Số lần đọc/download: 2681 / 180
Cập nhật: 2017-08-30 02:58:13 +0700
Sáng Tạo Phi Lý - Triết Học Và Hư Cấu
M
ọi sinh mệnh kiên trì sống trong bầu không khí phi lý tinh lọc sẽ không trụ lâu được nếu không có những tư duy thường trực và sâu sắc tiếp sức mạnh cho chúng. Chỉ riêng sự trung thành với phi lý là không đủ. Con người tỉnh thức đã hoàn thành nghĩa vụ của mình giữa những cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất mà không tin rằng có sự mâu thuẫn. Bởi lẽ quan trọng là không được trốn tránh điều gì. Chịu đựng được sự phi lý của thế giới là niềm vinh dự siêu hình. Chinh phục hay diễn xuất, hay trải nghiệm nhiều cuộc tình, cuộc nổi dậy phi lý là cống vật mà con người dâng cho phẩm giá của mình trong một chiến dịch anh ta đã bị đánh bại tử đầu.
Đây đơn thuần là vấn đề trung thành với nguyên tắc của trận chiến. Suy nghĩ đó có lẽ đủ để giúp nuôi dưỡng một tâm trí, nó đã chống đỡ và bây giờ vẫn chống đỡ cho các nền văn minh. Không thể phủ nhận chiến tranh. Phải sống cùng nó hay chết vì nó. Như vậy sự phi lý ở đây là: phải sống cùng nó để nhận ra những bài học từ nó và giành lại xương thịt con người, về mặt này, niềm vui phi lý cao nhất là sự sáng tạo. Như Nietzsche nói: “Nghệ thuật và không có gì ngoài nghệ thuật, chúng ta có nghệ thuật để không phải chết vì sự thật.”
Trong trải nghiệm mà tôi đang cố gắng mô tả và làm rõ bằng nhiều cách thức, một điều chắc chắn rằng hễ một nỗi đau khổ bị dập tắt thì nỗi đau khổ mới sẽ sinh ra. Cuộc truy tìm ngây ngô theo sau sự lãng quên, lời kêu cầu được thỏa mãn giờ không tiếng vọng. Nhưng sự căng thẳng thường trực khiến con người phải đối mặt với thế giới, cơn cuồng nhiệt tuân theo mệnh lệnh thúc giục anh ta phải lĩnh hội mọi thứ khiến anh ta rơi vào một cơn sốt khác. Trong vũ trụ này, tác phẩm nghệ thuật trở thành cơ may duy nhất để anh ta giữ được ý thức và sắp đặt những chuyến phiêu lưu của nó. Sáng tạo là sống nhiều gấp hai lần. Những dọ dẫm, cuộc kiếm tìm đầy bất an của Proust, những tỉ mẩn nhặt nhạnh nào hoa, nào giấy dán tường, và cả những nỗi lo âu của ông ta, chẳng hàm nghĩa điều gì khác cả. Nó cũng không nhiều ý nghĩa hơn sự sáng tạo liên tục dù khó thấy nơi người diễn viên, kẻ chinh phục, và mọi con người phi lý trong cuộc sống hàng ngày của họ. Tất cả bọn họ đều đang thử đóng kịch, lặp lại, và tái tạo cái thực tại của họ. Đến tận cùng ta luôn đến bước đường đối mặt với sự thật. Toàn bộ tồn tại của một con người vốn ngoảnh mặt trước sự bất diệt chính là vở kịch lớn không lời dưới lớp mặt nạ phi lý. Sáng tạo là vở kịch câm vĩ đại.
Những kẻ nói trên biết cách bắt đầu, và sau đó toàn bộ nỗ lực của họ là để kiểm nghiệm, để phóng chiếu, và làm phong phú thêm hòn đảo phù du họ vừa đáp xuống. Nhưng trước hết họ phải biết đã. Vì cuộc khám phá phi lý trùng hợp với đoạn ngừng khi mà những đam mê trong tương lai được chuẩn bị và hợp thức hóa. Ngay cả những người không theo phúc âm nào vẫn có ngọn Núi Oliu của riêng mình. Không được phép ngủ quên trên đó. Vì đối với con người phi lý, điều quan trọng không phải là lý giải và giải quyết, mà là trải nghiệm và mô tả. Tất cả khởi đầu với sự dửng dưng sáng suốt.
