To sit alone in the lamplight with a book spread out before you, and hold intimate converse with men of unseen generations - such is a pleasure beyond compare.

Kenko Yoshida

 
 
 
 
 
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Azazel123
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 67
Cập nhật: 2020-11-14 06:29:22 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Thứ Hai: Chiến Trận - Trận Thành Cổ
rong bóng đêm chúng tôi đi ngang qua sân bay Ái Tử. Đường băng rộng mênh mông. Dưới ánh sáng nhờ nhờ của những quả hỏa châu xa xa, cả bọn rất ngạc nhiên thấy hàng hàng lớp lớp những tấm tôn đứng thẳng. Có thể đó là những tấm tôn lót đường băng, dưới tác động của thời tiết nắng nóng nên bị cong vênh lên như vậy. Chân trời thỉnh thoảng lại bừng lên ánh pháo sáng, hoặc những nháng lửa của đạn bom và tiếng ì ầm từ phía Thành cổ vọng lại. Càng gần đến Thành cổ, dấu vết đạn bom càng ác liệt. Nhiều làng mạc bị B52 đánh tan tác, vệt bom lỗ chỗ đầy đồng. Chúng tôi bị B52 rải thảm lần đầu tiên khi tới một làng nhỏ có tên gọi Nhan Biều, là nơi tập kết trước khi vượt sông Thạch Hãn để vào Thành. Chỉ nghe một tiếng rít “Ú...ù” thì hàng loạt tiếng nổ đã vang lên đinh tai nhức óc, cát bụi mù mịt, khói bốc đầy trời, mùi khét lẹt. May thay vệt bom đi cách chúng tôi chừng 300m, nên không gây thiệt hại gì đáng kể. Chưa kịp hoàn hồn sau trận bom rải thảm, chúng tôi đã được lệnh chuẩn bị để vượt sông. Tất cả đồ đạc phải bỏ lại nên ba-lô trở nên lép kẹp. Trong đó chỉ có ít gạo muối, lương khô, 200 viên đạn, 4 quả lựu đạn và túi thuốc men. Mấy hôm nay bầu trời luôn xám xịt, những cơn mưa nặng hạt đổ xuống liên tiếp. Nhìn mặt sông Thạch Hãn mênh mông, nước lũ chảy cuồn cuộn, lòng tôi bỗng dấy lên một nỗi sợ hãi mơ hồ.
Bờ bên Nhan Biều là bờ bồi, bờ phía Thành cổ là bờ lở. Khúc sông này hay bị bắn phá dữ dội, hết pháo bầy lại đến bom tọa độ, tưởng không lúc nào dứt. Lại có khẩu đại liên của địch đặt trên chiếc cầu sắt bị sập cách đó vài trăm mét, thỉnh thoảng bắn chéo sang mỗi khi chúng thấy nghi ngờ. Thường thì bộ đội ta vượt sông bằng cách buộc túm đồ đạc vào túi ni-lông làm phao bơi, gác súng lên trên, rồi cứ bám vào chiếc phao như vậy vượt sang bờ bên kia. Nhiều người đã hy sinh khi bị địch pháo kích bất ngờ, chết vì trúng mảnh, chết vì sức ép, chết vì phao thủng... không biết bao nhiêu mà kể. Sau này chiến sĩ Lê Bá Dương đã có những câu thơ cực kỳ xúc động về cảnh này:
“Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm...”
Dần dần quân ta nhận thấy một quy luật, là cứ tầm 2h sáng thì mọi hoạt động của địch bỗng nhiên ngừng hẳn. Thế là trong khoảng 2-3 h sáng chúng ta đẩy mạnh công tác vận chuyển qua sông, bổ sung quân, tiếp tế lương thực, đạn dược vào Thành và chuyển thương binh ra. Mỗi ngày có chừng một đại đội lính mới và hơn một tấn đạn dược được chuyển vào Thành, chủ yếu là đạn B40-B41. B40-B41 là súng chống tăng, nhưng trong Thành quân ta dùng để bắn cả bộ binh. Với sức nóng 1650°C, bắn chạm nổ trước tuyến xung phong của địch, mỗi quả đạn tạo ra hiệu ứng mìn định hướng rất khủng khiếp, có thể thổi bay cả một tiểu đội ngụy. Những xác chết cháy thành than, cong queo, gần như bị bốc hơi. Chỉ có như vậy mới ngăn chặn được những đợt xung phong vũ bão của lính Dù hoặc Thủy quân lục chiến. Và đó cũng là câu trả lời thích đáng cho loại súng phóng lựu M79 của chúng, tục danh là súng “cạch - oành” hay “cối cá nhân”, loại vũ khí đã gây ra những thương vong khủng khiếp cho bộ binh ta. Tuy nhiên thời gian này, cán cân trận chiến trong Thành đã nghiêng về phía địch. Mưa liên tục, nước sông Thạch Hãn lên to, làm việc tiếp tế hầu như là không thể, hầm hào bị ngập lụt hết. Lại thêm ưu thế hỏa lực của địch quá dữ dội, pháo bầy, pháo biển, B52, bom tọa độ, bom bổ nhào... suốt ngày đánh phá. Thời gian trước đó, địch còn sử dụng loại bom đặc biệt “Daisy cutter” 7 tấn có sức công phá khủng khiếp. Một máy bay vận tải C-130 lặc lè tha quả bom này tới thả xuống, có chiếc dù trắng bung ra hãm quả bom tới độ cao cách mặt đất 30m thì nổ. Cả một góc thành phía đông nam bị san bình địa. Nhiều chiến sĩ ta bị chôn sống dưới hầm hào. Từ đây địch tăng cường lấn dũi vào trung tâm, dùng súng phun lửa bắn vào các chốt của ta. Số phận quân ta ở Thành cổ gần như được báo trước và sự cầm cự cơ hồ chỉ còn được tính từng giờ.
Lại nói về đơn vị chúng tôi. Tầm 10h đêm ngày 13-9-1972 ngớt mưa, có lệnh vượt sông. Đồ đạc và trang bị gọn nhẹ được chúng tôi cho vào tấm tăng che mưa hoặc bao gạo nilông, buộc túm lại thành phao ôm ra bờ nước. Một số cậu không chịu xuống nước, viện cớ không biết bơi. Anh Khả, cán bộ đại đội, người Hà Tây, lồng lộn chửi bới mấy cậu này, quy cho tội hèn nhát đảo ngũ, phản bội Tổ quốc, thậm chí anh rút súng ngắn ra dọa: “Thằng nào không xuống bơi tao bắn vỡ sọ!”. Mấy cậu A trưởng phải can vào, chứng nhận bọn ấy nó không biết bơi thật, anh mới hạ hỏa. Những người này được lệnh lui về hầm Nhan Biều chờ đợi, đến khoảng 2-3 giờ sáng sẽ có thuyền cao-su chở tiếp vào Thành (hóa ra các cậu đó lại gặp may, vì 10h đêm 13-9-1972 là đợt vượt sông cuối cùng, sau đó có lệnh dừng mọi tiếp tế để chuẩn bị rút ra).
