân trong rộng thênh thang, được đóng khung hai mép bằng chái bên của một ngôi nhà mái rạ vùng quê cổ. Khu nhà chính, thẳng ngay trước mắt, chỉ có hai tầng nhưng mái nhà lợp đá dốc xuống tạo cho nó một chút vẻ uy nghi.
Một tia chớp rạch một đường khúc khuỷu ngay trên đầu thu hút sự chú ý.
Lâu đài mà họ để ý trước đó mọc ngay trên đỉnh khu rừng cây đằng sau khu điền trang. Nó dường như trùm bóng lên cả dãy nhà mái rạ.
Này! - Một tiếng gọi vang lên tức thì.
Gray nhìn lại.
Một người đi xe đạp lao vọt ra từ bụi mưa và suýt bị ô tô cán phải. Một thanh niên, mặc áo nịt thể thao màu vàng và quần đua xe. Gã dùng lòng bàn tay đập bồm bộp vào mui chiếc BMW.
— Đi xe phải nhìn đường chứ hả, thằng kia!
Gã làm mất mặt Gray.
Fiona đã mở sẵn cửa sau, thò đầu ra ngoài.
— Đồ điên, biến ngay! Sao mày không nhìn đường mà chạy lông nhông cùng cái quần đùi đàn bà của mày ấy!
Monk lắc đầu nói:
— Có vẻ Fiona sắp có đối tượng hẹn hò rồi đây.
Gray cho xe chạy vào trong khoảng hẹp sát căn nhà chính. Chỉ có một chiếc xe khác, nhưng Gray để ý thấy một hàng những chiếc xe đạp đua và xe đạp leo núi được khóa lại trong giá. Một đám thanh niên nam nữ vấy bùn đang đứng dưới mái hiên, để những chiếc balô bên cạnh họ trên mặt đất. Anh nghe thấy tiếng họ nói chuyện khi vừa tắt máy. Tiếng Tây Ban Nha. Chỗ này hẳn phải là một khu nhà tập thể của thanh niên. Chí ít thì bây giờ đúng như vậy. Anh gần như có thể ngửi thấy mùi hoắc hương và mùi gai dầu.
Đây có phải đúng nơi cần đến không nhỉ?
Cứ cho đúng đi thì Gray e rằng không biết mình có tìm được thứ gì đáng giá ở đây hay không. Nhưng họ đã đến đây rồi.
— Đợi ở đây nhé. - Anh nói. - Monk ở lại với…
Cửa sau bật mở ra, và Fiona trèo ra ngoài.
— Lần sau, - Monk nói lúc với tay để mở cửa xe. - Chọn mẫu xe có khóa trẻ em ở ghế sau nhé.
— Đi nào. - Gray bước ra ngoài sau cô gái.
Đeo ba lô trên vai, Fiona sải bước tới cửa trước của ngôi nhà chính,
Anh bắt kịp cô ở bậc thang hướng lên vòm trước và túm lấy khuỷu tay cô.
— Ta phải đi cùng nhau. Không được bỏ đi.
Cô nhìn thẳng lại, giận không kém.
— Chính xác đấy. Ta phải đi cùng nhau. Không được bỏ đi. Nghĩa là không được bỏ em lại ở máy bay hay trong xe.
Gỡ khỏi tay anh, cô kéo cửa mỏ ra.
Một tiếng chuông ngân lên báo hiệu họ đến.
Một nhân viên thường trực ngước lên từ chỗ quầy tiếp đón được làm bằng gỗ gụ, ngay phía trong cánh cửa. Những cục than hồng trong đám lửa sớm bừng lên trong lò sưởi, xua tan đi cái lạnh rùng mình của buổi sáng. Khu tiền sảnh được lắp ráp bởi những khối xà và lát đá phiên. Tường được trang trí bởi những bức họa cô tịch dường như đã ở đó cả thế kỷ. Nhưng nơi đây đã có dấu hiệu kém bảo dưỡng, vữa tường bong lở, bụi bám trên những thanh xà, thảm lót sàn phai màu và sờn rách. Chỗ này chắc hẳn đã có những lúc khá hơn bây giờ.
