Khi phải chống chọi với những thử thách của cuộc sống, bạn đừng vội nản lòng. Bởi đó là cơ hội tốt để những khả năng tiềm ẩn trong bạn có dịp được phát huy.

S. Young

 
 
 
 
 
Tác giả: Alain Wasmes
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: La Peau Du Pachyderme
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Thanh Binh
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1895 / 36
Cập nhật: 2016-07-06 02:05:58 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5: Từ Chiến Đấu Ở Bưng Biền Sang Quản Lý Xã Hội
gày 4 tháng Mười, ban quân quản thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra công khai lời tự phê bình về những sai lầm mà ban đã phạm phải trong áp dụng chính sách giá cả:
“Trong thành phố, việc quy định những giá chuẩn để hướng dẫn việc buôn bán đã không chính xác và chưa căn cứ vào thực tế cụ thể, cho nên nó đã gây ra một số khó khăn và thiệt hại cho nhân dân. Uỷ ban quân quản thành phố xin nhận trách nhiệm trước chính phủ và nhân dân về những khuyết điểm của việc làm này”.
Và ban đã quyết định đưa giá cả một số mặt hàng, như gạo, xăng, phân bón, bột ngọt, nước mắm... trở về với giá vẫn lưu hành trước thời gian phong tỏa giá. Quyết định này là khởi điểm cho một chiến dịch mạnh mẽ chống lại những bất cập của một số cán bộ, và thậm chí như một trí thức tiến bộ đã gọi, là chống lại một thứ “mặc cảm chiến thắng” nào đấy.
“Chúng ta làm việc cho ai và chịu trách nhiệm với ai?”, báo Đảng của thành phố, tờ Sài Gòn giải phóng số ra ngày 10 tháng Mười nêu lên câu hỏi và báo Đảng đã phê phán những cán bộ, số người đã tách “Đảng và nhà nước một bên, nhân dân một bên” và họ đã có thái độ độc đoán trong thi hành chính sách của nhà nước: “Ngay cả bánh ngon, những nếu ta cứ nhét vào miệng người ta bắt phải ăn thì người ta cũng chẳng thấy ngon”, tờ báo đó viết và nhấn mạnh rằng điều chủ yếu là phải biết giải thích và tạo được niềm tin trong quần chúng...
Trong bài xã luận số báo cùng ngày, dưới tiêu đề “Đầy tớ của dân chứ không phải kẻ áp bức dân”, tờ báo cực lực tố cáo “một số ít cán bộ” tuy hàng ngày tiếp xúc với dân, nhưng họ lại “tự tách mình khỏi dân, đứng ở trên dân, coi thường và không biết đến lợi ích của dân”. Tờ báo tiếp tục phê phán những hiện tượng “quan liêu giấy tờ, những sự chậm trễ, thái độ cửa quyền, thói vô trách nhiệm và bất chấp luật lệ” đang hoành hành ở một số nơi, trong đó có cả một số trường hợp “tham nhũng, mưu lợi cá nhân”, “lợi dụng chức quyền” của một số cán bộ. Trong trường hợp ấy “nếu cần thiết thì phải kiên quyết loại bỏ” những phần tử xấu. “Tất cả mọi ý muốn và thái độ ép buộc, cưỡng bức dân đều cần phải được phán xử một cách nghiêm khắc và loại trừ khỏi bộ máy chính quyền”, tờ báo kết luận và đề nghị, khuyến khích nhân dân “hãy phê bình và giáo dục cán bộ của chúng ta”.