Tất cả chúng tôi đều chỉ mặc quần đùi lội xuống dòng nước lạnh buốt, gác súng lên phao và bắt đầu bơi. Dòng sông mênh mông đen ngòm, bầu trời cũng đen ngòm, vô tận. Còn cách bờ khoảng 30m thì bất chợt đất trời rực sáng, hàng chục quả hỏa châu địch bắn lên, soi rõ từng lá cây ngọn cỏ. Rồi một trận mưa đạn chụp xuống đoàn người đang lóp ngóp bơi trên dòng sông. Hàng trăm quả đạn pháo bắn cấp tập, mặt nước sôi lên sùng sục. Lại thêm hàng tràng đại liên và đạn DKZ M40 bắn thẳng từ phía chiếc cầu sắt. Đạn kêu chiu chíu, mảnh pháo bay vù vù. Nước sông lập tức bị nhuộm đỏ bằng máu của hàng chục chiến sĩ bị chết và bị thương. Họ chết vì đạn xuyên, mảnh chém, vì sức ép, bị thủng phao, sặc nước… Ôi những chàng trai trẻ của khu Hai Bà và Hoàn Kiếm Hà Nội, họ chết khi còn quá trẻ, nhiều người chưa một lần biết yêu. Tiếng gọi cuối cùng trên môi là tiếng gọi “Mẹ ơi” trước khi chìm vào bóng đêm vĩnh cửu. Nhưng chẳng người mẹ nào có thể cứu được con mình trong cơn bão lửa trên dòng Thạch Hãn ấy. Có thể qua thần giao cách cảm, họ sẽ khẽ giật mình, có biết đâu trong giờ phút đó, máu của những đứa con của họ đã thắm đỏ một khúc sông rồi...
Hoảng loạn, chúng tôi giãy đạp và sải nước bơi như điên. May quá, ngón chân đã chạm đất, những người sống sót lóp ngóp bò lên bờ, nằm dúi vào mấy gờ đất ven sông. Hàm răng đánh lập cập, lạnh thấu xương, tôi nằm thẳng cẳng nhắm mắt thở, mặc đạn bay pháo nổ. Rồi cơn bão lửa cũng qua đi, chúng tôi được lệnh chạy thật nhanh về phía Thành cổ.
Qua khoảng vài trăm mét thì bóng một ngôi nhà lớn lờ mờ hiện ra. Ai đó nói: “Tòa Tỉnh trưởng đấy”. Hình như đó là tòa nhà 2 tầng, nhưng phía trên đã bị hư hỏng nặng. Tuy nhiên tầng hầm kiên cố và khá rộng thì vẫn còn nguyên vẹn, và được dùng làm Chỉ huy sở của lực lượng bảo vệ Thành. Chúng tôi tản ra ẩn nấp dọc những giao thông hào đào quanh nhà. Một số theo anh Khả vào bên trong xuống tầng hầm nhận lệnh. Bên trái cầu thang là nơi Ban chỉ huy làm việc, mấy cán bộ Tham mưu đang xúm xít quanh tấm bản đồ trên chiếc bàn nhỏ, được rọi bằng đèn măng-sông và đèn pin. Chuông điện thoại đổ liên hồi. Vài chiến sĩ thông tin vô tuyến nói liên tục vào ống Tổ hợp: “Tinh cầu đây, Địa cầu đâu, nghe rõ trả lời” hoặc “Vạn Tường gọi Plây-me, nghe rõ trả lời”…. Bên phải cầu thang là Phẫu quân y dã chiến, nơi thương binh nằm la liệt, nhiều người rên rỉ hoặc thở khò khè. Không khí đặc quánh mùi mồ hôi, mùi máu, cả mùi phân và nước tiểu...
Được lệnh đi tiếp, tôi bám chặt anh Thiệu, người trực tiếp phụ trách Trung đội. Trong bóng đêm, thỉnh thoảng được chiếu sáng bằng ánh hỏa châu, chúng tôi chạy men theo những bờ tường đổ, những đống gạch vụn, hoặc những đoạn hào nông choèn. Một mùi khăn khẳn xộc vào mũi, chỗ nào cũng ngửi thấy mùi này. Về sau tôi mới hiểu đó là mùi xác chết. Xác chết ở khắp nơi, xác ta có, xác địch có. Có xác được vùi sơ sài, nhiều xác nằm phơi mưa phơi nắng, trương phềnh, thối kinh khủng. Có xác chỉ còn trơ xương, có xác đã khô đét. Nhiều xác bị chết đi chết lại nhiều lần, tức là bị bom pháo hết quăng lên lại quật xuống, không toàn vẹn.
Trời đã nhờ nhờ sáng. Thấy cuối đoạn hào nông choèn có một cái hầm, chúng tôi ghé vào hỏi thăm đường. Bốn chiến sĩ trong hầm thuộc Trung đoàn 95, F325. Biết chúng tôi muốn tìm Đoàn “Quang Sơn” (Trung đoàn 48, F320B), họ chỉ cho chúng tôi chạy thêm lên 50m nữa. Tiểu đội tôi và anh Thiệu được chỉ định vào chiếc hầm chữ A gần chân Thành. Nhìn mặt đất lổn nhổn đầy hố bom hố pháo, đầy những mảnh tôn lợp nhà và sắt đá, gỗ vụn, ít ai ngờ rằng dưới đó có những chiếc hầm kiên cố, nơi lính ta trú ngụ. Gọi là hầm chữ A, vì mặt cắt của nó giống như hình chữ A. Trên đỉnh hầm có xà gỗ chạy dài như xương sống, dọc 2 bên có những kèo gỗ cắm chéo xuống như xương sườn. Đất trên nóc hầm dày cả mét, nên có trúng pháo cũng chẳng hề hấn gì, chỉ trừ phi bị bom đánh đáo trúng, thì chịu. Được cái khu vực Thành cổ ít bị B52 “rải thảm”, vì bọn nó sợ đánh cả vào quân mình. Đã có vụ máy bay địch bổ nhào đánh trúng vào đội hình lính Dù đang xung trận, làm chết cả một đại đội Dù ở chân thành.
