Số lần đọc/download: 2944 / 157
Cập nhật: 2017-08-27 07:34:52 +0700
Chương 7
T
hêm nhiều giấc mơ kinh hoàng nữa, tất cả hòa trộn vào nhau, chìm lẫn vào rồi vụt hiện lên từ nhau. Những mảnh vụn kinh hoàng từ mấy ngày gần đây: con mắt thép của một nòng súng nhìn trừng trừng vào tôi từ rất gần; một con đường ngổn ngang xác ngựa chết; chùm lưỡi của một con hồn rỗng trườn về phía tôi qua một lỗ hổng; rồi gã xác sống ghê tởm cười nhăn nhở với đôi mắt trống hoác.
Thế rồi tôi lại trở về nhà, nhưng tôi là một hồn ma. Tôi bồng bềnh lướt xuống con phố nhà tôi, đi qua cửa trước, vào nhà. Tôi thấy bố tôi ngủ gục bên bàn bếp, một chiếc điện thoại không dây ôm trước ngực.
Con chưa chết, tôi nói, nhưng những lời của tôi không vang lên thành tiếng.
Tôi thấy mẹ ngồi bên mép giường bà, vẫn mặc áo ngủ, nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ, một buổi chiều nhợt nhạt. Bà hốc hác, kiệt quệ vì than khóc. Tôi đưa tay ra chạm vào vai bà, nhưng bàn tay tôi đi xuyên qua bờ vai đó.
Rồi tôi có mặt tại tang lễ của chính mình, nhìn từ dưới huyệt mộ của mình lên một khoảng trời xám xịt hình chữ nhật.
Ba ông bác của tôi nhìn xuống, những cái cổ béo núc của họ căng phình ra từ những chiếc cổ cồn trắng hồ bột.
Bác Les: Thật đáng tiếc. Phải không?
Bác Jack: Anh thực sự cần phải đặt mình vào vị trí Frank và Maryann ngay lúc này mà cảm nhận.
Bác Les: Phải. Rồi người ta sẽ nghĩ gì?
Bác Bobby: Người ta sẽ nghĩ thằng bé có gì đó bất ổn. Mà đúng là thế.
Bác Jack: Dù sao tôi vốn đã biết. Là nó sẽ làm gì đó như thế này vào một ngày nào đó. Thằng bé có vẻ mặt đó, anh biết đấy? Chỉ một chút...
Bác Bobby: Bất bình thường.
Bác Les: Cái đó đến từ bên đằng nội nó, chứ không phải từ chúng ta.
Bác Jack: Đã đành. Thật khủng khiếp.
Bác Bobby: Phải.
Bác Jack:...
Bác Les:...
Bác Bobby: Ăn buffet nhé?
Mấy ông bác của tôi quay đi. Ricky xuất hiện, mái tóc xanh lục của cậu ta được vuốt keo thêm cho dịp này.
Người anh em. Giờ cậu chết rồi, tớ có thể lấy cái xe đạp của cậu chứ?
Tôi cố hét to: Tôi chưa chết!
Tôi chỉ đang ở xa thôi.
Tôi xin lỗi.
Nhưng những lời nói đó vọng trở lại, bị nhốt chặt trong đầu tôi.
Ông mục sư nhìn xuống. Đó là Golan, tay cầm Kinh Thánh, mặc áo chùng. Hắn cười nhăn nhở.
Bọn tao đang chờ mày đây, Jacob.
Một xẻng đất đầy rơi ào áo như mưa xuống tôi.
Bọn tao đang đợi đấy.
***
Tôi bật ngồi thẳng dậy, đột nhiên choàng tỉnh, miệng khô như giấy. Emma đang ở bên cạnh tôi, hai bàn tay đặt lên vai tôi. “Jacob! Ơn Chúa - cậu làm bọn mình sợ quá!”.
“Thế à?”.
“Cậu vừa có một cơn ác mộng”, Millard nói. Cậu ta đang ngồi đối diện với chúng tôi, trông như một bộ quần áo rỗng được hồ bột cứng để dựng lên tạo dáng. “Cậu còn nói mơ nữa”.