Ngày 11, báo Đảng lại trở về vấn đề trên. Báo hoan nghênh nỗ lực của chung các cán bộ từ trước đến giờ mà trong đó “đại đa số là tốt”, nhưng báo tiếp tục phê phán “một số ít” cán bộ, khi “nắm chính quyền trong tay, họ đã xa rời quần chúng. Khi cuộc sống bưng biền kết thúc, họ đã mất dần đi sự thông cảm với những khó khăn của nhân dân vẫn đang hàng ngày vật lộn với cuộc sống để có miếng cơm manh áo. Họ dùng những bức tường của bàn giấy để tự mình ngăn cách với nhân dân và từ đó thói vô trách nhiệm và tệ quan liêu độc đoán dần dần sinh sôi, nảy nở”. “Đảng dạy họ phải phục vụ nhân dân, nhưng họ lại muốn nhân dân phải phục vụ họ, chờ đợi họ và nịnh nọt mỗi khi dân có việc gì phải tiếp xúc với cơ quan nhà nước. Để có được một giấy thông hành, người dân đã phải chạy đi chạy lại suốt cả một tuần; để lĩnh được một món tiền, người dân đã phải chờ đợi cả ngày cả buổi gõ hết cửa này đến cửa khác, bị đe dọa bởi đủ thứ nguyên tắc, trói buộc bởi đủ thứ giấy tờ (…). Để được gặp một vị chủ tịch hoặc một ông trưởng phòng nào đó người dân đã phải chầu chực hàng giờ thậm chí hàng buổi. Cho phép một người bệnh vào nằm bệnh viện, “ông quan” trực phòng ngoài gây cho anh không ít khó khăn và đến khi anh được vào khám thì “quan” bác sỹ lại chỉ khám cho anh một cách qua loa đại khái. Để mua vài lít xăng, vài mét vải ư? Thì anh cứ việc chạy đủ hàng chục các thứ phòng ban, một ngày, vài ngày, và đôi khi chẳng được kết quả gì hết.” Trước tình hình đó, nếu nhân dân có sự bất bình, thì đó là một “sự bất bình chính đáng”, bài báo nhận xét.
Và bài xã luận viết tiếp: “Đạo đức cách mạng không chỉ đòi hỏi cán bộ không được quan liêu, độc đoán đối với nhân dân, mà còn đòi hỏi họ phải thấu hiểu hơn nữa những vui, buồn của dân, quan tâm hơn nữa đến hạnh phúc và những nỗi khổ của dân để từ đó tìm ra biện pháp giải quyết. Nếu trông thấy có những đồng bào của mình còn phải ngủ ở vỉa hè, những trẻ em phải bới rác, mà người cán bộ nào không thấy đau đớn suy nghĩ, nếu được chứng kiến những dòng người phải xếp hàng dài trước những cửa hàng mua bán, hay những đám người phải chầu chực trước các công sở để xin một tờ giấy mà người cán bộ nào không thấy băn khoăn phiền muộn, thì điều đó có nghĩa là ở người cán bộ đó, mọi tình cảm cách mạng đã bị tê liệt, và anh ta bắt đầu suy thoái về tư cách cách mạng”.
Rõ ràng sự thẳng thắn và những lời phê bình ấy đã không hợp với “khẩu vị” của một số cán bộ. Một số người đã trách là bài báo nói “quá nặng lời” và “làm mất mặt” cán bộ. “Chúng tôi chia sẻ sự lo lắng ấy, báo Sài Gòn giải phóng ra ngày 12 tháng Mười liền đáp, nhưng có cần phải xem báo đâu thì nhân dân mới biết cán bộ có khuyết điểm (...) Cán bộ và đảng viên đều là những con người, với những ưu điểm và khuyết điểm của nó”. Song khác với những người bình thường khác, họ là những con người “thừa nhận và sửa chữa sai lầm.” “Đặc biệt lúc này, khi Đảng ta cầm quyền, thì chúng ta càng cần phải ý thức rõ về những nguy hiểm có thể đe dọa Đảng ta; nguy hiểm ở đây không phải là hàng triệu quân thù, cũng không phải là bom nguyên tử, mà nó là cái còn nghìn lần nguy hiểm hơn: đó là tệ quan liêu”.