Trong hầm đã có sẵn 4 chiến sĩ. Hai người quê Thanh Hóa, một anh bị thương nhẹ, quấn băng trắng trên đầu tên là Vĩnh. Còn hai anh lính Hà Nội là Cao Dũng ở phố Lò Đúc và Hưng ở Lê Văn Hưu. Người nào cũng quần đùi áo cộc, mặt mày lem luốc, vì đất nền hầm qua nhiều trận mưa to đã thành bùn nhão nhoét. Hai người đang dùng vỏ thùng đại liên tát nước ở đáy hầm. Thấy lính mới đến, họ hỏi ngay có gì ăn thì cho họ một ít. Cả tuần nay, vì tiếp tế khó khăn, mỗi người mỗi ngày chỉ được một nắm cơm chấm muối. Chúng tôi chia cho mỗi anh một phong lương khô 701, họ bóc ra nhai ngốn ngấu ngon lành. Trời mới hừng sáng mà pháo bầy đã dập đến. Pháo bầy là pháo kích được bắn bằng nhiều chục khẩu pháo cùng một lúc vào một mục tiêu. Nghe những tiếng “Tùng tùng tùng tùng...” tưởng như không bao giờ dứt, mảnh bay vù vù, chém phầm phập vào vách đất. Đơn vị nào đang hành quân mà bị pháo bầy thì coi như đi đứt. Mặt đất chi chít lỗ pháo, đến ngọn cỏ cũng không nguyên vẹn nói chi là người. Nói chung, pháo ở Quảng Trị là hiện tượng độc nhất vô nhị trên thế giới này. Mưa pháo đầy trời, mưa pháo ngập đất, đủ tầm đủ cỡ. Pháo chụp, pháo mảnh, pháo khoan, pháo khói.... không còn biết là pháo ta hay địch nữa. Có những ngày Thành cổ phải chịu hàng chục ngàn trái pháo. Mỗi tiếng nổ như một mũi dùi xuyên vào hệ thần kinh, có thể làm phát điên lên được. Tôi ngồi trong căn hầm chao đảo bần bật, nhìn anh thương binh tên Vĩnh đang bịt tai nhắm mắt, miệng lẩm bẩm gì đó. Chợt anh hét lên: “Đ. mẹ chúng mày bắn gì mà bắn lắm thế. Im ngay, không thì ông cho chúng mày biết tay!”. Mắt anh trợn ngược, mồm sùi bọt mép, chồm lên định lao ra cửa hầm. Chúng tôi kịp tóm anh lại, cho anh uống vài ngụm nước, để anh tĩnh tâm. Khi pháo tạm ngừng, anh Thiệu cử tôi ra hốc chiến đấu ở bên ngoài trinh sát. Đó là cái hố nhỏ vừa hai người ngồi, sâu khoảng một mét, nằm sát chân thành, được ngụy trang bằng những tấm tôn và gạch ngói đổ nát, nhìn từ ngoài vào rất khó phát hiện. Thành cổ Quảng Trị trước kia cao 5m dày 5m, được xây bằng gạch vồ rất chắc chắn, xung quanh có hào nước sâu rộng bao bọc. Nhưng bây giờ đã bị bom đánh tan nát, nhiều chỗ tường thành đổ sụp xuống lòng hào lấp nó thành bằng địa, nên quân địch có thể dễ dàng băng qua hào để đột nhập. Tôi nhìn xuống mép hào nước, thấy hai cái xác địch chắc chết đã lâu, lòi cả xương trắng trong bộ quân phục rằn ri, nằm đè lên 1 miếng giẻ màu vàng bẩn. Sau mới biết đó là lá cờ 3 sọc đỏ nhuốm bùn. Anh Thiệu đã bò ra ngồi cạnh tôi từ lúc nào. Thấy trên vai bộ quân phục rằn ri của xác chết có phù hiệu tròn mầu đỏ, tôi hỏi anh: “Lính gì thế?”. Anh nói: “Lính dù đấy. Bọn này đánh nhau dữ lắm, còn định trèo lên Thành cắm cờ. May mà quân ta phát hiện kịp thời tiêu diệt. Bọn Dù bị thiệt hại nặng, đã phải rút ra ngoài củng cố. Bây giờ đến lượt bọn Thủy quân lục chiến xung trận, cũng dữ dằn không kém. Cậu phải căng mắt ra mà quan sát, lơ mơ là nó xin gáo (đầu) mình ngay”.
Cách chỗ tôi khoảng 10m có một hố chiến đấu của lính bắn tỉa. Anh xạ thủ tên Dần, người Hải Hưng, ngụy trang rất khéo. Trên nóc hố anh phủ một tấm tôn lợp nhà to, che cả nòng súng đang thò ra. Nếu từ phía địch nhìn tới thì không thể nào phát hiện ra được. Tôi bò theo đoạn hào nông choèn sang làm quen với anh. Khẩu súng Đragunôv của anh trông rất lạ, dài ngoẵng, báng rỗng. Băng đạn 10 viên to thô lố, loại đạn súng K44, cho phép bắn trúng mục tiêu ở cự ly 1200m. Đặc biệt ấn tượng là ống ngắm quang học gắn trên súng. Trong đó có đường kẻ ly chữ thập và đồ thị loằng ngoằng. Tôi nhòm qua ống kính sang phía quân địch cách khoảng 400m, thấy vài tên lính đang chạy qua chạy lại giữa các đống đổ nát, thấy cả những cúc áo trên bộ quân phục của họ. Chỉ cần tên lính nào bất cẩn đứng yên một chỗ, anh sẽ nhằm đúng chiếc cúc áo ngực thứ 2 và bóp cò, vậy là hắn chắc chết. Từ sáng đến giờ anh đã thịt được 3 tên, có ngày cao điểm anh thịt được trên 10 tên. Các xạ thủ bắn tỉa đặc biệt “quan tâm” đến những tên lính đeo máy bộ đàm PRC25 với cần ăng-ten ngất ngưởng và những tên quanh đó, vì chúng thường là sĩ quan chỉ huy. Dọc tường thành phía nam này có khoảng 10 tay súng bắn tỉa như vậy, đủ thấy mỗi ngày họ gây ra biết bao thiệt hại cho quân địch.
Trên bầu trời, thỉnh thoảng chiếc L-19 Tâm lý chiến mang loa phóng thanh công suất lớn ra rả kêu gọi chiêu hồi: “Hỡi các cán binh Cộng sản thuộc Trung đoàn 48 đang tử thủ Cổ thành! Chốt là gì? Chốt là Chết! Liệu các bạn có thể đem thịt xương của các bạn ra mà chống chọi với B52 và pháo bầy Hạm đội? Các bạn hãy mau mau tỉnh ngộ, quy hồi về với Chánh nghĩa Quốc gia. Các bạn sẽ được khoan hồng!”. “Khoan hồng cái con c... ông đây. Chúng mày hãy mở mắt to ra mà nhìn những người lính Bắc Việt chiến đấu và chết như thế nào!”. Tiếp theo là hàng tràng AK của lính ta bắn về hướng chiếc L-19.