“Thế à?”.
Emma dùng một trong những chiếc khăn ăn ở khoang hạng nhất (vải thật!) để lau mồ hôi trên trán cho tôi. “Đúng thế”, cô nói. “Nhưng nghe cứ ú ớ lảm nhảm. Tớ chẳng thể hiểu nổi lấy một lời”.
Tôi nhìn quanh, cố định thần lại, nhưng dường như không ai khác nhận ra. Những đứa trẻ khác đang rải ra trong toa xe, tranh thủ chợp mắt hoặc mơ màng nhìn qua cửa sổ, hay chơi bài.
Tôi thành thực hy vọng không phải mình đang bắt đầu mất đi sự tỉnh táo.
“Cậu có hay gặp ác mộng không?” Millard hỏi. “Cậu cần mô tả chúng với Horace. Cậu ấy rất giỏi đoán mộng đấy”.
Emma nắn nắn cánh tay tôi. “Cậu chắc là cậu ổn cả chứ?”.
“Tớ ổn”, tôi nói, và vì không thích bị vặn vẹo, tôi liền thay đổi chủ đề. Thấy Millard đang giở tập Những truyện kể về người đặc biệt đặt trên lòng, tôi hỏi, “Đang đọc gì đó nhẹ nhàng à?”.
“Đang nghiên cứu”, cậu ta đáp. “Và không thể tin nổi tớ từng coi đây chỉ là những câu chuyện dành cho trẻ con. Trên thực tế, chúng cực kỳ phức tạp - thậm chí là thâm sâu – trong việc ẩn chứa các thông tin bí mật về thế giới người đặc biệt. Có lẽ tớ sẽ phải mất nhiều năm để giải mã tất cả chúng”.
“Nhưng giờ thì điều đó có ích gì cho chúng ta?” Emma hỏi. “Các Vòng Thời Gian liệu có ích gì nếu chúng có thể bị hồn rỗng phá vỡ? Thậm chí cả những Vòng Thời Gian bí mật trong cuốn sách đó cuối cùng cũng sẽ bị tìm ra”.
“Biết đâu đó là Vòng Thời Gian duy nhất bị đột nhập”, tôi nói đầy hy vọng. “Biết đâu con hồn rỗng trong Vòng của cô Wren theo cách nào đó chỉ là một trường hợp quái gở”.
“Một con hồn rỗng đặc biệt!” Millard nói. “Nghe thú vị đấy – nhưng không. Hắn không phải là tình cờ. Tớ tin chắc rằng những con hồn rỗng ‘nâng cấp’ này là một hợp phần trong cuộc tấn công vào các Vòng Thời Gian của chúng ta”.
“Nhưng bằng cách nào?” Emma nói. “Đám hồn rỗng đã biến đổi thế nào để giờ đây chúng có thể xâm nhập vào các Vòng Thời Gian?”.
“Đó là một điều tớ đã nghĩ đến rất nhiều”, Millard nói. “Chúng ta không biết nhiều về lũ hồn rỗng, vì chưa bao giờ có cơ hội nghiên cứu gã nào trong một môi trường được kiểm soát. Nhưng người ta vẫn nghĩ rằng, giống những người bình thường, chúng thiếu điều gì đó mà cậu, tớ cũng như tất cả những người còn lại trong toa tàu này sở hữu - một sự đặc biệt cốt yếu nào đó – cho phép chúng ta tương tác với các Vòng Thời Gian; để gắn vào và được hấp thụ vào chúng”.
“Như một chìa khóa”, tôi nói.
“Kiểu như vậy”, Millard nói. “Một số người tin rằng, cũng giống như máu hay dịch não tủy, sự đặc biệt của chúng ta có đặc tính vật chất. Một số người khác nghĩ nó ở trong chúng ta nhưng không phải là vật chất. Mà là linh hồn thứ hai”.