Mô tả, đó là tham vọng tối hậu của một suy nghĩ phi lý. Cũng như khoa học, một khi đă đi đến tận cùng những nghịch lý của nó, thì sẽ ngừng đưa ra gợi ý lý giải tiếp, để chiêm ngắm và phác họa cảnh quan muôn đời trinh nguyên của các hiện tượng. Từ đó trái tim học được rằng, cảm xúc làm lòng ta rộn ràng khi nhìn thấy các khía cạnh của thế giới này không phải xuất phát từ sự sâu sắc, mà là từ sự đa dạng của chúng. Lý giải chẳng ích gì, cảm thụ vẫn còn mãi, và ứng với nó là những những lời mời gọi liên tục từ một vũ trụ vô cùng tận về số lượng. Từ đây có thể hiểu được vị trí của tác phẩm nghệ thuật.
Tác phẩm nghệ thuật ghi dấu đồng thời cái chết của một kinh nghiệm lẫn sự nhân lên của nó. Nó là một hình thức lặp lại đơn điệu mà đầy đam mê những chủ đề đã được hòa phối bởi thế giới: cơ thể, những thánh tượng trơ trơ không biết mệt trụ trên trán tường các đền thờ, các hình thái hay màu sắc, con số hay nỗi đau buồn. Như vậy khi một lần nữa đọ những chủ đề chính của tiểu luận này trong thế giới tuyệt vời và tươi non của người sáng tạo, kết luận không hề dửng dưng. Thật sai lầm khi tìm một biểu tượng trong nó và cho rằng tác phẩm nghệ thuật rốt cuộc là nơi trú ẩn cho sự phi lý. Bản thân nó là một hiện tượng phi lý, và ở đây ta chỉ quan tâm đến sự mô tả của nó. Tác phẩm nghệ thuật không là lối thoát cho căn bệnh trí tuệ. Mà nó là một trong những triệu chứng của căn bệnh ảnh hưởng toàn bộ tư duy của một con người. Nhưng tác phẩm nghệ thuật đã khiến lần đầu tiên tâm trí bước ra ngoài chính nó và đặt nó đối diện với những tâm trí khác; không phải để nó lạc lối mà là để chỉ rõ cho nó con đường cụt mà tất cả đều đã dấn vào. Nói theo lập luận phi lý, thì sự sáng tạo theo đuổi sự dửng dưng lẫn khám phá. Nó đánh dấu nơi những đam mê phi lý bung nở và lý lẽ dừng chân. Địa vị của nó trong tiểu luận này sẽ được biện luận theo hướng này.
Ớ đây cần xem xét một số chủ đề chung của người sáng tạo và nhà tư tưởng để chỉ ra trong các tác phẩm nghệ thuật mọi mâu thuẫn trong tư duy liên quan đến sự phi lý. Thật ra, không có nhiều kết luận đồng nhất chứng minh sự liên quan của tâm trí bằng kết luận về các mâu thuẫn chung. Như vậy nó gắn với tư duy và sáng tạo. Có lẽ tôi không cần phải nói rằng cùng một nỗi thống khổ đã thúc con người hướng tới hai điều đó. Tâm trí và sáng tạo trùng nhau ở điểm khởi đầu là đây. Nhưng tôi thấy rằng rất hiếm tư tưởng bắt nguồn từ sự phi lý trụ lại được trong quá trình sáng tạo. Và chính giữa những sự chệch hướng lẫn bất trung (so với tư tưởng phi lý ban đầu) đó, tôi lượng được điều gì thuộc về sự phi lý. Tôi cũng tự hỏi: Liệu có thể nào thực hiện tác phẩm nghệ thuật phi lý được không?