Trời gần tối chợt thấy mấy chiếc Tank M48 đến gần trận địa. Chúng dừng lại ngoài tầm đạn B40, rồi chĩa pháo bắn phá bờ thành. Chúng tôi rút hết vào hầm tránh pháo. Trời tối đã lâu chúng mới ngừng bắn, anh Thiệu và tôi lại bò ra quan sát. Dưới ánh hỏa châu leo lét, chợt thấy có những bóng đen chuyển động, lúc ẩn lúc hiện. Bọn địch đang men theo những đống đổ nát, các bức tường đổ, hố bom, hố pháo... tiến lại gần chúng tôi. Anh Thiệu lập tức ra lệnh khai hỏa. Tất cả các loại súng của chúng tôi bắn dữ dội về phía địch. Tôi vừa bắn hết một băng AK thì anh Thiệu nói: “Vào mang thùng lựu đạn ra đây!”. Chúng tôi chuyển sang ném lựu đạn, ném vào tất cả các hố bom hố pháo gần trận địa, ném vào bất cứ chỗ nào mà chúng tôi thấy nghi ngờ. Hàng loạt ánh chớp nhằng nhịt và tiếng nổ chát chúa vang lên. Nghe thấy có những tiếng thét đau đớn bên phía địch. Lập tức chúng trả đũa bằng pháo tăng và đạn “cạch - oành”. Sở dĩ gọi M79 là súng “cạch - oành”, vì vừa nghe tiếng đạn ra khỏi nòng “cạch” một cái là nó đã nổ “oành” bên cạnh mình. Đạn của nó bằng quả trứng vịt (cỡ 40mm), chứa nhiều mảnh nhỏ, khi nổ mảnh văng tung tóe, nên tính sát thương rất cao. Ngoài ra nó có thể bắn cầu vồng để tiêu diệt mục tiêu nấp sau tường hoặc dưới chiến hào. Cao Dũng nằm gần đó nhắc tôi: “Cậu đừng bắn cả loạt AK dài quá, bắn điểm xạ 3 viên một thôi. Nếu không lửa đầu nòng dễ bị phát hiện, cạch oành nó sẽ rót đến xin gáo ngay”.
Phải nói Cao Dũng là một cựu binh cực kỳ dày dạn. Nhập ngũ tháng 9-1971, anh đã tham gia chiến đấu ở Quảng Trị từ đầu chiến dịch. Anh bắn giỏi tất cả các loại súng, từ AK, RPD, B40, B41 của ta, đến M16, M60, M79...của địch. Dọc đoạn hào gần hố chiến đấu của mình, anh đặt sẵn nhiều khẩu súng đầy đạn. Khi địch xông lên anh bắn liên tục, khẩu này hết đạn anh lấy khẩu khác, và thay đổi vị trí thường xuyên. Một lính mới như tôi được chiến đấu bên cạnh anh, tự nhiên thấy rất yên tâm.
Đêm đó địch còn tổ chức thêm một đợt tấn công nữa rồi mới chịu ngừng hẳn.
15-9-1972. Trời vừa hửng sáng đã nghe tiếng ò ò của chiếc máy bay trinh sát OV10. Nó quần đảo nghiêng ngó cả tiếng đồng hồ, xoi mói khắp xó xỉnh. Thỉnh thoảng nó rồ lên 1 tiếng rồi chổng mông bắn trái khói vào những chỗ nghi ngờ, chỉ điểm mục tiêu cho pháo và máy bay.
Rồi hai chiếc A37 thình lình bay tới. Chúng lượn một vòng, bất ngờ tăng độ cao rồi bổ nhào về hướng chúng tôi. Bốn quả bom đen trũi lao xuống. Tôi vội hô cho mọi người rút vào hầm. Chiếc hầm rung rinh chao đảo, hơi gió phần phật, khói xám khét lẹt xộc vào. Tai chúng tôi gần như điếc đặc, bụi đất trên trần rơi xuống rào rào. Đoán rằng chúng đã bay xa, tôi lóp ngóp bò ra quan sát trận địa. Cách đó 50m, chiếc hầm của 4 chiến sĩ Trung đoàn 95 trú ẩn, bây giờ chỉ còn là 1 hố bom sâu hoắm. Thịt xương của các anh đã tan vào cát bụi.
Chợt nghe từng tràng đại liên M60 của địch bắn xối xả phía bên phải trận địa. Chỗ đó thuộc khu vực của Đại đội 1, E48, nơi có anh bạn Phạm Hùng Phong nhà ở phố Phan Bội Châu trấn giữ. Tôi ngó sang thấy 4 chiến xa của địch, 2 M48 và 2 M113, đang yểm trợ một đại đội Thủy quân lục chiến xông lên. Các chốt của ta bắt đầu bắn trả, tiếng súng AK và 12ly7 nổ giòn giã xen lẫn tiếng ùng oàng của B40/B41. Mấy quả B40, B41 đều trượt mục tiêu, nên 2 chiếc M113 tiến được đến gần công sự của ta và dùng súng phun lửa bắn dữ dội. Lại thêm pháo 90ly từ 2 xe M48 bắn thẳng vào các điểm chốt, nên sức kháng cự của ta yếu dần. Đại đội tôi dùng 12ly7 bắn chéo cánh sẻ sang hỗ trợ, nhưng cũng bị địch phát hiện ra, quay pháo từ 2 xe M48 bắn áp chế. Một lúc sau trận địa của Đại đội 1 bị địch tràn ngập, chỉ còn thấy những bóng áo rằn ri thấp thoáng. Mãi về sau này có dịp gặp anh Phạm Hùng Phong thì mới được nghe anh kể lại những gì đã xảy ra bên đó...