“Hừm”, tôi thốt lên. Tôi thích ý nghĩ này: sự đặc biệt không phải là một khiếm khuyết, mà là một sự tăng cường; không phải chúng tôi thiếu thứ gì đó những người bình thường có, mà là họ thiếu sự đặc biệt. Có nghĩa là chúng tôi hơn, chứ không kém.
“Tớ ghét tất cả mấy thứ lập dị đó”, Emma nói. “Ý tưởng rằng cậu có thể bắt giữ linh hồn thứ hai đó trong một cái bình ư? Đáng sợ quá”.
“Ấy thế nhưng theo năm tháng, đã có vài lần người ta thử làm đúng việc này”, Millard nói. “Gã lính xác sống đó đã nói gì với cậu nhỉ, Emma? ‘Tao ước gì tao có thể đóng chai thứ mày có’, hay gì đó đại loại nhỉ?”.
Emma rùng mình. “Đừng nhắc tớ nhớ lại”.
“Giả thuyết này cho rằng nếu bằng cách nào đó tinh chất đặc biệt của chúng ta có thể được chưng cất và thu giữ - trong một cái chai như hắn nói, hay nhiều khả năng hơn là trong một cái đĩa nuôi cấy – thì rất có thể tinh chất đó cũng chuyển được từ người này sang người khác. Nếu điều này khả thi, hãy hình dung ra thị trường chợ đen buôn bán các linh hồn đặc biệt sẽ bùng nổ trong giới những kẻ giàu có và vô lương tâm. Những năng lực đặc biệt như ngọn lửa của cậu hay sức mạnh của Bronwyn sẽ được bán cho ai trả giá cao nhất!”.
“Thật ghê tởm”, tôi nói.
“Phần lớn người đặc biệt nhất trí với cậu,” Millard nói, “đó chính là lý do vì sao những nghiên cứu như thế đã bị cấm từ nhiều năm trước”.
“Làm như lũ xác sống quan tâm đến luật của chúng ta vậy”, Emma nói.
“Nhưng toàn bộ ý tưởng này thật điên rồ”, tôi nói. “Nó không thể thực sự thành công được, phải không nào?”.
“Tớ cũng nghĩ thế”, Millard nói. “Ít nhất là cho tới ngày hôm qua. Giờ thì tớ không còn dám chắc nữa”.
“Bởi vì con hồn rỗng ở trong Vòng Thời Gian của trại động vật sao?”.
“Phải. Trước ngày hôm qua thậm chí tớ còn không chắc mình tin vào ‘linh hồn thứ hai’. Trong đầu tớ chỉ có một lý giải thuyết phục duy nhất cho sự tồn tại của nó: đó là khi một hồn rỗng ăn thịt đủ số lượng chúng ta, nó biến đổi thành một dạng sinh vật khác - một sinh vật có khả năng di chuyển qua các Vòng Thời Gian”.
“Nó đã trở thành một xác sống”, tôi nói.
“Đúng thế”, cậu ta nói. “Nhưng chỉ trong trường hợp nó ăn thịt những người đặc biệt. Nó có thể ăn thịt bao nhiêu người bình thường tùy thích mà không bao giờ biến thành một xác sống được. Do đó, chúng ta nhất định phải có điều gì đó người bình thường còn thiếu”.
“Nhưng con hồn rỗng tại khu trại động vật không hề biến thành xác sống”, Emma nói. “Nó biến thành một hồn rỗng có thể đi vào Vòng Thời Gian”.
“Điều đó làm tớ tự hỏi liệu có phải đám xác sống đã tác động vào tự nhiên”, Millard nói, “bắt nguồn từ việc truyền các linh hồn đặc biệt”.
“Tớ thậm chí chẳng muốn nghĩ về điều đó”, Emma nói. “Chúng ta làm ơn nói về điều gì khác được không?”.
“Nhưng bọn chúng lấy được những linh hồn ấy từ đâu chứ?” tôi hỏi. “Và bằng cách nào?”.
“Đã vậy, tớ sẽ đi ngồi chỗ khác”, Emma nói, và cô đứng dậy tìm một chỗ ngồi khác.