Không nên ngại quần chúng phê bình. Những phê bình ấy là bổ ích, bài báo khẳng định và cho rằng nhiệm vụ của báo là phải “công khai phê bình những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên một cách mạnh mẽ hơn nữa” để làm cho “Đảng, chính quyền thành phố và cán bộ chúng ta luôn luôn trung thực và phát triển vững mạnh”. Bởi “điều duy nhất mà nhân dân chờ đợi, đó là trông thấy sự khác biệt giữa thái độ của cán bộ cách mạng với thái độ của các “ông quan trong bộ máy thống trị cũ”.
Để làm chỗ dựa cho lập luận của mình, bài báo nhắc lại một bài viết từ 1947 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phê bình, đó là một liều thuốc”.
“Có người nói: nếu chúng ta tự phê bình những khuyết điểm của chúng ta, những khuyết điểm của Đảng Cộng sản, của Đảng và Nhà nước thì kẻ thù sẽ lợi dụng những cái đó để tấn công lại chúng ta. Lập luận ấy là một sai lầm lớn; khuyết điểm cũng giống như các căn bệnh: phê bình là liều thuốc để chữa trị nó. Nếu sợ phê bình thì khác nào như có bệnh mà giấu, mà không dám uống thuốc, do đó bệnh ngày càng nặng thêm và nếu không chết thì cũng khó khỏi lành bệnh.”
Người Việt Nam có câu: “Lá lành đùm lá rách.” Đối với những người cách mạng họ phải đảm đương lấy trọng trách về những “nỗi vui, buồn” của nhân dân họ, chữa trị dần dần những chấn thương tinh thần do hai mươi năm bị chia cắt, ba mươi năm chiến tranh gây ra. Đối với họ, không có ai là người thắng và cũng không có ai là kẻ bại...
Sài Gòn xầm xì những dư luận. Nó lan truyền khắp nơi: giai cấp tư sản lo lắng về “chủ nghĩa xã hội đến từ miền Bắc”, họ hình dung nó nghiêm khắc, một màu xám xịt… Ngay cả những người nghèo cũng không tránh khỏi tiêm nhiễm một số thói quen. Cuộc sống nghèo khổ trên những mảnh vụn của sự giàu có Mỹ cũng kéo theo không ít những ham muốn riêng... Năm 1954, ở miền Bắc, trong một đất nước bị chiến tranh tàn phá thiếu thốn đủ mọi thứ, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có thể nói: “Khi người ta chỉ có một quả táo cho tất cả, thì người ta phải lấy nó nấu một nồi nước để mọi người cùng ăn…”. Ở miền Nam, khéo xoay xở, mỗi người cũng có thể kiếm được một quả táo riêng. Dù rằng nó đã bị hư...
Vì vậy, cứ cho rằng không phạm sai lầm khuyết điểm, những người cách mạng cũng khó có thể ngăn cản nổi một sự vỡ mộng xuất hiện cùng với những khó khăn đầu tiên. Xã hội thành thị miền Nam, mất đi một cách đột ngột những hàng hóa thừa thãi của Mỹ, đã phản ứng như kiểu một con nghiện đói thuốc... Trong bối cảnh ấy những lúng túng vụng về, thậm chí sai lầm khuyết điểm của cán bộ chỉ càng tác động như một yếu tố tiêu cực, nhất là khi họ lại là những người bị “lý tưởng hóa”, bởi người cách mạng nào mà chẳng mang theo họ một ảo ảnh hữu hình, mà ảo ảnh này thì làm sao nó có thể chống lại nổi sức nặng của cái thường ngày...
Nhưng những cán bộ ấy, họ là ai?