***
Không thể nào quá khăng khăng một hướng về bản chất dễ đổi dời của sự đối lập xưa cũ giữa nghệ thuật và triết học. Nếu khẳng định sự đối lập đó theo nghĩa quá bó hẹp, thì hẳn nhiên sẽ sai. Còn nếu chỉ nói rằng hai lĩnh vực đó, mỗi lĩnh vực đều có môi trường riêng biệt của chúng, thì có lẽ đúng nhưng vẫn còn mơ hồ. Luận cứ duy nhất khả dĩ chấp nhận được căn cứ trên mâu thuẫn giữa người triết gia được bao bọc bên trong hệ thống của chính ông ta và người nghệ sĩ khi được đặt trước tác phẩm của mình. Nhưng luận cứ đó chỉ thỏa đáng khi áp dụng trong một số hình thức nghệ thuật và triết học nhất định, mà ở đây ta coi là thứ yếu. Ý tưởng cho rằng có thứ nghệ thuật tách rời khởi người sáng tạo ra nó không chỉ là đã quá lỗi thời, mà còn sai lầm. Trái với người nghệ sĩ, chưa có triết gia nào sáng tạo được nhiều hệ thống. Nhưng thật ra cho đến nay, cũng chưa có nghệ sĩ nào diễn tả được nhiều hơn một chủ đề dù dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Trong nghệ thuật có sự toàn hảo tức thời và luôn cần đổi mới, đúng thế, nhưng chỉ dựa trên một khái niệm định trước. Vì tác phẩm nghệ thuật cũng như một công trình xây dựng, và ai cũng biết các nghệ sĩ sáng tác vĩ đại “nhất điệu” đến thế nào. Với lý do tương tự như các nhà tư tưởng, người nghệ sĩ gắn bó và hóa thân trong tác phẩm họ tạo ra. Sự thẩm thấu đó làm dấy lên những vấn đề quan trọng nhất trong mỹ học. Hơn nữa, với những ai tin vào tính đơn mục đích của tâm trí, thì sự phân biệt dựa trên phương pháp và đối tượng sáng tạo quả là vô ích. Giữa những môn nghệ thuật mà con người đặt ra cho chính mình nhằm thông hiểu và yêu thương, không hề có rào cản nào. Chúng đan cài vào nhau, và được nối kết bởi cùng một mối lo âu.
Đầu tiên cần nói rõ điều này. Việc thực hiện một tác phẩm nghệ thuật phi lý đòi hỏi một tư tưởng sáng suốt nhất. Nhưng đồng thời đó không được là một tư tưởng rõ ràng hiển nhiên, ngoại trừ do trí tuệ tự điều hòa. Mâu thuẫn này có thể được giải thích theo sự phi lý. Tác phẩm nghệ thuật ra đời khi trí tuệ khước từ suy luận về điều chắc chắn cụ thể. Nó đánh dấu chiến thắng của xúc cảm trần tục. Chính tư tưởng sáng suốt khuấy động nó, nhưng chính trong hành động đó tư tưởng chối bỏ nó. Nó sẽ không đầu hàng trước nỗi cám dỗ chấp nhận thêm thứ được mô tả là một chiều ý nghĩa sâu sắc hơn, mà nó biết là không hợp lý. Tác phẩm nghệ thuật là hiện thân của một vở kịch của trí tuệ, chỉ là nó chứng tỏ điều này theo lối gián tiếp. Tác phẩm nghệ thuật phi lý đòi hỏi người nghệ sĩ ý thức được những hạn chế này cũng như một môn nghệ thuật trong đó cái cụ thể biểu hiện không gì khác hơn là chính nó. Nó không thể là mục đích, ý nghĩa, hay niềm an ủi cho cuộc đời. Sáng tạo hoặc không sáng tạo đều không thay đổi điều gì. Người sáng tạo phi lý không đề cao đánh bóng tác phẩm của mình. Anh ta có thể chối bỏ tác phẩm của mình. Và trên thực tế đã có những trường hợp như vậy. Cứ xét trường hợp của Rimbaud trong thời kỳ ông ở Abyssinia cũng đủ rõ.
Đồng thời ta cũng thấy được một nguyên tắc thẩm mỹ trong nghệ thuật. Những tác phẩm nghệ thuật thực thụ luôn là thước đo nhân văn. Về cơ bản đó là những tác phẩm phản ánh “ít hơn”. Giữa toàn bộ trải nghiệm của người nghệ sĩ và tác phẩm phản ánh trải nghiệm đó có mối liên hệ nhất định, như giữa diễn tiến của nhân vật Wilhelm Meỉster với sự trưởng thành của Goethe. Mối quan hệ sẽ trở xấu khi muốn bày toàn bộ trải nghiệm lên những trang giấy đẹp đẽ có họa tiết viền quanh trong một tác phẩm văn chương có tính lý giải. Còn mối quan hệ đó tốt đẹp khi tác phẩm chỉ là một mảnh cát từ kinh nghiệm, một mặt của khối kim cương trong đó ánh rực rỡ từ bên trong tỏa ra không giới hạn. Trong trường hợp đầu tiên, có sự quá tải lẫn kỳ vọng hướng đến vĩnh cửu. Trong trường hợp thứ hai, tác phẩm phong phú giàu có vì toàn bộ kinh nghiệm ẩn hàm trong đó, với độ sâu dày khôn dò. Vấn đề của người nghệ sĩ phi lý là phải đạt tới trình độ savoir-vivre (ở đây tạm dịch là biết xử lý tác phẩm), vốn vượt cao hơn savoir-faire (khả năng xử lý tác phẩm). Và cuối cùng, trên tất cả, các nghệ sĩ vĩ đại trong môi trường này là những hiện hữu sống tuyệt vời, khái niệm “sống” ở đây ngang ngửa với trải nghiệm lẫn phản ánh. Do đó tác phẩm thể hiện vở diễn của trí tuệ. Tác phẩm phi lý minh họa sự chối từ của tư duy trước danh giá gán cho nó, nó từ chối không trở thành thứ gì hơn là một trí tuệ mô tả tỉ mỉ những vẻ ngoài và vỏ bọc bằng những hình ảnh không chứa lý giải lý trí nào trong đó. Nếu thế giới này rõ ràng dễ hiểu, nghệ thuật sẽ không tồn tại.