Millard và tôi ngồi im lặng trong toa tàu một hồi. Tôi không thể thôi hình dung ra cảnh bị trói lên một cái bàn trong khi một đám bác sĩ quái vật lấy linh hồn của mình ra. Nhưng bọn chúng làm thế bằng các nào chứ? Bằng một mũi kim chăng? Hay một con dao?
Để cắt đứt dòng suy nghĩ ghê rợn này, tôi lại cố thay đổi chủ đề lần nữa. “Mà trước hết bằng cách nào chúng ta lại trở nên đặc biệt được nhỉ?” tôi hỏi.
“Chẳng ai biết chắc cả”, Millard trả lời. “Dẫu vậy vẫn có các truyền thuyết”.
“Như là gì?”.
“Một số người tin rằng chúng ta là hậu duệ của một nhóm nhỏ những người đặc biệt đã sống cách đây rất, rất lâu”, cậu ta nói. “Họ rất hùng mạnh, và to lớn, giống như người khổng lồ đá chúng ta đã tìm thấy”.
Tôi nói, “Vậy tại sao chúng ta lại bé nhỏ thế này nếu chúng ta từng là những người khổng lồ?”.
“Truyện kể rằng theo năm tháng, khi chúng ta đông lên, sức mạnh của chúng ta giảm dần. Khi năng lực của chúng ta trở nên kém mạnh mẽ hơn, chúng ta cũng nhỏ lại”.
“Tất cả thật khó mà nuốt trôi”, tôi nói. “Tớ cảm thấy mình khỏe ngang một con kiến”.
“Thực ra thì kiến khá mạnh mẽ đấy, so với kích thước của chúng”.
“Cậu biết ý tớ là gì mà”, tôi nói. “Điều tớ thực sự không hiểu nổi là tại sao lại là tớ? Tớ chưa bao giờ đòi được trở thành thế này. Ai đã quyết định?”.
Đó là một câu hỏi tu từ; tôi không trông đợi bất kỳ câu trả lời nào, dù vậy Millard vẫn trả lời tôi. “Xin dẫn lời một người đặc biệt nổi tiếng: ở trung tâm bí ẩn của tự nhiên chứa đựng một bí ẩn khác”.
“Ai đã nói thế?”.
“Chúng ta biết về ông dưới tên gọi Perplexus Anomalus. Nhiều khả năng là một cái tên được nghĩ ra cho một nhà tư tưởng và một triết gia lớn. Perplexus cũng là một chuyên gia vẽ bản đồ. Ông đã vẽ ra phiên bản đầu tiên của Bản đồ Các Ngày, khoảng một nghìn năm trước”.
Tôi tặc lưỡi. “Đôi khi cậu nói cứ như thầy giáo vậy. Đã ai nói cho cậu biết điều đó chưa?”.
“Thường xuyên”, Millard nói. “Tớ rất muốn thử dạy học. Nếu như tớ không phải sinh ra thế này”.
“Chắc hẳn cậu sẽ rất xuất sắc trong việc đó”.
“Xin cảm ơn”, cậu ta nói. Rồi cậu im lặng, và trong sự im lặng tôi có thể cảm thấy cậu ta mơ về nó: những khung cảnh của một cuộc sống đáng lẽ đã diễn ra. Sau một hồi, cậu ta nói, “Tớ không muốn cậu nghĩ rằng tớ không thích là người vô hình. Có đấy. Tớ thích là người đặc biệt, Jacob – đó chính là cốt lõi của tớ. Nhưng có những ngày tớ ước gì có thể tắt được sự đặc biệt của mình đi”.
“Tớ hiểu ý cậu”, tôi nói. Nhưng tất nhiên tôi không hiểu. Sự đặc biệt của tôi có những thách thức của riêng nó, song chí ít tôi cũng có thể hòa nhập vào xã hội.
Cửa dẫn vào khoang của chúng tôi trượt mở. Millard nhanh chóng kéo mũ trùm áo khoác của cậu lên để giấu đi khuôn mặt – hay đúng hơn là sự thiếu vắng một khuôn mặt.