Phía phải chúng tôi vừa tạm yên tiếng súng thì phía trái súng lại nổ dữ dội. Hàng tràng liên thanh không dứt, chêm vào tiếng ùng oàng của B40, B41 và những tiếng “cạch -oành” chát chúa. Khu vực đó là phạm vi trách nhiệm của các chiến sĩ bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị. Trong Thành cổ, ngoài các đơn vị chủ lực, còn có 2 Tiểu đoàn bộ đội địa phương là K3 và K8 cùng tham gia phòng thủ. Những người con của quê hương Vĩnh Linh-Quảng Trị chiến đấu cực kỳ dũng cảm. Không phải ngẫu nhiên mà bên địch loan truyền câu chuyện về xác các Việt cộng mặc quần áo đen, chân bị xiềng vào những khẩu súng máy. Đúng là họ thường chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, địch phải bước qua xác họ mới chiếm được chốt, nhưng chuyện bị xiềng vào súng thì không có. Vả lại ở đây tôi thấy họ được trang bị và ăn mặc y hệt chúng tôi. Ví dụ K3 “Tam Đảo” thực chất là một Tiểu đoàn của Sư 312 được chuyển về cho Tỉnh đội Quảng Trị. Tuy nhiên không phải ở đâu cũng vậy. Sau này tôi có dịp tiếp xúc với các đơn vị bộ đội địa phương khác, thì thấy nhiều người đội mũ tai bèo, mặc quần áo bà ba đen thật. Bộ bà ba của họ thường được may bằng vải ni-lông tét-rông mỏng, nhẹ nhưng rất bền và giặt mau khô. Đặc biệt họ trang bị hầu như toàn bằng vũ khí của Mỹ. Tôi có hỏi tại sao, thì họ trả lời là bộ đội địa phương một thời gian dài phải tự cấp tự túc. Họ ít nhận được sự trợ giúp của hệ thống hậu cần và đường dây 559 như các đơn vị chủ lực, nên phải lấy súng đạn địch đánh địch là chính. Nhưng điều đó không hề ảnh hưởng đến lòng dũng cảm hầu như huyền thoại của họ. Cả đại đội Thủy quân lục chiến sau vài đợt xung phong đã phải bỏ lại nhiều xác chết trước phòng tuyến, ôm đầu máu tháo chạy. Chúng điên cuồng gọi Không quân và Pháo binh bắn phá dữ dội vào trận địa của ta.
Hàng chục ngàn quả pháo cùng nhiều chiếc máy bay dội bom liên tục xuống đầu chúng tôi. Đất trời điên đảo, tưởng như ngày tận thế đã đến. Các quả bom được thả theo hướng từ phía trong chéo ra phía ngoài tường thành. Như vậy khi tường thành sụp đổ sẽ bị hất ra lấp những hào nước ở chân Thành, tạo điều kiện cho lính địch thâm nhập vào dễ dàng. Nằm trong hố chiến đấu, chúng tôi cũng bị phủ một lớp tro bụi dày hàng xăng-ti-mét.
Vừa mở mắt ra sau đợt pháo, tôi chợt thấy một toán lính Thủy quân lục chiến ngay trước mặt. Khoảng 5-6 tên ngoi lên từ sau đống gạch, trên người mặc áo giáp xanh rêu, đầu đội mũ sắt bọc vải rằn ri, tay nắm chặt những quả lựu đạn mỏ vịt. Lợi dụng lúc pháo kích, bọn nó đã tiến lên, trong khi chúng tôi còn chúi đầu tránh đạn dưới các hố. Chúng chưa nhìn thấy tôi, vì không thể ngờ rằng trong đống đổ nát phủ đầy bụi đất cách đó vài mét lại có một họng súng và một đôi mắt đang nhìn chúng. Đến khi một tên nhận ra thì đã muộn. Lập tức theo bản năng tự vệ, tôi xả một tràng AK vào đám mũ sắt. Những tiếng rú rùng rợn vang lên, những tấm thân đổ phịch ra sau đống gạch. Không biết mấy người chết, mấy người bị thương, chỉ nghe bên đối phương những tiếng la hoảng: “Đ. má, Việt cộng… Lùi lại tụi bay…Việt cộng…”.
Thế rồi lại pháo, lại bom, tưởng như bất tận. Giữa ban ngày mà địch tổ chức tấn công liên tiếp. Cứ mỗi lần bị đánh bật ra, thì chúng lại gọi phi pháo bắn phá. Các ổ hỏa lực của ta dần dần bị lộ, địch dùng pháo tăng bắn thẳng vào những vị trí này.
Anh Dần bắn tỉa đã chết tự lúc nào. Một quả pháo nổ ngay cạnh hố chiến đấu của anh, thổi tung tất cả những tấm tôn ngụy trang. Không hiểu anh hy sinh vì mảnh pháo hay sức ép, máu từ mũi và mồm cũng dính bụi nhoe nhoét, mắt anh vẫn mở trừng trừng.
Sau mỗi lần đánh lui quân địch, Cao Dũng lại nhắc tôi nhồi thêm đạn vào các băng đạn và chuẩn bị một lô lựu đạn để trước mặt. Học tập anh, tôi cũng dùng lựu đạn là chính. Bên địch cũng vậy. Chúng thường lợi dụng lúc bom pháo đang bắn phá các chốt để bò lên tiếp cận, rồi ném lựu đạn vào hầm hào của chúng tôi.
Trời đã ngả chiều. Thêm cậu Hưng “Lê Văn Hưu” bị mảnh pháo chém xả vào bả vai. Vết thương rất khó băng bó, tôi lúng túng quấn bao nhiêu băng mà vẫn bị tuột. Chúng tôi đưa cậu ấy vào hầm nằm cùng các thương binh khác. Lực lượng của đại đội tôi đã bị tổn thất quá nửa. Cao Dũng đưa cho tôi bao cơm sấy chiến lợi phẩm, rồi hai đứa cùng nhai trệu trạo. Cả ngày nay chưa được hột cơm nào vào bụng.
Đêm đến. Pháo sáng địch bắn đầy trời. Lại một đợt tấn công mới của tụi Thủy quân lục chiến. Những dây đạn sáng lòe đủ mầu bay ngang dọc trong đêm, cộng thêm từng đợt vòi rồng lửa phun ra từ mấy xe M113 của địch. Chúng tôi bắn đến đỏ cả nòng súng, đạn dược vơi dần. Không hiểu bọn nó mà tấn công một đợt nữa thì lấy gì để chống trả đây? Chả lẽ dùng răng mà cắn vào cổ họng chúng như Anh hùng Lâm Úy à? Chợt nghe một quả “cạch - oành” nổ ngay trên hố chiến đấu của Cao Dũng. Cảm thấy có chuyện chẳng lành, tôi vội bò sang chỗ anh. Một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra trước mặt. Nửa đầu bên phải của Cao Dũng đã bay mất, máu và óc lầy nhầy tung tóe trên miệng hố. Tay và chân vẫn còn giật giật trong cơn giãy chết. Tôi ôm chầm lấy anh, miệng la lên thảng thốt: “Cao Dũng ơi!”, nhưng anh đã ra người thiên cổ mất rồi. Vĩnh và tôi lấy tấm võng phủ lên xác anh, rồi vội vàng bò về hố chiến đấu của mình.