Chúng tôi đi ngang qua tỉnh Rạch Giá. Và có lẽ nhìn từ chiếc xe “Jeep”, quang cảnh thiên nhiên hào phóng này của một vùng đất đồng bằng Cửu Long đã lôi cuốn Khải, một cán bộ lãnh đạo tỉnh, khiến anh thổ lộ tâm sự với tôi:
“Thực ra, cái khó lớn nhất của chúng tôi lúc này là vấn đề thiếu hiểu biết của cán bộ. Tất cả họ đều là nông dân và gần như không biết chữ. Theo dòng năm tháng của chiến tranh, họ học làm chiến tranh, nhưng giờ đây, cái đó chẳng dùng gì được cho họ nữa, người ta đòi hỏi ở họ những cái khác kia; thế mà để viết một báo cáo, họ đã phải toát cả mồ hôi ra để viết được hai trang giấy… rồi lại phải xóa đi để viết lại. Lẽ ra chỉ mất độ hai chục phút, thì đằng này họ đã phải bỏ ra cả giờ cả buổi để đánh vật với nó. Vậy là chúng tôi cần phải làm việc, làm việc và làm việc nữa và phải thức thêu đêm để học. Lớp học được mở ở khắp nơi và cán bộ của chúng tôi đều bắt buộc phải đến lớp”.
Một tối, tôi được một số cán bộ lãnh đạo tỉnh kể cho tôi nghe về họ:
“Tôi sinh năm 1930 tại rừng U Minh và tôi sống ở đấy đến ngày toàn thắng”, ông K, người phụ trách đảng bộ, kể “và dĩ nhiên tôi tham gia hai cuộc kháng chiến cũng ở đấy”. U Minh, rừng của tràm, đước, sú, vẹt và đầm lầy, vùng rừng nổi tiếng trong chiến tranh Đông Dương, trước đây mười lăm năm nó giăng trải bạt ngàn trên một chu vi hàng trăm kilômét tới tận một phần của đất mũi Cà Mau ở cực nam Việt Nam. Nhưng nay, bị chất trụi lá, xe ủi, bom 7 tấn của Mỹ huỷ hoại, chu vi của nó rút lại chỉ còn khoảng sáu chục kilômét. Với cây cối rậm rạp, rất khó vào, từ năm 1945, U Minh đã trở thành một trong những căn cứ vững chắc của cách mạng Nam Bộ, trực tiếp là đồng bằng Cửu Long, cả trong kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ. Từ nơi đây, quân du kích tiến ra đánh kẻ thù và cũng tại đây, những cán bộ bị truy lùng, những tổ chức bị tan vỡ kéo vào ẩn náu, xây dựng củng cố để rồi lại tiếp tục cuộc chiến đấu.
Giữa đồng bằng Cửu Long và Trường Sơn việc giao thông liên lạc rất bị hạn chế: dãy Trường Sơn, con đường chi viện từ miền Bắc vào, không chạy tới đồng bằng Cửu Long. Quân ngụy Sài Gòn đã giăng ngang giữa U Minh với Trường Sơn; cán bộ đào tạo từ ngoài Bắc vào đôi khi phải dùng đến tàu ngầm để vượt biển tới U Minh và cũng vì vậy việc tiếp tế cho U Minh chủ yếu là phải dựa vào nguồn tại chỗ với sự giúp đỡ của nhân dân. Có hai thời kỳ gay go nhất đối với U Minh. Thời kỳ thứ nhất là hai năm 1957-1958 dưới thời Diệm: bị địch đàn áp, trong 500 đảng viên thì chỉ còn 27 đảng viên sống sót. Thời kỳ thứ hai là vào năm 1969, 1970, thời kỳ Mỹ - ngụy đẩy mạnh chương trình “bình định”. Những người đã sống, chịu đựng gian khổ, chiến đấu ở đấy và từ đấy bước ra chiến đấu, đã nhắc lại U Minh với một tình cảm trìu mến, thân thương...
“Khi tôi mới lên năm, quân Pháp đã đến U Minh...”, một cán bộ trẻ ở độ tuổi ba mươi kể, “cha mẹ tôi phải cõng tôi chạy vào rừng sâu... Đất ở đấy thì đen mà nước lại đỏ quạch... dây leo chằng chịt, có dây thân lớn tới 80 phân đường kính, chắn hết cả tầm mắt chỉ cách một mét là đã chẳng trông thấy gì, đất bùn sâu tới ba mét. Rừng rất sẵn ong tha hồ lấy mật mà ăn, nhưng kiến vàng, muỗi, vắt thì nhiều vô kể, còn sốt rét thì khỏi phải nói, đó là cái nợ mà ông trời bắt trả...”