Một phụ nữ trẻ đứng trên ngưỡng cửa. Cô ta mặc đồng phục và bưng một chiếc hộp đựng những món hàng bán cho khách. “Thuốc lá nhé?” cô ta hỏi. “Hay sô cô la?”.
“Không, xin cảm ơn”, tôi nói.
Người phụ nữ nhìn tôi. “Em là người Mỹ”.
“Em e là thế”.
Cô dành cho tôi một nụ cười thương hại. “Hy vọng em có chuyến đi vui vẻ. Em đã chọn một thời điểm không thích hợp lắm để tới thăm nước Anh”.
Tôi bật cười. “Em cũng đã được bảo thế”.
Người phụ nữ rời đi. Millard nhích người để ngắm cô đi khỏi. “Đẹp đấy”, cậu ta nói bâng quơ.
Tôi chợt nghĩ có lẽ đã rất nhiều năm trôi qua kể từ khi cậu ta nhìn thấy một cô gái khác ngoài vài cô gái ít ỏi sống tại Cairnholm. Nhưng nói gì thì nói, liệu một người như cậu có thể có cơ hội nào với một cô gái bình thường chứ?
“Đừng nhìn tớ thế”, cậu ta nói.
Tôi không hề nhận ra mình đã nhìn cậu ta theo cách nào đó đặc biệt. “Thế nào cơ?”.
“Như thể cậu thấy ái ngại cho tớ vậy”.
“Đâu có”, tôi nói.
Nhưng đúng là thế.
Sau đó, Millard đứng khỏi chỗ của cậu ta, bỏ áo khoác ra và biến mất. Trong một hồi lâu tôi không thấy lại cậu ta nữa.
***
Từng giờ trôi qua, và đám trẻ giết thời gian bằng cách kể chuyện. Họ kể chuyện về những người đặc biệt nổi tiếng, và về cô Peregrine trong những ngày lạ lùng đầy phấn khích đầu tiên của Vòng Thời Gian bà làm chủ, rồi rốt cuộc họ đi đến kể chuyện của chính mình. Một vài câu chuyện tôi đã nghe trước đó – như việc Enoch đã dựng người chết dậy tại nhà tang lễ của bố cậu ta thế nào, hay việc Bronwyn, khi mới lên mười, đã vô ý cắn cổ người bố dượng hung bạo của cô – nhưng những câu chuyện khác hoàn toàn mới với tôi. Vì cho dù đều đã nhiều tuổi như vậy, đám trẻ cũng không thường xuyên chìm vào hồi ức.
Những giấc mơ của Horace đã bắt đầu khi cậu ta mới sáu tuổi, nhưng cậu ta không hề nhận ra chúng báo trước cho điều gì đó cho tới tận hai năm sau, khi vào một buổi tối cậu ta mơ thấy chiếc tàu Lusitania (*) bị chìm và ngày hôm sau nghe thấy sự kiện này trên phát thanh. Hugh, từ khi còn bé, đã thích mật ong hơn bất cứ loại đồ ăn nào khác, và khi lên năm tuổi, cậu bắt đầu ăn tổ ong cùng với mật - một cách ngấu nghiến tới mức lần đầu tiên tình cờ nuốt chửng một con ong, cậu không hề nhận ra cho tới khi cảm thấy nó đang vo vo lượn vòng trong dạ dày mình. “Con ong có vẻ chẳng hề thấy bận tâm”, Hugh nói, “vì thế tớ nhún vai rồi ăn tiếp. Chẳng mấy chốc tớ đã có cả một tổ trong bụng”. Khi lũ ong cần lấy phấn hoa, cậu ta đi tìm một cánh đồng đầy hoa nở, và chính tại một chỗ như thế, cậu ta đã gặp Fiona, lúc ấy đang nằm ngủ giữa những bông hoa.
(*) Tàu chở khách của Anh bị tàu ngầm Đức bắn chìm ngày 7/5/1915, làm 1198 hành khách và thủy thủ đoàn thiệt mạng.
