Số lần đọc/download: 3323 / 46
Cập nhật: 2015-10-05 14:35:46 +0700
Chương 10
M
ột lát sau, Katie dẫn Kristen đang lạnh run cầm cập và Josh đầy phấn khích về phía tấm phủ Alex đã trải ra từ trước. Giàn nướng đã được dựng lên và than bánh sáng trắng lấp lánh quanh các gờ.
Alex mở chiếc ghế gập bãi biển cuối cùng trên tấm phủ và quan sát ba cô cháu đi lại. “Biển thế nào các con?”
“Tuyệt lắm ạ!” Josh trả lời. Tóc thằng bé đã hơi khô, rối tung rối mù. “Bao giờ tới bữa trưa hả bố?”
Alex kiểm tra than. “Cho bố hai mươi phút.”
“Con với Kristen lại xuống biển nhé?”
“Con vừa lên mà. Sao con không nghỉ mấy phút nhỉ?”
“Không phải bọn con muốn bơi đâu. Bọn con muốn xây lâu đài cát,” Josh đáp.
Alex thấy răng Kristen vẫn đang đánh lập cập. “Có chắc con muốn thế không? Con nhợt nhạt lắm đấy.”
Kristen gật hùng hồn. “Con không sao,” con bé lẩy bẩy nói. “Bọn con đã định xây lâu đài trên bãi biển rồi.”
“Được rồi. Nhưng hai đứa mặc áo vào đi. Và phải ở ngay chỗ bố có thể thấy các con đấy,” anh nói, chỉ chỗ.
“Con biết mà bố.” Josh thở dài. “Con có còn bé bỏng gì nữa đâu.”
Alex lục lọi chiếc túi vải len thô và giúp cả Josh và Kristen mặc áo. Đợi bố mặc cho xong, Josh liền túm lấy cái túi đựng đầy đồ chơi bằng nhựa và cái xẻng rồi chạy biến đi, dừng lại chỉ cách mép nước vài bước. Kristen lon ton chạy theo anh trai.
“Anh muốn tôi xuống chỗ bọn nhỏ không?” Katie hỏi.
Anh lắc đầu. “Không sao đâu, bọn nhỏ sẽ ổn. Đây là phần chúng quen thuộc rồi. Ý tôi là khi tôi nấu ăn ấy mà. Chúng biết là không được xuống biển.”
Bước tới thùng giữ lạnh, anh ngồi xổm xuống và mở nắp hộp ra. “Cô cũng đói rồi phải không?” anh hỏi.
“Hơi hơi,” cô nói rồi mới nhận ra rằng mình đã không ăn gì ngoài món pho mát và rượu tối qua. Chợt nhiên, nghe thấy bụng mình réo, cô vội khoanh tay quanh bụng.
“Hay lắm, vì tôi cũng đói ngấu rồi.” Khi Alex bắt đầu lục tay vào thùng giữ lạnh, Katie để ý thấy cơ bắp cuồn cuộn trên cánh tay anh. “Tôi đã nghĩ mang bánh mì kẹp cho Josh, burger pho mát cho Kristen, còn cho cô và tôi là bít tết.” Anh lôi thịt ra đặt sang một bên, rồi cúi xuống cạnh lò nướng, thổi than.
“Tôi có giúp được gì không?”
“Cô giúp tôi phủ khăn trải bàn được không? Khăn trong thùng đồ lạnh ấy.”
“Chắc chắn rồi,” Katie nói. Cô lôi một túi đá ra và cứ thế nhìn chằm chằm. “Chỗ thức ăn này phải đủ cho nửa tá gia đình ấy,” cô thốt lên.
“À, phải, nếu đi với bọn trẻ thì phương châm của tôi lúc nào cũng là thừa còn hơn thiếu, vì tôi chẳng bao giờ biết được chính xác chúng sẽ ăn gì. Cô không tưởng tượng được đâu, bao nhiêu lần chúng tôi vừa tới đây thì tôi lại sực nhớ ra mình quên gì đó thế là phải đưa bọn trẻ lên xe và về cửa hàng. Tôi muốn tránh chuyện đó xảy ra hôm nay.”
Cô mở tấm trải bàn bằng nhựa mềm ra theo hướng dẫn của Alex, chặn các góc bằng cái chặn giấy mà không hiểu sao anh đã nhớ mang theo.