Ngồi trong hố mà nước mắt tôi chảy dàn giụa. Cao Dũng vẫn thường nói với tôi: “Nếu trận đầu cậu không chết, thì sẽ không bao giờ chết…”. Anh đã trải qua hàng chục trận, trên người không hề có một vết xước. Vậy mà bây giờ một thằng lính mới khù khờ như thì tôi vẫn ngồi đây, còn anh lại chết rồi. Đúng là trời thương kẻ ngù ngờ, thông minh không khỏi số giời…. Thương thay cho một người con anh dũng của phố Lò Đúc, một Héc-to của Thành cổ…. Anh đâu còn biết, giờ này chỉ có một người duy nhất, một cậu lính trẻ 18 tuổi, mặt mũi lấm lem quần áo bê bết, đang gục đầu bên khẩu súng khóc thương cho anh…
Đêm đã khuy lắm rồi. Tôi vẫn ngồi miên man chìm đắm trong những suy nghĩ về cái chết của Cao Dũng, không để ý đến sự im ắng đáng ngờ trên trận địa. Đại bác vẫn nổ cầm canh, pháo sáng vẫn hết quả này đến quả khác, nhưng tiếng súng bộ binh thì không. Chợt thấy anh Thiệu lom khom chạy tới. Nhìn thấy tôi anh nói: “Vinh, sao các cậu còn chưa rút đi? Các đơn vị khác người ta rút hết rồi…”. Tôi đáp: “Có ai nói gì với chúng em đâu…”. Chúng tôi vội thông báo cho mọi người trong hầm. Những thương binh nào còn vận động được thì tự nhằm hướng Dinh Tỉnh trưởng mà đi, còn những người yếu thì chúng tôi phải dìu. Tất cả tử sỹ đều bỏ lại. Trong bóng đêm chập chờn ánh hỏa châu, chúng tôi vội vã rút ra phía bờ sông.(1)
------------
(1) 81 ngày đêm Quảng Trị hay là Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ được tính từ ngày 28-6 đến ngày 16-9 năm 1972 (BT).
Ở bến vượt cảnh tượng khá nhốn nháo. Có lệnh vứt bỏ xuống sông tất cả vũ khí nặng mà không thể mang được. Các thương binh được ưu tiên chở bằng xuồng cao-su, những người bơi yếu thì bám xung quanh xuồng.
Có một sợi dây cáp được chăng ngang sông, các xuồng bám vào đấy mà vượt sang bờ Bắc. Còn tất cả mọi người khác lại phải làm phao bơi bằng tăng (hoặc bao gạo) ni-lông, để súng lên trên và bơi cật lực. Nước sông vẫn chảy cuồn cuộn, lạnh buốt, đen ngòm. Ba đợt vượt sông an toàn, đến đợt thứ tư thì bỗng nhiên pháo bầy dập đến. Một cảnh tượng hãi hùng phơi ra dưới ánh pháo sáng: Xuồng chìm, phao thủng, tiếng la thét của thương binh và những người bị trúng mảnh… Mặt sông Thạch Hãn lại đỏ ngầu máu tươi…
Bờ Bắc là bờ bồi nên cách khoảng 50m chân tôi đã chạm đất. Tôi lội bì bõm như người mộng du, hầu như không nhận biết được gì nữa. Lên bờ, chúng tôi chạy thục mạng về hướng Bắc. Cho tới khi thấy bóng đen mờ mờ của cây cối làng mạc chúng tôi mới dừng lại. Có tiếng người nói lao xao, các đơn vị gọi nhau tập trung lại đội hình. Tiểu đoàn 3 của tôi quân số còn lại chưa đầy một đại đội. Nhưng có những đơn vị còn thảm thương hơn nhiều. Trung đoàn 27 (Đoàn Triệu Hải) phối thuộc cho Sư đoàn tôi, khi rút ra khỏi Thành chỉ còn 10 chiến sĩ. Tất cả các đơn vị tham chiến ở Quảng Trị đều thiệt hại rất nặng nề. Chúng ta mất hàng trăm súng lớn đủ loại, hàng chục xe tăng, và trên hết, hàng chục nghìn người con ưu tú của đất nước. Chẳng hạn Sư đoàn 325, chiến sĩ phần lớn là những sinh viên các Trường ĐH Miền Bắc, thành phần tinh hoa của dân tộc, thế mà thương vong gần hết. “Ôi những người con trai khỏe đẹp/ Có thể biến thiên nhiên thành điện thép/ Cho con người hạnh phúc hôm nay…”(Tố Hữu, Ê-mily, con). Nhiều lúc tôi đắng cay thầm nghĩ, một mảnh đất chó ăn đá gà ăn sỏi có đáng để chúng ta phải trả giá quá đắt như vậy không? Mỗi ngày đưa vào Thành một đại đội đủ (140 người) mà khi ra chả còn bao nhiêu. Tuy nhiên, mỗi người, dù là người trực tiếp tham gia, cũng không thể hiểu hết cục diện chiến tranh và không thể đo đếm giá của chiến tranh bằng cái giá thông thường.Thấy nói hồi đó ta đang đàm phán trên bàn Hội nghị Paris, việc giữ vững Thành cổ và tiếng súng ở chiến trường có một tiếng nói rất quan trọng.
Sau khi củng cố lại đội hình, chúng tôi được lệnh hành quân về hướng tây bắc. Lại qua những địa danh quen thuộc: Ái Tử, Đông Hà, Cam Lộ…. Những lúc nghỉ giải lao, đoàn quân xôn xao bàn luận: “Đơn vị bị thiệt hại nặng như vầy, chắc đợt này sẽ được rút ra Bắc nghỉ ngơi, bổ sung quân số…”. Nếu được thế thì mừng quá. Mấy đứa Hà Nội chúng tôi đã mơ có thể được về phép vài ngày, vì Hậu cứ của Trung đoàn là ở vùng Nông Cống/ Thọ Xuân, Thanh Hóa. Từ đó về Hà Nội chả mấy ngày đường. Lê được tấm thân tàn này về gõ cửa nhà, chắc bà và mẹ ngạc nhiên lắm…
Nhưng chúng tôi đã nhầm. Đơn vị chỉ rút ra vùng chân điểm cao 241 thì dừng lại. Vẫn mưa rả rích suốt ngày. Cả buổi chúng tôi lội dọc một con suối nhỏ, nước đục ngầu, ngập ngang bụng. Hai bên bờ mọc đầy những cây mâm xôi và sâm đất. Lá những loại cây này đem nấu trà uống rất thơm và bổ. Cả lũ đã mệt phờ, ướt như chuột lột, thì được lệnh tản ra tìm chỗ nghỉ. Chúng tôi mắc võng trong một cánh rừng thưa, xung quanh là những đồi cỏ tranh bao bọc. Anh Thiệu đi ngoại giao ở đâu về được một gói ruốc thịt, chia cho mỗi đứa một ít. Anh kể gần đó có một đoàn tân binh đóng, anh đến làm quen, và gặp bất cứ ai cũng nhận đồng hương. Lúc thì anh quê ở Hải Hưng, lúc thì Thái Bình, lúc lại Thanh Hóa… Kết quả là anh kiếm được cũng kha khá. Tân binh mới vào còn “giàu có” lắm. Họ sẵn lòng chia sẻ với người cựu binh đồng hương vài thìa mì chính, ít ruốc bông, phong lương khô hoặc gói thuốc lào….