Hugh cũng kể lại cả câu chuyện của cô gái. Fiona, theo cậu kể, là một người tị nạn từ Ireland, ở đó cô đã trồng cây lương thực cho dân làng mình trong thời kỳ nạn đói thập niên 1840 – cho tới khi cô bị buộc tội là phù thủy và bị xua đuổi. Đây là điều Hugh chỉ biết được sau nhiều năm tiếp xúc tế nhị không lời với Fiona, cô không nói không phải vì cô không thể, theo như lời Hugh, mà “vì những điều cô đã chứng kiến trong nạn đói khủng khiếp đến mức chúng đã lấy đi giọng nói của cô”.
Sau đó đến lượt Emma, nhưng cô không hề có hứng thú kể lại câu chuyện của mình.
“Sao lại không?” Olive nì nèo. “Thôi nào, hãy kể về lúc chị khám phá ra mình đặc biệt đi!”.
“Đó là một câu chuyện xưa rồi”, Emma lẩm bẩm, “và chẳng có ích gì. Mà không phải tốt hơn chúng ta nên nghĩ về tương lai thay vì quá khứ sao?”.
“Có người nổi cáu rồi kìa”, Olive nói.
Emma đứng dậy bỏ đi về phía cuối toa tàu, để không ai quấy rầy cô. Tôi để một hay hai phút trôi qua để cô không cảm thấy bị săn lùng, rồi tới ngồi xuống bên cạnh cô. Cô thấy tôi đến bèn giấu mình sau một tờ báo, giả bộ đang đọc.
“Tớ không có hứng nói về nó”, cô nói từ sau tờ báo. “Đó là lý do vì sao!”.
“Tớ có nói gì đâu”.
“Phải, nhưng rồi cậu sắp hỏi, vì thế tớ giúp cậu đỡ mất công”.
“Để cho công bằng”, tôi nói, “tớ sẽ kể cho cậu nghe một chuyện về tớ trước”.
Emma nhìn qua phía trên tờ báo, hơi có vẻ tò mò. “Nhưng chẳng phải tớ đã biết mọi thứ về cậu rồi sao?”.
“À”, tôi nói. “Không hẳn đâu”.
“Được rồi, vậy nói cho tớ biết ba điều về cậu mà tớ còn chưa biết. Và làm ơn chỉ là những bí mật tối tăm thôi. Giờ thì khẩn trương lên!”.
Tôi cố lục lọi trong đầu tìm những điều lạ lùng đáng quan tâm về mình, nhưng tôi chỉ nhớ ra được những thứ phiền toái. “Được rồi, một. Khi tớ còn nhỏ, tớ thực sự nhạy cảm khi chứng kiến bạo lực trên tivi. Tớ đã không hiểu chúng không phải là thực. Thậm chí chỉ cần một con chuột hoạt hình đấm một con mèo hoạt hình là đủ làm tớ phát hoảng và khóc ầm lên”.
Tờ báo của Emma hạ thấp xuống thêm một chút. “Chúa ban phước cho tâm hồn mong manh của cậu!” cô nói. “Và giờ hãy nhìn cậu xem - giết chết những con quái vật ghê rợn đó bằng cách đâm qua tròng mắt rỉ nước của chúng”.
“Hai”, tôi nói. “Tớ sinh vào dịp Halloween, và cho đến lúc tớ tám tuổi bố mẹ tớ vẫn làm tớ tin rằng bánh kẹo người ta đưa cho tớ khi tớ gõ cửa nhà họ chính là quà sinh nhật”.
“Hừm”, Emma lên tiếng, hạ tờ báo xuống thêm chút nữa. “Chuyện đó mới chỉ hơi nhờ nhờ tối thôi. Nhưng cậu vẫn được phép tiếp tục”.
“Ba. Khi chúng mình gặp nhau lần đầu, tớ tin chắc cậu sắp sửa cắt cổ tớ. Nhưng cho dù tớ sợ chết khiếp, vẫn có một giọng nói rất khẽ trong đầu tớ nói rằng: Nếu đây là khuôn mặt cuối cùng cậu thấy, ít nhất đó cũng là một khuôn mặt xinh đẹp”.