Ở đây tôi không nói đến các môn nghệ thuật của hình thái hay màu sắc, trong đó sự mô tả thắng thế trong sự giản dị tuyệt vời của nó. Sự biểu lộ bắt đầu nơi mà tư tưởng kết thúc. Những xác ướp thiếu niên với hốc mắt trống rỗng được người ta đưa vào đền thờ và viện bảo tàng – triết lý của họ thể hiện trong cử chỉ. Đối với con người phi lý, điều đó còn dạy họ nhiều điều hơn mọi thư viện trên đời. Điều này cũng đúng cho âm nhạc, ở một khía cạnh khác. Nếu có môn nghệ thuật không chứa đựng bài học nào, thì đó hẳn là âm nhạc. Nó liên quan quá mật thiết với toán học đến nỗi không phải vay mượn sự vô vị lợi của môn này. Trò chơi tâm trí tự bày ra cho nó tuân theo những quy luật định sẵn và nhịp nhàng này, diễn ra trong tầm âm vang ta nghe được, và xa hơn đó những rung chấn gặp nhau trong một vũ trụ phi nhân. Không còn cảm thụ nào tinh thuần hơn thế. Những ví dụ này quá dễ thấy. Con người phi lý nhìn nhận những hòa âm và hình thái ấy là của mình.
Tôi muốn nói đến một dạng tác phẩm nghệ thuật mà trong đó nỗi cám dỗ lý giải vẫn mạnh nhất, ảo tưởng tự động phơi lộ, và việc đi đến kết luận hầu như không thể tránh khỏi. Đó chính là sáng tạo hư cấu. Hãy thử tìm xem trong đó sự phi lý có trụ được không.
***
Việc tư duy, về cơ bản là sáng tạo ra một thế giới (Hoặc rào chắn thế giới riêng của mình, cả hai đều dẫn đến cùng một kết quả). Quá trình đó phát sinh từ mối bất đồng cơ bản tách rời con người khỏi kinh nghiệm để tìm ra một điểm chung tùy theo nỗi hoài vọng của nó, một vũ trụ được rào giậu bởi lý lẽ hay được thắp sáng bởi các phép loại suy, nhưng chính nó, dù trong trường hợp nào đi nữa, đều chừa lại một cơ hội để hủy bỏ cuộc phân ly khôn kham đó. Người triết gia, bao dù ông ta có là Kant đi chăng nữa, cũng là một người sáng tạo. Triết gia có những nhân vật, những biểu tượng, và hành động được che đậy. Ông còn có sẵn các kết cục khác nhau cho cốt truyện của mình. Ngược lại, sự vượt lên của thể loại tiểu thuyết so với thơ ca và tiểu luận đơn thuần tượng trưng cho lượng trí thức hóa nghệ thuật lớn hơn, mặc dù nhìn bề ngoài khó thấy điều đó. Xin đừng nhầm lẫn, ở đây tôi chỉ đang nói đến những tiểu thuyết vĩ đại nhất. Sự giàu có và tầm quan trọng của một thể loại văn học thường được đo lường bằng lượng “sản phẩm rác” trong đó, nhưng không thể vì số lượng tiểu thuyết tồi mà quên giá trị của những kiệt tác. Những kiệt tác này thực sự đã mang theo cả một vũ trụ trong chúng. Tiếu thuyết có logic riêng, lập luận riêng, trực giác riêng, và những định đề riêng. Nó cũng có đòi hỏi riêng về mức độ rõ ràng.