Viên thường trực gật đầu tiếp đón. Một gã tráng kiện mặc áo thể thao bóng bầu dục và quần màu xanh lá cây. Trông như một gã sinh viên năm đầu ở trong quảng cáo của Abercrombie & Fitch.
— Chúc buổi sáng tốt lành. - Viên thường trực chào Gray khi gã bước vào quầy thu tiền.
Monk liếc nhanh phòng sảnh lúc tiếng sấm vang ầm ầm xuống thung lũng.
— Chẳng có gì tốt trong buổi sáng nay cả. - Anh lẩm bẩm.
— Ồ, người Mỹ à. - Viên thường trực nói, khi nghe tiếng phàn nàn của Monk. Có một chút lạnh nhạt trong giọng nói gã.
Gray đằng hắng ra hiệu.
— Chúng tôi đang tự hỏi liệu đây có phải là đồn điền Hirszfeld cổ không?
Mắt của viên phụ trách mở to ra một chút.
— Đúng rồi, nhưng… Nơi đây trở thành khách sạn Burgschlofi đã được hơn hai thập kỷ. Từ khi bố tôi Johann Hirszfeld thừa kế nơi này.
Vậy là họ đã đến đúng chỗ. Anh nhìn về phía Fiona, cô bé đang nhíu mày nhìn lại phía anh như hỏi “Gì thế?”. Cô đang bận lục lọi chiếc ba lô của mình. Anh cầu khẩn rằng Monk đã đúng: rằng không có lựu đạn sáng trong hành lý của cô.
Gray quay lại phía viên thường trực.
— Liệu tôi có thể nói chuyện với cha ngài không?
— Về việc..? - Sự lạnh lùng trở lại, cùng với một sự cảnh giác nào đó.
Fiona gạt anh sang một bên.
— Về thứ này.
Cô bé quăng một cuốn sách trông quen quen lên quầy thu tiền. Đó là cuốn Kinh thánh Darwin.
Ôi, Chúa…Anh đã cất kỹ cuốn sách này trên máy bay cơ mà.
Rõ ràng là chưa kỹ lắm.
— Fiona. - Gray nói với giọng hăm dọa.
— Của em. - Cô nói lại ngay tức thì.
Viên thường trực cầm quyển sách lên và lật nhanh xem qua nội dung. Không có vẻ là gã nhận thấy điều gì.
— Một quyển Kinh thánh à? Chúng tôi không chấp nhận truyền giáo trong khu lưu trú này. - Gã gập sách lại và đẩy quyển sách về hướng Fiona. - vả lại, cha tôi là người Do Thái.
Đằng nào cũng lộ rồi, Gray tiếp lời một cách cụ thể hơn.
— Quyển Kinh thánh này là của Charles Darwin. Chúng tôi tin nó đã từng là một phần của thư viện gia đình. Chúng tôi tự hỏi liệu có thể hỏi thêm cha ngài vài điều về cuốn sách.
Viên thường trực nhìn quyển sách với con mắt ít vẻ nhạo báng đi.
— Thư viện đã được bán đi trước khi cha tôi thừa kế khu này. - Gã chậm rãi nói. - Tôi chưa bao giờ được nhìn thấy cuốn sách. Nghe láng giềng nói rằng nó đã ở trong thư viện cách đây vài thế kỷ.
Gã bước vòng qua bàn lễ tân và dẫn đường đi qua chiếc lò sưởi tới một vòm lớn hướng vào một sảnh nhỏ gần kề. Một bức tường được lắp những cửa sổ cao và hẹp, đem đến cảm giác ẩn dật. Bức đối diện có một lò sưởi lạnh tanh, cửa rộng đến mức có thể đi thẳng người vào. Trong căn phòng, những dãy bàn và ghế được kê thẳng hàng. Căn phòng không người, ngoài một bà già mặc áo khoác ngoài đang quét sàn nhà.