Tờ báo rơi xuống lòng cô. “Jacob, điều cậu nói...”. Cô nhìn xuống sàn, rồi ra ngoài cửa sổ, rồi quay trở lại tôi “... thật dễ thương”.
“Đúng thế mà”, tôi nói, và trượt bàn tay trên ghế tới chỗ bàn tay cô.
“Được rồi, đến lượt cậu”.
“Không phải tớ đang cố giấu gì đâu, cậu biết đấy. Chỉ là những câu chuyện cũ kỹ mốc meo đó làm tớ già đi đến cả chục tuổi, và thật vô tích sự. Nó không bao giờ chịu biến đi, cho dù có bao nhiêu ngày mùa hè huyền diệu đã chen vào giữa từ đó đến nay”.
Nỗi đau đó vẫn còn trong cô, vẫn nhức nhối sau chừng ấy năm.
“Tớ muốn biết về cậu”, tôi nói. “Cậu là ai, từ đâu tới. Thế thôi”.
Emma cựa mình bối rối. “Tớ chưa bao giờ kể cho cậu về bố mẹ tớ đúng không?”.
“Tất cả những gì tớ biết đều là do nghe từ Golan trong đêm đó tại kho chứa nước đá. Hắn nói họ đã đem cậu cho một gánh xiếc rong phải không?”.
“Không, không hẳn là vậy”. Cô dịch người xuống trên ghế, giọng hạ xuống chỉ còn là tiếng thì thầm. “Tớ đoán sẽ tốt hơn nếu cậu biết sự thật thay vì những lời đồn thổi và suy đoán. Vậy thì chuyện là thế này.
“Tớ bắt đầu bộc lộ năng lực khi mới mười tuổi. Tớ liên tục làm cháy giường của mình trong khi ngủ, cho tới khi bố mẹ lấy đi tất cả chăn đệm và để tớ nằm trên một khung giường kim loại trần trong một căn phòng trống trơn chẳng còn thứ gì có thể bắt lửa trong đó. Họ nghĩ tớ là kẻ mắc chứng cuồng phóng hỏa và một đứa nói dối, và sự thật rằng bản thân tớ có vẻ chẳng bao giờ bị bỏng là một bằng chứng hùng hồn. Nhưng tớ không thể bị bỏng, điều này ban đầu thậm chí tớ cũng chẳng biết. Tớ mới có mười tuổi: tớ chẳng biết gì hết! Đó là một việc thật kinh khủng, bộc lộ năng lực đặc biệt mà không hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra với mình, cho dù đó là nỗi kinh hoàng gần như toàn bộ những đứa trẻ đặc biệt đều trải qua vì có rất ít người trong số chúng ta do các ông bố bà mẹ đặc biệt sinh ra”.
“Tớ có thể hình dung ra được”, tôi nói.
“Một ngày, như mọi người biết, tớ cũng bình thường như ai, thế rồi hôm sau tớ cảm thấy một vết ban kỳ lạ trong lòng hai bàn tay mình. Nó đỏ rần, phồng lên, rồi nóng rực – nóng tới mức tớ phải chạy tới cửa hàng tạp hóa và cho cả hai bàn tay vào một thùng cá tuyết đông lạnh! Khi lũ cá bắt đầu rã đông và bốc mùi, người bán tạp hóa lại đuổi tớ về nhà, và ông ta đòi mẹ tớ phải trả tiền đền những thứ bị tớ làm hỏng. Đến lúc ấy hai bàn tay tớ đã đỏ rực lên: nước đá chỉ làm tình hình tệ thêm! Cuối cùng, chúng bùng cháy, và tớ chắc mình sắp phát điên”.
“Thế bố mẹ cậu nghĩ sao?” tôi hỏi.