“Tiếp theo là gì? Anh muốn tôi đặt những thức khác lên bàn không?”
“Mấy phút nữa mới xong. Và tôi không biết cô thế nào chứ tôi thì muốn một chai bia lắm rồi,” anh nói. Thò tay vào thùng lạnh, anh lôi một chai ra. “Cô thì sao?”
“Tôi uống soda,” cô nói.
“Diet Coke nhé?” anh hỏi, thọc tay vào thùng sâu hơn.
“Được đấy.”
Khi anh đưa lon nước cho cô, bàn tay anh chạm nhẹ vào tay cô, dù cô không chắc anh có để ý không nữa.
Anh xịch mấy cái ghế. “Mời cô ngồi.”
Cô chần chừ rồi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh anh. Khi sắp ghế, anh đã để chúng tách rời sao cho họ không thể vô tình chạm phải nhau. Alex mở nắp chai bia và tu một hơi. “Còn gì tuyệt hơn một chai bia lạnh vào một ngày nắng trên bãi biển nhỉ.”
Cô mỉm cười, thoáng bối rối vì ở một mình bên cạnh anh. “Anh nói thì chắc là đúng thôi.”
“Cô không thích bia à?”
Tâm trí cô chợt hiện lên hình ảnh người bố và những cái lon Pabst Blue Ribbon rỗng nằm la liệt trên sàn nhà cạnh chiếc ghế bành ông ngồi. “Không thích lắm,” cô thừa nhận. “Chỉ thích rượu thôi, phải không?”
Mất một lúc cô mới nhớ ra anh từng cho cô một chai “Tối qua tôi có uống ít rượu, sự thực là thế. Với hàng xóm.”
“Thật sao? Hay quá.”
Cô chuyển sang một chủ đề an toàn. “Anh nói anh từ Spokane đến?”
Anh duỗi chân ra trước, bắt tréo ở mắt cá. “Sinh ra và lớn lên ở đấy. Tôi sống một ngôi nhà cho tới khi đi học đại học.” Anh liếc nhìn sang cô. “Tiện nói luôn, là Đại học Washington. Tiến lên, bầy chó săn(1).”
(1) Nguyên văn: Go, Huskies. Husky là tên thường gọi của loại chó to lớn, mạnh mẽ, dùng để kéo xe trượt tuyết, đây là biểu tượng may mắn của trường Đại học Washington.
Cô mỉm cười. “Bố mẹ anh vẫn sống ở đó chứ?”
“Phải.”
“Thế hẳn bố mẹ anh muốn đi thăm cháu cũng khó nhỉ.”
“Tôi đoán thế.”
Có gì đó trong giọng anh thu hút sự chú ý của cô. “Anh đoán thế ấy à?”
“Họ không phải kiểu ông bà hay ghé qua thăm con thăm cháu, dù chúng có sống gần đi nữa. Họ chỉ mới gặp bọn trẻ hai lần, một lần là khi Kristen sinh, còn lần thứ hai là trong đám tang.” Anh lắc đầu. “Đừng bắt tôi giải thích,” anh nói tiếp, “nhưng bố mẹ tôi không quan tâm đến bọn trẻ, họ chỉ gửi thiệp sinh nhật và quà Giáng sinh cho chúng tôi. Họ thích đi du lịch hoặc làm bất cứ cái gì họ thích làm hơn.”
“Sao?”
“Tôi làm gì được chứ? Đấy là tôi còn chẳng thể nói họ thật xa lạ với tôi, dù rằng tôi là con út trong nhà. Hồi tôi học đại học, lần đầu tiên họ tới thăm tôi là vào lễ tốt nghiệp, và dù tôi bơi đủ giỏi để nhận được một suất học bổng toàn phần, họ cũng chỉ xem tôi thi đúng hai lần. Dù tôi có sống ngay bên kia đường đối diện nhà họ, tôi nghĩ họ cũng không muốn sang thăm bọn trẻ đâu. Đó là một trong những lý do tôi sống ở đây. Chẳng có cớ gì mà không làm vậy, nhỉ?” “Còn ông bà ngoại bọn trẻ thì sao?”