— Nơi đây từng là thư viện cũ và nơi nghiên cứu. Bây giờ nó là sảnh ăn của khu lưu trú. Cha tôi đã từ chối bán đồn điền, nhưng vẫn phải trả thuế. Tôi cho rằng đó là lý do tại sao thư viện được bán nửa thế kỷ trước. Cha tôi phải cho bán đấu giá hầu như hết cả những đồ đạc gốc. Qua mỗi thế hệ, thêm một chút lịch sử bị mất đi.
— Đáng tiếc. - Gray nói.
Viên thường trực gật đầu và quay đi.
— Để tôi vào báo với cha tôi. Để xem ông ấy có muốn nói chuyện với các ngài không.
Một lúc sau, viên thường trực vẫy chỉ đường và đưa họ tới trước một cánh cửa kép rộng. Gã mở khóa cổng và giữ lấy cánh cửa. Nó dẫn đến tư dinh của đồn điền.
Viên thường trực tự giới thiệu mình là Ryan Hirszfeld lúc gã đưa mọi người tới phía sau căn nhà và vào trong một ngôi nhà kính trồng thực vật. Những cây dương xỉ trong chậu nhỏ và những cây dứa sặc sỡ xếp hàng trên tường. Những bậc giá được nối đến cạnh cửa sổ, đầy những mẫu thực vật khác nhau, vài mẫu trông như cỏ dại. Ở phía sau, một cây cọ mọc lên, đỉnh lá bó lại quanh trần nhà bằng kính, vài cây dương xỉ đang héo đi trong quên lãng. Không gian gợi lên một cảm giác um tùm, tĩnh mịch, bị bỏ hoang không người chăm sóc. cảm giác này còn tăng thêm với những giọt mưa chảy qua một khe kính vỡ, uốn dòng chảy vào một cái thùng.
Phòng hướng sáng không hề có tí ánh nắng nào.
Giữa ngôi nhà kính, một người đàn ông ốm yếu đang ngồi trên chiếc xe lăn, quấn chăn mỏng trên lòng, đang nhìn chằm chằm về phía cuối ngôi nhà. Nước mưa chảy ào ào trên mặt đất, làm cho khung cảnh càng thêm mơ hồ và hư ảo.
Ryan đến bên người đàn ông, hầu như bẽn lẽn.
— Thưa cha. Đây là những người có quyển Kinh thánh.
— Nói tiếng Anh đi, Ryan.. tiếng Anh.
Người đàn ông kéo mạnh một bên bánh để quay sang đôi diện với mọi người. Da gã mỏng như tờ giấy. Tiếng nói khò khè. Mắc chứng khí thũng, Gray đoán.
Ryan, người con, có một vẻ mặt đau khổ. Gray tự hỏi liệu gã có nhận biết được điều đó không.
— Tôi là Johann Hirszfeld, - người đàn ông nói. - Vậy các anh đến để hỏi về thư viện cũ. Chắc chắn gần đây có rất nhiều người quan tâm đến nó. Không có động tĩnh gì đã vài thập kỷ. Bây giờ thì mỗi năm hai lần.
Gray nhớ lại việc Fiona kể về một người đàn ông đứng tuổi bí ẩn đã ghé vào hiệu sách của bà Grette và lục soát tài liệu của họ. Hắn chắc hẳn đã tìm thấy vận đơn và lần dò đường đến đây.
— Ryan nói các anh có một trong những quyển sách ở đây.
— Cuốn Kinh thánh của Darwin. - Gray nói.
Ông già giơ tay ra. Fiona bước tới và đặt quyển sách vào lòng bàn tay lão. Lão để nó vào lòng.
— Chưa từng nhìn thấy cuốn này từ khi tôi còn bé. - Gã nói trong tiếng thở khò khè.
Gã nhìn về phía con trai mình.
— Được rồi, Ryan. Con nên qua coi bàn thường trực đi.
Ryan gật đầu, miễn cưỡng bước lùi lại, rồi quay đầu và đi ra.
Johann đợi cho tới khi người con trai đóng cánh cửa nhà kính, rồi thở dài, đôi mắt lão lại hướng về quyển Kinh thánh. Lão lật qua bìa trước, tìm cây gia phả gia đình Darwin phía trong.