Đơn vị nhận tân binh bổ sung ngay tại đây. Chủ yếu là lính Hà Nội, Thái Bình và Hải Phòng. Tiểu đội tôi có 4 người. Tôi làm Tiểu đội trưởng. Quang “Bạch mai” (Quang “xỉu”) Tiểu đội phó. Hai chiến sĩ là Chính con “Hoàng Hoa Thám” và Bích (Quỳnh phụ, Thái Bình). Bích giữ khẩu B40 hỏa lực của tiểu đội, còn lại 3 người 3 khẩu AK. Cán bộ Trung đội có anh Thanh (Hà Tĩnh) mới bổ sung về làm quyền Trung đội trưởng. Cán bộ Đại đội thì anh Thiệu được cử đi học Quân chính, về thay là anh Hưởng (quê Gia Lâm) làm Chính trị viên phó, tạm thời là người chỉ huy cao nhất và duy nhất của Đại đội.
Trong tiểu đội tôi, người nhiều tuổi nhất là Bích, 19 tuổi, và đã có vợ. Hình như thanh niên nông thôn miền Bắc hồi ấy có lệ là sau khi huấn luyện tân binh 3 tháng, được nghỉ phép 7 ngày trước khi đi B, hầu hết họ về quê lấy vợ. Trong 7 ngày ấy họ đã kịp làm đám cưới, hưởng tuần trăng mật, và nhiều người còn kịp để lại một giọt máu trong lòng người vợ trẻ. Nhiều phụ nữ trẻ chỉ được hưởng hạnh phúc làm vợ có 7 ngày, rồi sau đó là cả cuộc đời dài chờ đợi. Nhiều đứa trẻ suốt đời không biết mặt bố, không được gọi một tiếng “Bố ơi”!
Vì đã có vợ, nên đối với chúng tôi Bích là cáo cụ trong chuyện đàn bà. Mỗi lúc nhớ nhung cậu ta lại kể chuyện làm tình với vợ. Vợ nằm ngửa ra sao, dạng chân thế nào, cái mu khum lên, cái lưng cong ưỡn. Rồi hơi thở gấp gáp, cậu ta dập dồn dập…. Rồi tất cả nổ tung…. Lũ trai tơ chúng tôi cứ há hốc mồm nghe, mắt sáng lên háo hức.
Anh Thanh 24 tuổi, Thượng sĩ Trung đội phó, nhưng vì chưa có Trung đội trưởng nên anh tạm thời chỉ huy. Anh người gầy, dong dỏng cao, da tai tái, hai mắt như hai hột nhãn, hàm răng hơi sún và xỉn màu vì hút thuốc lào. Trước đó anh có vài năm công tác ở Tỉnh đội Hà Tĩnh, và có người yêu tên là Định. Thỉnh thoảng anh khoe với tôi chiếc khăn tay do người yêu tặng, có thêu hai chữ ĐT ở góc. Hiểu là “Đượm tình” hay “Định - Thanh” đều được cả. Anh là người dạy tôi hát Ví giặm, ngâm thơ và kể vè Nghệ Tĩnh. Cho đến nay thỉnh thoảng ngồi một mình tôi vẫn hát những bài này. Tôi rất thích bài Ví giặm:
“À…ơi… Sông Lam Giang nước càng ngày càng rộng
Núi Hồng lĩnh mỗi bậc mỗi cao
Bấy lâu nay Mận nỏ thấy Đào
Hỏi thăm con chim Hồng nhạn
Anh Bộ đội ở phương nào lại đây?...”
Vì quý chúng tôi nên anh hầu như là tay súng thứ 5 của Tiểu đội 4. Dần dần anh được toàn Trung đội quý mến, thực sự là thủ lĩnh và chỗ dựa tinh thần cho toàn thể chúng tôi.
Anh Hưởng cán bộ Đại đội cũng rất quý tôi. Trước đây anh thuộc Sư 324, chiến đấu ở miền Tây Thừa Thiên, vùng A Sầu, A Lưới. Sau khi đi học Quân chính, anh được phân công về đơn vị này. Anh cũng cao dong dỏng, da ngăm đen, thích kể chuyện và ăn nói nhẹ nhàng. Anh biết tôi có khả năng đặc biệt, đó là rất nhớ đường. Đường dù quanh co đến đâu, tôi chỉ đi một lần là nhớ. Ở vùng rừng núi này, những trảng cỏ tranh bạt ngàn, lính ta dẫm cỏ mà đi tạo thành đường. Nhưng nhiều chỗ đường cắt ngang cắt dọc, không tinh ý rất dễ lạc. Lớ xớ là đạp phải bom bướm hoặc đụng Thám báo ngay. Anh cực kỳ tin tưởng tôi, vì vậy đi đâu anh cũng kéo theo tôi đi đầu. Mà anh thì đi rất nhiều. Nào họp hành, nào chỉ đạo lấy gạo, thực phẩm, súng đạn bổ sung…. Chính vì đi nhiều nên tôi có dịp gặp lại nhiều bạn bè cùng huấn luyện ở C49 D58. Duy Minh bây giờ là A phó ở Trung đội 1. Chí Thành và Bình “cống” đeo máy Thông tin vô tuyến 2W có cần ăng-ten vắt vẻo. Long “cồ” làm lính Trinh sát. Hoàng Hữu Hạnh ôm khẩu cối 60 ở A10. Lâm “Chợ Giời” và Bùi Ngọc Toàn về Đại đội 10…
Một buổi đi lấy gạo, chúng tôi nhằm hướng Cồn Tiên bươn tới. Căn cứ này nằm trên một ngọn đồi cao, lại có một tháp canh cũng cao ngất ngưởng, nên đứng chỗ nào ở Bắc Quảng Trị cũng đều nhìn thấy nó. Đi loanh quay mấy tiếng đồng hồ, đói mềm người, mới biết kho gạo nằm ở chân Dốc Miếu gần đó. Căn cứ này cũng rất lớn, bây giờ trông cả vùng đồi lở loét vì đạn pháo và xe ủi húc nham nhở. Mỗi đứa lấy một ba-lô gạo xong, đói quá, bèn bàn nhau nấu cơm ăn tại chỗ. Vấn đề là không có nồi, đành phải lấy vỏ thùng lương khô để nấu. Nhưng vỏ thùng bằng sắt tây mỏng dính, lại đổ đầy gạo nước, nên không thể chín được, mặc dù đã đun lửa to hết cỡ. Kết quả là phía dưới thì khê đen mà phía trên thì còn sống. Đúng là một nồi cơm “trên sống dưới khê tứ bề nhão nhoét”, khét lẹt, nhưng chúng tôi vẫn cố nhai để lấy sức.