“Mẹ tớ, một người cực kỳ mê tín, chạy khỏi nhà và không bao giờ quay lại nữa. Bà nghĩ tớ là một con quỷ từ thẳng địa ngục qua bụng bà lên trần thế. Bố tớ lại có cách nhìn nhận khác hẳn. Ông đánh đập tớ, nhốt tớ trong phòng, và khi tớ tìm cách đốt cánh cửa, ông dùng những tấm vải bọc a mi ăng trói tớ lại. Giữ tớ bị trói như thế nhiều ngày liền, thỉnh thoảng tự tay cho tớ ăn, vì ông không tin tớ đến mức cởi trói cho tớ. Mà ông ấy làm thế cũng phải, vì chắc tớ sẽ đốt ông ấy cháy đen ngay khi ông ấy cởi trói tớ”.
“Ước gì cậu đã làm vậy”, tôi nói.
“Cậu thật dễ mến. Nhưng làm thế chắc cũng chẳng ích gì. Bố mẹ tớ là những người kinh khủng – nhưng nếu họ không phải như thế, và nếu tớ sống với họ lâu hơn, kiểu gì rồi đám hồn rỗng cũng tìm ra tớ. Tớ nợ mạng sống của mình với hai người: Julia, em gái tớ, con bé đã cởi trói cho tớ vào một buổi tối để cuối cùng tớ cũng có thể chạy trốn; và cô Peregrine, cô tìm thấy tớ một tháng sau đó, lúc tớ đang làm người diễn trò nuốt lửa trong một gánh xiếc rong”. Emma mỉm cười buồn rầu. “Ngày tớ gặp cô cũng chính là ngày tớ coi là sinh nhật mình. Ngày tớ gặp được người mẹ thực sự”.
Tim tôi ít nhiều mềm ra. “Cảm ơn cậu đã kể với tới”, tôi nói. Nghe câu chuyện của Emma, tôi cảm thấy mình gần gũi hơn với cô, và ít cô đơn hơn trong tình trạng rối loạn của chính mình. Mỗi người đặc biệt đều đã phải vật lộn vượt qua một giai đoạn bất ổn đầy đau đớn. Tất cả những người đặc biệt đều từng bị thử thách. Sự khác biệt rõ ràng nhất giữa tôi và họ là bố mẹ tôi vẫn còn yêu quý tôi – và bất chấp những rắc rối tôi gặp phải với họ, tôi cũng yêu quý họ, theo cách thầm lặng của mình. Ý nghĩ tôi đang làm họ đau khổ giờ đây đã trở thành một cơn đau thường trực.
Tôi nợ họ những gì? So sánh nó với món nợ tôi còn nợ cô Peregrine hay bổn phận của tôi với ông nội – hay cảm xúc ngọt ngào, nặng nề tôi cảm thấy với Emma, cảm xúc có vẻ đang lớn dần lên sau mỗi lần tôi nhìn cô, thì sao?
Cán cân nghiêng về bên thứ hai. Nhưng rốt cuộc, nếu tôi sống sót qua chuyện này, tôi hẳn sẽ phải đối diện với quyết định tôi đã đưa ra và nỗi đau tôi đã gây ra.
Nếu.
Từ nếu luôn đẩy dòng suy nghĩ của tôi quay trở về hiện tại, vì nếu phụ thuộc rất nhiều vào việc tôi có giữ được sự minh mẫn hay không. Tôi không thể cảm nhận mọi thứ chính xác nếu tôi phân tâm. Nếu đòi hỏi sự hiện diện và tham dự trọn vẹn của tôi vào hiện tại.
Nếu vừa làm tôi sợ hãi nhưng cũng giúp tôi tỉnh táo ở mức tương đương.
London mỗi lúc một lại gần, những ngôi làng nhường chỗ cho các thị trấn, rồi thị trấn nhường chỗ cho các khu ngoại ô nằm liền nhau không gián đoạn. Tôi tự hỏi điều gì đang đợi chúng tôi ở đó; nỗi kinh hoàng mới nào đang chờ phía trước.
Tôi liếc mắt nhìn qua một tiêu đề trên tờ báo vẫn để mở trên lòng Emma: CÁC CUỘC OANH TẠC TÀN PHÁ THỦ ĐÔ. HÀNG CHỤC NGƯỜI CHẾT.
Tôi nhắm mắt lại và cố không nghĩ đến điều gì hết.