— Đây là một trong những tài sản được nâng niu nhất của gia đình tôi. Quyển Kinh thánh là quà tặng tới ông cố nội của tôi vào năm 1901 từ Hội Hoàng gia Anh. ông từng là một nhà thực vật học lỗi lạc hồi đầu thế kỉ.
Gray nghe thấy giọng sầu muộn của lão.
— Gia đình tôi có một truyền thống lâu năm về nghiên cứu khoa học và đạt nhiều thành tựu. Không có gì dọc theo nhánh của Herr Darwin, nhưng chúng tôi đã để lại vài dòng ghi chú ở cuối trang. - Mắt lão hướng lại về phía trời mưa và phía cơ ngơi đang sũng nước. - Thời ấy đã qua lâu lắm rồi. Bây giờ tôi chắc rằng người đời biết tới chúng tôi như là những chủ khách sạn thôi.
— Về Kinh sách. - Gray nói. - Ngài có thể kể cho chúng tôi vài thứ về nó không? Có phải thư viện đã luôn được gìn giữ không?
— Đúng vậy. Vài cuốn được đem ra phổ biến trong các lĩnh vực khi một hay vài người bà con của tôi ra nước ngoài nghiên cứu. Nhưng cuốn này chỉ có một lần được đem ra khỏi nhà. Tôi chỉ biết vậy vì tôi có mặt ở đây khi nó được trả lại. Được ông nội tôi gửi lại qua đường bưu chính. Khuấy động nháo cả chỗ này lên đấy.
— Tại sao lại thế?
— Tôi nghĩ anh sẽ hỏi. Vì thế tôi bảo Ryan ra ngoài. Tốt nhất là nó không biết.
— Hỏi về cái gì ạ?
— Ông nội Hugo tôi đã làm việc cho phát xít Đức quốc xã. Và cả cô tôi, Tola nữa. Hai người không rời nhau lúc đó. Tôi biết được sau này, từ những tin đồn khiếm nhã giữa những người bà con, rằng họ theo đuổi một nghiên cứu bí mật nào đó. cả hai từng là những nhà sinh học lỗi lạc đáng được ghi nhận.
— Nghiên cứu gì vậy? - Monk hỏi.
— Không ai từng biết, cả hai người, ông nội tôi và cô Tola, qua đời vào cuối cuộc chiến tranh. Nhưng một tháng trước đấy, một chiếc thùng được gửi đến từ chỗ ông tôi. Nó chứa phần thư viện mà ông nội đã đem đi. Có lẽ ông biết mình đã sắp tới ngày tận thế và muốn gìn giữ những quyển sách. Trên thực tế có năm quyển tất cả.
Lão gõ nhẹ vào cuốn Kinh thánh.
— Đây là một trong những cuốn đó. Mặc dụ, điểu ông có thể muốn làm với cuốn Kinh thánh này là để dùng như một công cụ nghiên cứu, nhưng không ai có thể nói cho tôi biết.
— Có thể đó là một mảnh thân thuộc của gia đình chăng? - Fiona nói, giọng nhẹ nhàng.
Johann dường như cuối cùng cũng nhận ra cô gái trẻ. Lão gật đầu chậm rãi.
— Có thể lắm. Có lẽ mối quan hệ nào đó đến cha của ông. Một con dấu phê duyệt việc ông làm.
Lão lắc đầu.
— Làm việc cho Đức quốc xã. Chuyện làm ăn đáng kinh tởm.
Gray nhớ lại điều mà Ryan vừa nói.
— Đợi chút, ông là Người Do Thái, phải không ạ?
— Đúng thế. Nhưng anh phải biết rằng, bà cố nội của tôi, mẹ của ông nội Hugo, là người Đức, có nguồn gốc gia đình bản địa. Bao gồm cả quan hệ trong Đảng Đức quốc xã. Ngay cả khi cuộc tàn sát người Do Thái của Hitle diễn ra, gia đình tôi được tha bổng. Chúng tôi được liệt vào loại con lai, có huyết thống pha trộn. Đủ có chủng người Đức để thoát khỏi cái chết. Nhưng để chứng minh cho lòng trung thành, ông nội và cô tôi làm việc cho Đức quốc xã. Lúc đó, họ cũng đang lùng kiếm những nhà khoa học như sóc tìm hạt dẻ.