Thế rồi năm 1975: Đối với những người chiến đấu ở bưng biền này, đó là những trận đánh cuối cùng của chiến tranh giải phóng và rất đột ngột, không một chút ngưng nghỉ, gần như chỉ hôm sau của ngày giải phóng, họ đã phải đứng ra gánh vác một nhiệm vụ mới, đó là xây dựng lại đất nước.
Kiều Thị Chân, năm mười lăm tuổi, vốn gốc nông dân. Bà đã hiến cả tuổi thanh xuân của mình cho đấu tranh cách mạng với nhiệm vụ giao liên của một tỉnh miền Nam. Bây giờ bà được giao làm giám đốc xí nghiệp số 1 thuộc công ty quốc doanh đông lạnh và chế biến hải sản. Thực ra, từ năm 1972, trong tỉnh cũng đã có một số xí nghiệp quy mô khác nhau, được xây dựng, một vài cái đang xây dựng dang dở, trong tất cả số đó thì có sáu xí nghiệp hoạt động với vốn nước ngoài chủ yếu là vốn của Thái. Một tháng trước giải phóng, chủ của các xí nghiệp bỏ đi di tản và các nhà máy đều đóng cửa. Sau giải phóng, các xí nghiệp được quốc hữu hóa và tổ chức thành một công ty, tập hợp khoảng năm trăm lao động. Việc khôi phục lại nhà máy quả không đơn giản: được xây dựng ở một tỉnh gồm toàn nông dân và dân chài, các nhà máy thường sử dụng nhân công nữ và thuê theo công nhật. Thợ làm tháng phần lớn đều ở Sài Gòn và khi nhà máy đóng cửa, họ đã trở về nhà. Bây giờ phải gọi họ quay trở lại, nhưng thậm chí những người gọi là “thợ” này cũng không phải là dân chuyên nghiệp, họ cũng mới chỉ bước vào nghề, còn trước kia họ hoặc là thủy thủ, hoặc là kế toán hay thư ký văn phòng... chỉ có một số rất ít là công nhân cơ khí, còn cán bộ hay nhân viên kỹ thuật thì họ là người Thái và đã bỏ về nước. Việc thiếu một tầng lớp vô sản chính gốc là một trở ngại đầu tiên; ngay cả tổ chức công đoàn, dù là bù nhìn thời trước ngụy ngày trước ở đây cũng không có. Trong sáu xí nghiệp, riêng nay chỉ còn xí nghiệp số 1 đang hoạt động với 400 công nhân và nhân viên.
“Sau giải phóng, bà Chân kể, Đảng phân công tôi về lãnh đạo xí nghiệp này...” Bà tới Rạch Giá ngày 1 tháng Mười, tức sáu tháng sau giải phóng. Đương nhiên, bà đâu có biết gì về kỹ thuật. Để giúp bà, trên đã cử về một cán bộ kỹ thuật, trước đây đã học cao đẳng ở Liên Xô về nghề cá. Anh cán bộ này tới đây ngày 30 tháng Tư, đúng vào ngày giải phóng...
Trong những điều kiện ấy, người ta có thể hình dung được có biết bao vấn đề về con người, về chính trị phải giải quyết. “Công nhân ở đây còn bị ảnh hưởng bởi những tuyên truyền của bọn bù nhìn”, bà giám đốc mới nói, “cần phải gây cho họ một tinh thần, một ý thức mới. Công tác giáo dục, vận động của chúng tôi đối với họ là dựa vào nguyên tắc: giúp cho họ hiểu được rằng từ nay họ là những chủ nhân mới của các công cụ lao động và của chính số phận họ”.