Trên đường về, trời đã ngả chiều, trần mây thấp nên càng nhanh tối. Cả lũ đang đi, chợt nghe tiếng “Ú…ù” rợn người, rồi một dây tiếng nổ xô ngã tất cả. “B52…”. Chỉ nghe hơi gió phần phật, vì tai đã điếc đặc. Một loạt, hai loạt, ba loạt! Thoát rồi, mình không bị dính rồi…. Cả lũ lại đứng lên, rũ bụi đất, hối hả bước tiếp…. B52 thường bay 3 chiếc như hình mũi tên, những ngày đẹp trời có thể thấy ba dải khói trắng trườn trên mây biếc. Những lúc chúng bay thấp, trông như ba chiếc phản bằng bạc. Thường đến mục tiêu là chúng cắt bom rồi quay ngoắt về ngay. Thế nên thấy ba dải khói trắng quành lại là bom đã rơi rồi đấy. Không gì có thể tồn tại trong ba thảm bom ấy. Biết bao kho tàng, xăng dầu, bến bãi, xe cộ, pháo binh, thiết giáp…của ta đã tan thành tro bụi. Nhiều đơn vị không còn một mẩu xương.
Sau vài tuần nghỉ ngơi củng cố dưới chân điểm cao 241, đơn vị tôi được lệnh về đóng chốt ở vùng Quán Ngang. Cả đại đội hành quân giữa ban ngày, đi ngoài trảng cỏ tranh, anh nào cũng che cành ngụy trang trên đầu. Chập tối thì chúng tôi tới một xóm nhỏ ven đường tàu, rồi chia nhau vào các nhà dân nghỉ. Căn nhà lợp tôn nơi Tiểu đội tôi đóng chỉ có hai ông bà già, bọn tôi gọi là Bọ, Mạ. Người Quảng Trị nói tiếng trọ trẹ rất khó nghe, nhưng theo tôi hiểu thì gia đình này cũng chia làm hai phe. Anh con cả là Biệt động quân, đã chạy vào Huế, trong khi hai người em là Bộ đội địa phương và Du kích. Chúng tôi đưa gạo, đồ hộp cùng mắm ruốc khô nhờ Bọ Mạ nấu cơm hộ. Trong góc nhà chất nhiều thùng đạn đại liên M60, xếp chồng lên nhau từ sàn tới nóc. Tôi tò mò bật mở một thùng ra, thì thấy toàn là ớt bột, hơi bốc lên sặc sụa. Buổi tối, trong ánh đèn dầu leo lắt, bữa cơm được dọn ra. Thấy bát canh khoai sọ đỏ lòm, tưởng bột cà chua, hấp dẫn quá, chúng tôi đứa nào cũng húp 1 thìa to. Ối cha mẹ ơi, tôi vội phun ngay ra. Cay kinh khủng, môi bỏng, mồm bỏng, cổ họng bỏng. Thì ra là toàn ớt bột. Suốt buổi hầu như tôi chỉ ngồi há mồm chảy nước mắt, nhìn Bọ Mạ ăn bát canh ngon lành. Người Quảng Trị ăn cay khiếp thật.
Hôm sau chúng tôi được lệnh vào đóng ở trong căn cứ Quán Ngang, một trại lính cũ của địch.
Đó là một cứ điểm lớn ngự tọa trên một quả đồi thấp, cách đường tàu cũ khoảng 400-500m. Đây nguyên là bản doanh của Trung đoàn 57, Sư đoàn 3 Bộ binh Việt Nam Cộng hòa. Bên cổng doanh trại còn dấu vết phù hiệu của Sư đoàn này: 3 ngôi sao trắng trên nền xanh dương, cùng dòng chữ “Bến Hải” bên dưới. Phù hiệu của Trung đoàn 57 thì có con đại bàng đang sà xuống.
Tôi thật sự choáng vì quy mô của doanh trại này. Nó rộng mênh mông, có nhiều lô cốt kiên cố trấn giữ các hướng. Xung quanh căn cứ là bãi rào thép gai trải dài đến tận chân trời. Đủ loại hàng rào: mái nhà, cũi lợn, căng ngang ống chân, bùng nhùng…. Những cuộn dây thép gai được trải ra loằng ngoằng vô tận. Đặc biệt chúng không có gai, mà lại được gắn những miếng thép mỏng nhỏ, sắc như dao cạo. Xen giữa các hàng rào thép gai là bãi mìn đủ loại: mìn chống bộ binh, mìn nhảy, mìn chống tăng, mìn định hướng… Tôi không hình dung nổi, làm sao mà có thể tấn công chiếm được cứ điểm này. Nếu có chiếm được thì phải sử dụng lực lượng hàng sư đoàn và chắc phải trả bằng một giá hy sinh rất đắt. Nhưng không, chúng ta đã chiếm được nó quá dễ dàng. Đơn giản là sau vài đợt bị ta pháo kích, địch nghe tiếng xe tăng của ta từ xa đã hoảng loạn, rùng rùng kéo nhau tháo chạy, bỏ lại căn cứ hầu như còn nguyên vẹn.
Trên đường vào căn cứ, thấy hai bên hàng rào có rất nhiều tiền Miền Bắc do địch rải xuống. Đây là tiền giả, chúng thả từ máy bay như thả truyền đơn vậy. Chủ yếu là tờ tiền 5 đồng mầu xanh nước biển có in hình Cụ Hồ, bên mép là tờ truyền đơn nhỏ. Thấy tiền, mấy đứa chúng tôi vui mừng hớn hở, tung tăng lượm nhặt như những đứa trẻ. Chính con và Quang thích thú lèn chặt hai ba-lô tiền, phấn khởi bàn nhau phen này mà được về phép thì tha hồ uống bia Thủy Tạ, ăn kem Bờ Hồ. Tôi không muốn làm vẩn đục những phút giây vui sướng hiếm hoi của họ, mặc dù nhìn một cái biết ngay là tiền giả. Chỉ nhắc họ cẩn thận để không dẫm phải mìn.
Quảng Trị 1972 Quảng Trị 1972 - Nguyễn Quang Vinh Quảng Trị 1972