— Vậy là họ bị ép buộc. - Gray nói.
Johann nhìn ra phía cơn dông.
— Thời đó rất phức tạp. Ông nội tôi giữ vài đức tin lạ kì.
— Như là?
Johann dường như không nghe thấy câu hỏi.
Lão mở cuốn Kinh thánh và lật qua vài trang. Gray nhìn thấy vài dấu mực viết tay. Anh tiến lại gần và chỉ vào một vài dấu nguệch ngoạc vẽ bằng tay.
— Chúng tôi tự hỏi đây là những thứ gì? - Gray nói.
— Các anh có biết Hội kín Thule không? - Lão hỏi, dường như không nghe thấy câu hỏi của anh.
Gray lắc đầu.
— Họ là một hội kín của những người Đức cực đoan theo chủ nghĩa dân tộc. Ông tôi là một thành viên, được kết nạp khi ông hai mươi hai tuổi. Gia đình mẹ của ông nội có quan hệ với những người sáng lập hội. Họ rất tin tưởng vào triết học Siêu nhân.
— Người siêu phàm. Siêu nhân.
— Đúng. Hội được đặt theo tên của miền đất Thule thần thoại, vài dấu vết còn sót lại của vương quốc Atlantic mất tích, một vùng đất của chủng tộc siêu việt nào đó.
Monk gây ra một tiếng động lớn.
— Như tôi đã nói, - Johann thở khó nhọc. - ông nội tôi có vài niềm tin lập dị. Nhưng ông không ở trong số ít lúc bấy giờ. Đặc biệt là ở địa phương này. Chính ở trong những khu rừng này mà những người Đức trong bộ tộc Teuton cổ đã đánh cản những đạo quân La Mã, vạch định rõ ranh giới giữa nước Đức và đế chế La Mã. Hội kín Thule tin rằng những chiến binh Teuton là hậu duệ của chủng tộc siêu việt này.
Gray hiểu được lời khẩn cầu của câu chuyện huyền thoại. Nếu như những chiến binh Đức thời cổ đại là những siêu nhân, thì hậu duệ của họ - những người Đức đương đại - vẫn mang trong mình những gien di truyền.
— Đó là bắt nguồn của triết học chủng tộc Aryan.
— Đức tin của họ là tạp lẫn của nhiều thần thoại và những cạm bẫy ẩn khuất. Tôi chưa bao giờ thấu hiểu được. Nhưng theo gia đình tôi, ông nội có tính hay tò mò một cách khác thường. Luôn luôn tìm hiểu những điều kỳ lạ, nghiên cứu tỉ mỉ những điều bí ẩn của lịch sử. Rảnh rỗi, ông chỉ thích làm cho trí tuệ mình thêm nhạy bén. Bí quyết tăng trí nhớ, trò lắp hình. Luôn luôn chơi trò lắp hình. Sau đó ông khám phá ra những câu chuyện ẩn khuất và đi tìm sự thật đằng sau chúng. Nó trở thành nỗi ám ảnh.
Khi nói, ông già chú ý tới quyển Kinh thánh, lật nhanh những tranh sách. Cuối cùng, tới cuối quyển sách và tìm thứ gì đó bên trong bìa sau.
— Lạ thật đấy.
Lạ thật.
Gray tiến đến gần hơn, nhìn qua vai của lão.
—Gì ạ?
Lão nhấc một ngón tay xương xẩu chỉ vào phía trong tấm bìa. Lật lại phía bìa trước, rồi quay lại bìa sau.
— Cây gia phả gia đình Darwin. Nó không chỉ được viết ở phía trong bìa trước, mà còn cả ở phía bìa sau nữa. Tôi chỉ là một cậu bé hồi ấy, nhưng tôi nhớ rõ điều đó lắm mà.
Johann cầm cuốn sách, giơ lên phía bìa sau.
— Cây gia phả ở đằng sau bị mất rồi.
— Để tôi xem nào. - Gray lấy lại cuốn sách. Anh kiểm tra phía bên trong của bìa sau kỹ càng hơn. Fiona và Monk đứng ở hai bên.