Thể hiện ở việc làm cụ thể, ban lãnh đạo nhà máy chủ trương tin tưởng ở công nhân và sử dụng những kinh nghiệm của họ: những ai trước đây làm công tác chỉ huy, điều hành thì nay vẫn giũ nguyên vị trí cũ, đề bạt một số người mới, những người khác thì xếp sắp họ vào những công việc phù hợp với khả năng... Một công nhân nay được giao phụ trách về “kỹ thuật” trong nhà máy tâm sự: “Tôi cảm thấy như mình là một anh học trò, trước kia tôi chỉ là một người thợ bình thường nhưng vì người kỹ sư cũ đã ra đi, mà công việc thì đòi hỏi vẫn cứ phải chạy đều đều”.
Với tất cả những khó khăn về vật liệu, như thiếu chất đốt, thiếu bộ phận thay thế... còn thêm vào những khó khăn về lương bổng có sự chênh lệch nào đấy với lương ở Sài Gòn. Nhưng vì thiếu vốn lưu động nên xí nghiệp cũng chẳng thể giải quyết vấn đề này một cách thỏa đáng. Một phó giám đốc nhà máy vẫn được giữ nguyên ở vị trí cũ cho biết ngày trước ông ta lĩnh được 45.000 đồng tiền cũ một tháng, “với số lượng ấy, gia đình tôi bảy miệng ăn chẳng biết sống như thế nào. Cái gì cũng đắt, đắt hơn bây giờ...”. Thế mà hiện nay, theo lương tạm thời, ông chỉ còn được lĩnh một khoản lương tương đương yới 20.000 đồng tiền cũ thì “thành thực mà nói, ông thú nhận, quả là không đủ, cứ đến 20 hàng tháng là gia đình tôi đã cạn tiền rồi”.
Nhưng lương tháng của những người lãnh đạo mới thì sao? Kỹ sư Nguyễn Ngọc Sơn tốt nghiệp ở Liên Xô trả lời tôi: “Như tất cả các cán bộ cách mạng khác, hiện thời tôi không có lương. Cái ăn thì đã có nhà máy bao, còn mỗi tháng được phụ cấp 280 đồng (14.000 tiền cũ)”, tức là đủ để mua xà phòng và... một bao thuốc lá.
Những vấn đề nói trên thì chẳng riêng gì xí nghiệp 1 công ty đông lạnh và chế biến hải sản Rạch Giá mới có, mà đó là những vấn đề được đặt ra đối với toàn miền Nam sau giải phóng, trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế cũng như quản lý xã hội.
Ảnh hưởng của kháng chiến, nói chung tác động mạnh ở nông thôn đã bị đánh bật mất gốc rễ do những thủ đoạn đánh phá ngày càng ác liệt của kẻ thù trong quá trình phát triển của chiến tranh giống như nó đã bị đánh bật mất gốc rễ ở các cơ cấu xã hội khác. Đặc biệt là ở vùng vành đai nông thôn của Sài Gòn, nơi mà số dân bị những chiến dịch càn quét lớn và chính sách bình định của Mỹ làm giảm mạnh. Thiệt hại của những mạng lưới kháng chiến bí mật là rất lớn: riêng với chương trình “Phượng hoàng”, giám đốc C.I.A. William Colby đã đưa ra con số là 67.000 “Việt cộng”, phần lớn là các cán bộ chiến sĩ hoạt động bí mật xuất sắc nhất, bị giết hại hoặc bắt giữ.
Ví dụ chúng ta hãy xem xét tình hình Đảng bộ Gò Vấp, một huyện nửa thành thị, nửa thôn quê của tỉnh Gia Định ở bắc Sài Gòn. Vào lúc giải phóng, Gò Vấp có tám xã với 250.000 dân, thì Đảng bộ chỉ có 140 đảng viên và cạnh đó là 75 đoàn viên thanh niên; lực lượng tự vệ có 30 đội viên. Năm 1959, Đảng bộ tổ chức được 200 đảng viên, nhưng tới tháng Mười năm ấy, lực lượng này đã gần như không còn lại một người nào, Đảng bộ dần dần tổ chức lại lực lượng; năm 1961, trong tỉnh đã diễn ra một cuộc nổi dậy cục bộ và số đảng viên của Đảng bộ lại tăng lên tới 200. Nhưng đến năm 1968, số đảng viên lại giảm xuống còn trên 60, và số tự vệ chỉ còn lại bảy đội viên.