Sự đối lập kinh điển mà tôi có nhắc bên trên thậm chí còn ít chính đáng hơn trong trường hợp cụ thể này. Tác phẩm có giá trị lâu dài khi dễ dàng tách rời triết lý khỏi tác giả của nó. Ngày nay, khi tư duy đã không còn đòi quyền bao trùm phổ quát, khi lịch sử đáng nói nhất của tư duy là về những ăn năn của nó, thì ta biết rằng cái hệ thống trong tiểu thuyết, nếu là tác phẩm xứng tầm, không thể nào tách rời khỏi tác giả của nó. Như tác phẩm Đạo đức, xét theo một trong nhiều khía cạnh, chính là lời xưng tội cá nhân dài dòng nghiêm khắc. Tư duy trừu tượng cuối cùng cũng quay về với trụ cột xác thịt của nó. Tương tự, những hoạt động hư cấu của thân xác và của những đam mê được điều chỉnh hơi nghiêng theo hình dung về thế giới của tác giả. Nhà văn đã thôi không còn đơn thuần kể lại “những câu chuyện” mà sáng tạo ra vũ trụ của riêng mình. Những tiểu thuyết gia vĩ đại là các tiểu thuyết gia – triết học, nghĩa là đối cực với các người viết – luận đề. Ví dụ như Balzac, Sade, Melville, Stendhal, Dostoevsky, Proust, Mairaux, Kafka, và nhiều vị khác.
Nhưng trong thực tế, việc các tiểu thuyết gia ưa dùng hình tượng hon là các luận cứ chặt chẽ trong tác phẩm liên quan đến một suy nghĩ chung, cho rằng nguyên lý diễn giải nào cũng là vô dụng, trong khi vẻ ngoài tác động vào cảm thụ của người ta chắc chắn truyền đi được thông điệp dẫn dắt họ muốn. Họ coi tác phẩm nghệ thuật vừa là kết thúc vừa là khởi đầu. Nó là kết quả của một thứ triết lý thường không được biểu đạt ra, là sự minh họa đồng thời là kết thúc hoàn hảo cho triết lý đó. Nhưng nó chỉ trở nên trọn vẹn được nhờ những hàm ý của triết lý đó. Cuối cùng, nó cũng lên tiếng bênh vực cho một biến thể của chủ đề cũ xưa về một tư tưởng nhỏ bé bị tách rời khỏi cuộc sống, trong khi rất nhiều tư tưởng quay về hòa hợp với cuộc sống. Khi không thể trau chuốt được thực tại, tư duy ngừng mô phỏng nó. Thể loại tiểu thuyết được nhắc đến ở đây là thứ nhạc cụ của tri thức vô tận có liên quan, cũng như của tình yêu. Với tình yêu, sáng tạo hư cấu ban đầu khiến ta kinh ngạc thán phục, sau đó gợi lên những suy ngẫm phong phủ.
***
Ít nhất đó là những nét mê hoặc tôi thấy được ban đầu. Nhưng tôi cũng thấy những điều tương tự khi chứng kiến sự tự sát của những tư tưởng bị làm nhục của những người ưu tú.
Điều tôi thực sự quan tâm là tìm biết và mô tả lực lượng đã hướng họ trở về con đường chung của ảo tưởng. Do đó phương pháp bên trên cũng giúp được cho tôi ở đây. Vì đã vận dụng qua phương pháp này, nên tôi có thể rút ngắn lập luận và đi đến kết luận luôn trong một ví dụ cụ thể. Tôi muốn biết liệu rằng, khi chấp nhận một cuộc sống không viện cầu, thì người ta liệu có đồng thời chấp nhận làm việc và sáng tạo không viện cẩu hay không, và nếu có thì con đường đưa tới sự giải phóng này là gì. Tôi muốn giải phóng vũ trụ của mình khỏi những bóng ma của nó và chất đầy nó chỉ bằng những sự thật cụ thể của phàm nhân mà tôi không thể phủ nhận được sự hiện diện của chúng. Tôi có thể trình diễn tác phẩm phi lý, và chọn quan điểm sáng tạo chứ không phải quan điểm nào khác. Nhưng một quan điểm phi lý, nếu duy trì được, thì phải ý thức rằng nó song hành với sự vô vụ lợi. Tác phẩm nghệ thuật cũng vậy. Nếu những lời răn của sự phi lý không được tuân theo, nếu tác phẩm nghệ thuật không minh họa cho sự phân ly và nổi dậy, nếu nó hiến thân cho những ảo ảnh và làm dấy lên niềm hy vọng, thì tác phẩm ấy không còn vô vụ lợi nữa. Khi đó tôi có thể không tách mình ra khỏi nó nữa. Cuộc đời tôi có lẽ sẽ tìm ra được ý nghĩa nào đó trong nó, nhưng đó chỉ là một ý nghĩa tầm thường. Tác phẩm không còn là cuộc luyện tập của sự dửng dưng lẫn niềm đam mê vốn đội tấm vương miện huy hoàng và phù phiếm lên cuộc sống con người.