Anh rà một ngón tay theo gáy sách, và chăm chú kiểm tra bìa sau.
— Nhìn này. - Anh nói. - Hình như là ai đó đã cắt rời trang trắng ở cuối quyển Kinh thánh và dán nó vào phía trong của bìa sau. Ngay phía trên của lần dán đầu tiên. - Gray hướng mắt về phía Fiona. - Có phải Grette đã làm thế không?
— Không thể nào. Bà thà xé rách bức tranh nàng Mona Lisa còn hơn.
Nếu không phải là bà Grette…
Gray liếc nhìn Johann.
— Tôi chắc rằng không ai trong gia đình tôi đã làm thế.
Thư viện được bán vài năm sau chiến tranh. Sau khi được gửi về đây, tôi không tin rằng có ai đã chạm tới quyển Kinh thánh.
Còn lại duy nhất Hugo Hirszfeld.
— Đưa dao cho tôi. - Gray nói và bước tối một chiếc bàn nhỏ.
Monk với tới ba lô và tháo lôi ra một con dao quân sự Thụy Sĩ. Anh mở ra và đưa cho Gray. Dùng mũi dao, Gray khía lách theo cạnh của tấm bìa cuối, rồi mới lật một góc lên. Tấm bìa dày bị nhấc lên dễ dàng. Chỉ có phía cạnh là dính lại.
Johann xoay chiếc ghế lăn tới gần họ. Lão phải dùng tay đẩy người lên để nhìn qua phía bên kia mép bàn. Gray không giấu việc anh đang làm. Anh có thể sẽ cần đến sự hợp tác của lão với bất kì thứ gì lộ ra.
Anh cắt bỏ trang trắng và để lộ ra vết dính đầu tiên của tấm bìa. Nửa sau cây gia phả gia đình Darwin được viết gọn gàng trên đó. Johann đã đúng. Nhưng đó không phải là tất cả mọi thứ trên tấm bìa lúc này.
— Thật khinh khủng. - Johann nói. - Tại sao ông nội lại làm thế? Xóa đi Kinh thánh như vậy?
Chồng lên cây gia phả, một biểu tượng lạ được viết bằng mực đen trên cả trang giấy, và được ấn sâu vào phía trong của quyển Kinh thánh.
Cùng một màu mực, một dòng duy nhất tiếng Đức được viết ngay phía dưới.
Gott, verzeihen mir. (tiếng Đức)
Gray dịch.
— Xin Chúa tha thứ cho con.
Monk chỉ ngón tay vào kí hiệu.
— Cái gì vậy? -
— Một chữ Run. - Johann nói, cau mày khó chịu thả mình xuống ghế của lão. - Thêm một điều điên rồ nữa của ông nội.
Gray hướng về phía gã.
Johann giải thích.
— Hội kín Thule tin vào phép lạ kỳ bí của chữ Run. Sức mạnh cổ xưa và những nghi lễ gắn liền với những biểu tượng xứ Bắc Âu. Bởi vì chủ nghĩa Đức quốc xã luôn khắc cốt ghi tâm triết lý siêu nhân của hội kín Thule, họ cũng hấp thụ thuyết thần bí về chữ Run ma thuật.
Gray chẳng lạ gì biểu tượng của Đức quốc xã và mối liên quan của nó đến ma thuật, nhưng ở đây điều này có nghĩa là gì?
— Thế ngài có biết ý nghĩa của biểu tượng này không? - Gray hỏi.
— Không. Đây không phải là chủ điểm mà người Do Thái gốc Đức chú ý đến. Không chú ý mãi cho đến sau chiến tranh.
Johann quay chiếc xe lăn lại và nhìn chằm chằm vào cơn bão. Sấm nổ rền, nghe như vừa ồ xa vừa ở gần cùng một lúc.
— Nhưng tôi biết người có thể giúp anh. Một người phụ trách bảo tàng trên kia.
Gray gập cuốn Kinh thánh lại và tiếp lời Johann.
— Bảo tàng gì cơ?
Một tia chớp ngoằn ngoèo làm sáng rực căn phòng. Johann chỉ tay lên phía trên. Gray nghển cổ nhìn lên. Trong ánh sáng đang mò đi của tia chớp, ẩn nấp sau chiếc rèm mưa, tòa lâu đài đồ sộ hiện ra.
— Bảo tàng Lịch sử của Hochstifts Paderborn. - Johann nói. - Bảo tàng mở cửa hôm nay. Bên trong lâu đài. - Lão quắc mắt về phía tòa lâu đài. - Họ sẽ chắc chắn biết biểu tượng có ý nghĩa gì.
— Sao lại thế? - Gray hỏi.
Johann nhìn chằm chặp vào anh như nhìn một gã khù khờ.
— Còn ai biết hơn họ? Đó là lâu đài Wewelsburg.
Vì Gray không đáp lại, lão tiếp tục vừa thở dài vừa nói.
— Lâu đài tuyệt vòi của Himmler. Thành trì của đội S.S Đức quốc xã.
— Vậy ra đó từng là lâu đài của Dracula - ma cà rồng. - Monk lầm bầm.
Johann tiếp tục nói:
— Vào thế kỷ mười bảy, những vụ án xử phù thủy được tiến hành ở đó, hàng ngàn phụ nữ bị tra tấn và tử hình. Himmler chỉ làm cho món nợ máu lớn thêm mà thôi. Một nghìn hai trăm người Do Thái từ trại tập trung Niederhagen đã chết trong công trình tu sửa lâu đài này của Himmler. Một chốn bị nguyền rủa. Đáng bị đập nát.
— Nhưng bảo tàng ở đó. - Gray hỏi, đánh lạc hướng sự giận dữ mỗi lúc một tăng lên của Johann. Hơi thở khò khè của lão có chiều hướng xấu đi. - Chắc họ sẽ biết về ma thuật chữ Run chứ?
Lão gật đầu.
— Heinrich Himmler từng là hội viên của Hội kín Thule, ngập mình nghiên cứu học vấn Run. Thực ra, đó là cách mà ông tôi bị đưa đẩy vào tầm chú ý của hắn. Họ đều có một nỗi ám ảnh về ma thuật.
Gray cảm nhận được hội tụ của những mối liên hệ và sự kiện, tất cả đều tập trung vào Hội kín Thule bí ẩn. Nhưng thế thì sao? Anh cần thêm thông tin nữa. Một chuyến đi tới lâu đài bảo tàng là rất xác đáng.
Johann lăn chiếc xe tách xa khỏi Gray, ra ý xua anh đi.
— Chỉ tại những sở thích chung với ông tôi mà Himmler cho gia đình chúng tôi, một gia đình con lai, một lệnh tha bổng. Chúng tôi không phải đến các trại tập trung.
Nhờ có Himmler.
Gray thấu hiểu nguyên do làm lão tức giận… và vì sao lão lại bắt con trai mình ra khỏi căn phòng. Đó là một gánh nặng gia đình, tốt nhất không nên để lộ ra. Johann nhìn chằm chằm vào cơn bão.
Gray thu lại quyển Kinh thánh và vẫy mọi người ra ngoài.
— Xin cảm ơn. - Anh gọi với lại phía ông già.
Johann không đáp lại lòi cám ơn, chìm đắm trong quá khứ.
Gray và đồng đội sớm đi ra và lại ở trên cổng vòm trước. Mưa tiếp tục trút xuống từ bầu trồi tưởng như thấp hơn. Sân trong vắng tanh. Hẳn không có ai lại đạp xe hay đi ô tô nhờ ngày hôm nay.
— Ta đi thôi. - Gray nói và đi về phía cơn mưa.
— Một ngày tuyệt vời để đổ dông bão vào một tòa lâu đài. - Monk nhạo báng.
Khi họ hối hả băng qua sân trong, Gray chú ý thấy một chiếc xe mới đỗ cạnh xe của họ. Không có người. Động cơ bốc khói trong cơn mưa. Hẳn vừa mới đến.
Một chiếc Mercedes màu tuyết trắng.
Trật Tự Đen Trật Tự Đen - James Rollins Trật Tự Đen