Vài con số trên giúp cho người ta có một ý niệm về thực tế cuộc đấu tranh bí mật của lực lượng kháng chiến ở miền Nam. Một tình hình tương tự như thế cũng đã diễn ra ở quận 6, một trong những quận đông dân nhất của Sài Gòn. Tiếp giáp với vùng ven Sài Gòn, quận 6 bảo đảm mối liên hệ giữa thành phố và nông thôn và do đó nó đã trở thành một địa bàn được chú ý của hoạt động kháng chiến. Chính quyền ngụy Sài Gòn ý thức được rất rõ điều đó và để bao vây truy lùng kháng chiến, họ đã lập ra một bộ máy cai trị đặt toàn vùng đó dưới quyền kiểm soát của Sài Gòn: quận có 225.000 dân được chia thành năm tiểu khu, 38 phường, 1150 khu nhà; toàn bộ bộ máy cảnh sát và hành chính của quận 6 có: 4.180 viên chức, 1.500 cảnh sát, 17.469 binh lính và 730 đảng viên các đảng phái phản động trong đó có đảng Dân chủ của Thiệu. Cạnh đó là các tổ chức quần chúng bù nhìn: phụ lão, phụ nữ và thanh niên, bắt chước mô hình tổ chức của cách mạng.
Từ 1968, tại quận 6 các gia đình ít hay nhiều dính dáng tới kháng chiến đều bị phân loại thành hai màu: “đỏ” là những gia đình nào có người ruột thịt hoặc họ hàng đi kháng chiến, còn “vàng” là những gia đình nào có cảm tình với kháng chiến.
Người ta tính được 4.300 gia đình “đỏ” và “vàng”, tức một phần mười số gia đình của quận. “Đỏ” hay “vàng” thì gia đình nào cũng bị những gia đình “xanh” vây quanh - xanh là những gia đình được chính quyền thừa nhận, hay ít ra thì cũng được coi là “thân chính phủ”. Và ở các gia đình bị tình nghi, chính quyền luôn luôn tiến hành bắt bớ, tra hỏi... một cách có hệ thống. Với danh nghĩa là phòng xa!
Với chiến thuật “kẻ ô vuông” đó để giám sát, truy lùng, từ sau tiến công Tết 1968, 3.000 chiến sĩ cách mạng đã bị địch bắt giữ. Cũng từ ngày đó, ban lãnh đạo đảng trong quận đã phải bốn lần thay đổi, bổ sung.
Chính trong tình hình nói trên, một phụ nữ bốn mươi mốt tuổi, Nguyễn Chí Thành đã được giao nhiệm vụ lãnh đạo Đảng bộ quận và củng cố lại nó. Chị Thành sinh trưởng trong một gia đình nông dân ở Gò Vấp, đi theo cách mạng từ hồi kháng chiến chống Pháp. Trong sáu anh chị em trong gia đình chị thì đã có năm người tham gia cách mạng. Năm 1945, chị vào Việt Minh. Năm hai mươi sáu tuổi, chị lập gia đình và chồng chị cũng là một người kháng chiến. Năm 1965, anh đã hy sinh trong một lần bị địch phục kích. Gay go nhất đối với chị Thành là thời kỳ từ tháng Tư 1969 đến tháng Sáu 1972: một tên phản bội tố giác, chị đã bị cơ quan an ninh ngụy bao vây theo dõi, rất gắt. Thời kỳ ấy cấp uỷ đảng có bốn người và cả quận chỉ còn một chi bộ.