Trong loại hình sáng tạo trong đó nỗi cám dỗ đưa ra giải thích là mạnh mẽ nhất, liệu người viết có thế vượt qua sự cám dỗ đó không? Trong thế giới hư cấu trong đó nhận thức về thế giới thực là sắc bén nhất, tôi có thể giữ nguyên lòng trung thành với sự phi lý mà không hiến mình cho khao khát được phán xét đánh giá? Phải trăn trở với quá nhiều câu hỏi trong nỗ lực cuối cùng này. Đã quá rõ những câu hỏi ấy tượng trưng cho điều gì. Chúng là những đắn đo tối hậu của nhận thức, nó sợ bỏ rơi bài học đầu tiên đầy khó khăn mà nó học được để chạy theo ảo tưởng cuối cùng. Điều gì đúng cho sáng tạo, xét như là một trong những quan điểm có thể có của một con người ý thức được sự phi lý, cũng đúng cho mọi phong cách của cuộc sống mở ra trước mặt anh ta. Người chinh phục hay người diễn viên, người sáng tạo hay Don Juan có thể quên rằng sự luyện tập đó của họ trong quá trình sống không thể nào thực hiện được nếu không nhận thức rõ bản chất điên rồ trong đó. Một người khát khao kiếm tiền để được hạnh phúc liền đổ hết thời gian tinh lực cho việc này. Thế rồi hạnh phúc bị lãng quên; phương tiện đã bị coi là mục đích. Tương tự như vậy, toàn bộ nỗ lực của người chinh phục sẽ bị chệch hướng sang tham vọng của anh ta, mà đó chỉ là một con đường để hướng tới cuộc đời lớn lao hơn. Don Juan buông mình theo số phận, thỏa mãn với kiếp tồn tại mà sự cao quý chỉ có giá trị thông qua phản kháng. Đối với người này đó là nhận thức, và đối với kẻ khác, đó là sự phản kháng; trong cả hai trường hơp sự phi lý đều biến mất. Niềm hy vọng cứ ương ngạnh bám lấy trái tim con người. Sự nhân nhượng của những người trên xuất phát từ nhu cầu được yên ổn, trong thâm tâm, điều đó tương đương với sự ưng thuận hiện sinh. Như vậy là có những thánh thần của ánh sáng và thánh thần của bùn lầy. Điều quan trọng là tìm ra con đường giữa hai thái cực đó để dẫn đến những gương mặt muôn vẻ của con người ta tìm kiếm.
Cho đến nay, chính những đòi hỏi không thực hiện được của phi lý cho chúng ta thấy rõ nhất phi lý là gì. Tương tự, nếu được báo trước, thì ta sẽ nhận thấy rằng sáng tạo hư cấu chứa sự mơ hồ như một số triết lý khác. Do đó tôi chọn làm ví dụ minh họa dưới đây một tác phẩm bao gồm mọi yếu tố biểu thị nhận thức về sự phi lý, có khởi điểm rõ ràng và một môi trưòng sáng suốt. Những kết quả của nó sẽ soi sáng cho chúng ta. Nếu phi lý không được tôn trọng trong tác phẩm đó, chúng ta sẽ biết là do ảo tưởng quỷ quyệt nào chen vào. Như vậy chỉ cần phân tích một ví dụ cụ thể, một chủ đề, và độ trung thành của một nhà sáng tạo thôi là đủ. Đã có những phân tích tưong tự trước đó nhưng dài hơn nhiều.
Sau đây tôi sẽ nghiên cứu một chủ đề yêu thích của Dostoevsky. Tất nhiên tôi hoàn toàn có thể tìm hiểu những tác phẩm khác. Chỉ là trong tác phẩm này, vấn đề được xử lý trực tiếp như các triết lý hiện sinh đã thảo luận bên trên, thể hiện qua sự cao quý và cảm xúc. Trạng thái song song này là đối tượng nghiên cứu của tôi.