Anh cạo cạo tấm nhãn dán trên chai bia. “Chuyện đó thì tế nhị hơn. Ông bà có hai cô con gái khác đã chuyển tới sống ở Florida, và sau khi bán lại cửa hàng cho tôi, họ chuyển xuống dưới đó. Một năm họ về thăm một hai lần, ở lại vài ngày, nhưng ông bà vẫn đau lòng lắm. Và ông bà cũng sẽ không ở lại ngôi nhà này đâu, vì tôi nghĩ nó gợi ông bà nhớ tới Carly. Quá nhiều ký ức.”
“Nói cách khác, anh hầu như chỉ có một thân một mình.”
“Ngược lại mới đúng,” anh nói, hất cằm về phía bọn trẻ. “Tôi còn có chúng kia mà, nhớ không?”
“Nhưng chắc nhiều khi cũng khó khăn lắm. Quản lý cửa hàng, nuôi dạy bọn trẻ.”
“Không chật vật lắm đâu. Miễn là tôi còn có thể dậy vào lúc sáu giờ sáng và tận nửa đêm mới lên giường thì vẫn duy trì mọi việc ổn thỏa.”
Cô cười êm ái. “Anh có nghĩ than sắp được rồi không?”
“Để tôi xem nào,” anh nói. Đặt chai bia xuống cát anh đứng lên khỏi ghế rồi đi về phía giàn nướng. Than bánh sáng trắng và hơi nóng phả lên thành những làn khói mỏng. “Cô căn giờ quả là chuẩn,” anh nói. Anh thả những miếng bít tết và chả kẹp hamburger lên giàn nướng, còn Katie thì ra chỗ thùng lạnh và bát đầu bưng vô khối hộp đồ ăn đặt lên bàn: Những hộp nhựa đựng xa lát khoai tây, xà lách trộn, dưa chua, xa lát đậu xanh, trái cây thái lát, hai túi khoai tây chiên, pho mát thái lát, và đủ loại gia vị.
Cô vừa lắc đầu vừa bắt đầu sắp xếp mọi thứ, thầm nghĩ chẳng hiểu sao Alex lại quên mất rằng các con anh vẫn còn nhỏ. Chỗ thức ăn ở đây còn nhiều hơn số thức ăn cô dự trữ trong nhà suốt thời gian sống ở Southport.
Alex lật bít tết và chả kẹp hamburger rồi cho thêm xúc xích lên giàn nướng. Đang đứng nướng, anh chợt nhận ra ánh mắt mình đang chuyển động theo đôi chân Katie thoăn thoắt đi lại quanh bàn, một lần nữa anh nhận ra rằng cô thật lôi cuốn biết bao.
Duờng như cô nhận ra anh đang nhìn mình chăm chú. “Sao vậy?” cô hỏi.
“Không có gì,” anh đáp.
“Anh đang nghĩ ngợi điều gì đó thì
Anh thở dài. “Tôi rất vui vì hôm nay cô đồng ý đi cùng,” cuối cùng anh nói. “Vì tôi đang có một buổi dã ngoại thật tuyệt vời.”
Alex đứng bên giàn nướng, họ bắt đầu nói những chuyện vu vơ. Alex cho cô biết đại khái về việc kinh doanh một cửa hàng tạp hóa ở thôn quê. Anh kể cho cô nghe bố mẹ vợ anh khởi nghiệp như thế nào và miêu tả một số vị khách quen với tình cảm trìu mến, những người đó đúng hơn thì nên xem là lập dị, và Katie hơi băn khoăn không biết anh có tả về cô như thế với ai đó khác trên bãi biển này không.
Dù sao điều đó cũng không quan trọng. Anh càng kể, cô càng nhận ra rằng anh là kiểu người luôn cố gắng tìm những điểm tốt đẹp nhất ở người khác, kiểu người không thích phàn nàn ca thán. Cô cố tưởng tượng xem hồi trẻ anh trông thế nào nhưng chẳng được, thế là dần dần cô lái cuộc nói chuyện theo hướng đó. Anh kể về thời niên thiếu ở Spokane và những kỳ cuối tuần lê thê trễ nải khi anh đạp xe dọc Đường mòn Centennial cùng đám bạn; anh kể với cô rằng một lần anh phát hiện ra môn bơi, nó nhanh chóng trở thành đam mê. Anh bơi bốn năm tiếng một ngày và mơ được thi đấu Olympic, nhưng một chấn thương rách chóp xoay xảy ra vào năm thứ hai đại học đã đặt dấu chấm hết cho tất cả những điều ấy. Anh kể với cô về những bữa tiệc nhóm và đám bạn thời đại học, anh thừa nhận rằng hầu như tất cả tình bạn ấy đều từ từ bị cuốn trôi đi cả. Khi anh nói, Katie để ý thấy rằng dường như anh không thêm thắt mà cũng chẳng giảm bớt chi tiết nào về quá khứ, anh rõ ràng cũng không quá bận tâm với những gì người khác nghĩ về mình.
Cô có thể thấy những dấu vết của một vận động viên tài năng ở anh, để ý thấy tư thế bước đi uyển chuyển thanh lịch và nụ cười thoải mái của anh, như thể từ lâu anh đã quen với cả chiến thắng cũng như thất bại. Khi anh ngừng lời, cô lo sợ rằng anh sẽ hỏi cô về quá khứ, nhưng anh dường như cảm nhận được rằng điều đó sẽ khiến cô không thoải mái và thay vì chuyện quá khứ cô sẽ lại viện đến một câu chuyện khác.
Khi thức ăn đã xong xuôi, anh gọi bọn trẻ, chúng liền chạy ào lên. Người hai đứa đầy cát, Alex bèn bảo chúng đứng qua bên để anh phủi cho. Ngắm nhìn anh, cô biết anh là một ông bố tốt hơn chính bản thân anh thừa nhận; tốt, cô nghĩ, trong mọi khía cạnh làm b
Khi bọn trẻ đã ngồi vào bàn, câu chuyện chuyển hướng. Cô lắng nghe bọn trẻ ríu ran về lâu đài cát của chúng và về một chương trình trên kênh Disney mà cả hai đứa đều thích mê. Khi bọn trẻ thắc mắc về những chiếc s’more(2) mà chúng nghĩ lát nữa mình sẽ được ăn - kẹo dẻo, những thanh sô cô la, vỏ bích quy giòn, nướng nóng cho tới khi tan chảy - cô nhận thấy rõ ràng Alex đã tạo nên những truyền thống thú vị, đặc biệt cho các con. Cô nghĩ, anh thật khác với những người đàn ông cô từng gặp trong quá khứ, khác với bất kỳ ai cô gặp trước kia, và khi câu chuyện dông dài tiếp tục, mọi dấu tích của nỗi căng thẳng mà có lần cô từng cảm thấy bắt đầu biến mất.
(2) Một loại bánh truyền thống ở Mỹ, người ta ăn vào những đêm lửa trại.
Thức ăn rất thơm ngon, một sự thay đổi miễn chê đối với thực đơn ăn chay khắc khổ gần đây của cô. Bầu trời trong vắt, màu xanh bất tận chỉ thỉnh thoảng điểm một cánh chim bay ngang lưng trời. Gió nhẹ dâng lên hạ xuống, vừa đủ thổi mát cho họ, và nhịp điệu đều đặn của sóng biển càng tạo nên cảm giác bình lặng.
Khi họ ăn xong, Josh và Kristen phụ dọn bàn và gói những món chưa ăn lại. Vài món sẽ không bị hỏng như dưa chua và khoai tây chiên thì được để lại trên bàn. Lũ trẻ muốn đi lướt ván nhựa, và sau khi Alex bôi lại kem chống nắng cho chúng, anh cởi áo ra và theo chúng ra nghịch sóng.
Katie bưng ghế ra ngồi ở mép nước và suốt một giờ sau đó cô ngắm anh giúp bọn trẻ lướt qua những con sóng vỗ bờ, chuyển hết đứa này sang đứa khác vào vị trí đón được sóng. Bọn trẻ ré lên sung sướng, rõ ràng là đang vô cùng hạnh phúc. Cô rất kinh ngạc trước khả năng của Alex, anh khiến các con cảm thấy như chúng là trung tâm chú ý. Cách anh đối xử với con cái thật dịu dàng, một sự kiên nhẫn sâu sắc mà cô chưa bao giờ tưởng tượng ra. Khi chiều sang, mây bắt đầu trôi, cô thấy mình mỉm cười với ý nghĩ rằng lần đầu tiên sau rất nhiều năm, cô mới có được cảm giác thư thái hoàn toàn. Và không chỉ thế, cô biết mình cũng đang vui sướng không kém gì bọn trẻ.