Cuối năm 1973, chị Thành có thêm được sự giúp đỡ của một đồng chí mới: anh Bảy Hồng, vừa mới ra khỏi “chuồng cọp” Côn Đảo trước đây ba tháng. Bị bắt sau cuộc Tổng tiến công Tết 1968, Bảy Hồng vừa được trao trả với 30.000 tù binh và tù chính trị khác trong khuôn khổ Hiệp định Paris. Lúc được trao trả, anh không còn có thể đi lại được nữa, địch đã xiềng xích anh trong ba tháng. Tất cả các đòn tra tấn dã man của địch, anh đã phải nếm trải hết: quay điện, đi “tầu ngầm”, đánh dùi cui, treo ngược..., những di tật giờ hãy còn in đậm dấu vết trên mình anh. Sau ba tháng phục hồi sức khỏe và một lớp học chính trị, người còn mang đầy thương tích ra đi lại khó khăn, anh bí mật trở lại Sài Gòn với nhiệm vụ tổ chức một đội tự vệ ở quận 6.
Để bảo đảm bí mật tuyệt đối, anh chỉ có liên lạc duy nhất với chị Thành; mỗi lần gặp nhau đều do cấp trên tổ chức... Điểm hẹn thường được bố trí ở các gia đình cơ sở và nó cũng luôn luôn thay đổi: họ phải nói chuyện với nhau qua những bức vách và đầu người nào cũng trùm kín, chỉ để hở hai con mắt. Mãi đến ngày giải phóng, anh mới được biết mặt chị. Không biết lúc đó, anh có nói với chị rằng chị đẹp không? Chị Thành, người nông dân và chiến sĩ cách mạng ấy, trong hoạt động thì cải trang thành cô hàng bán hoa quả hay chị đầy tớ, bây giờ chị đã trở thành chủ tịch Uỷ ban cách mạng quận 6 và ở chị người ta thấy toát lên một phẩm cách mà khối kẻ quyền quý ở Sài Gòn phải thèm muốn.
Bảy Hồng nhớ lại những tháng năm gian khổ ấy: “Suốt thời gian đó, chúng tôi thường xuyên sống trong tình trạng căng thẳng. Tôi biết ở ngoài Bắc, đồng bào đồng chí của tôi cũng đang phải hứng chịu hàng ngàn tấn bom, nhưng tinh thần của họ được tự do thoải mái. Còn chúng tôi, suốt ngày đêm chúng tôi bị địch lùng sục vây ráp.”
Ngày 30 tháng Tư, quận 6 có 61 người hoạt động trong các tổ chức cách mạng, trong đó chỉ có 10 đảng viên và khoảng một trăm người trong diện cảm tình có thể đưa vào các tổ chức cách mạng. Bây giờ, họ có tất cả bao nhiêu? Chị Thành cười: “Đủ cho những công việc phải làm.”
Nhưng những con số đó là chưa đúng với thực tế. Ảnh hưởng của cách mạng còn phức tạp hơn nhiều: bị chiến tranh làm xáo trộn, nhiều chiến sĩ cách mạng đã mất liên lạc với tổ chức của mình, phải mãi đến khi giải phóng, họ mới có được điều kiện để bắt liên lạc trở lại. Như sáu tháng sau giải phóng ở Gò Vấp, số đảng viên lại lên tới 358, đoàn viên thanh niên là 600, cạnh đó còn có 41.000 người tham gia các đoàn thể quần chúng. Ở Quận 6 cũng như ở tất cả các nơi thác, các đoàn thể này đều thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, điều đó chứng tỏ những người lãnh đạo mới đã gây được lòng tin trong nhân dân và tìm thấy ở nhân dân sự hưởng ứng.
“Tất cả chúng tôi đều là những người tập sự đối với những công việc mới của cách mạng. Một số việc đã vượt khả năng của chúng tôi. Nhiều điều chúng tôi còn phải học lắm”, một uỷ viên của Ủy ban cách mạng Tân Cảng đã nói với tôi như vậy. Đó cũng là cảm nghĩ chung của tất cả các cán bộ cách mạng, khi họ đột ngột rời cuộc chiến đấu ở vùng biên để chuyển sang làm nhiệm vụ quản lý xã hội...
Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam - Alain Wasmes Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam