Số lần đọc/download: 1590 / 33
Cập nhật: 2017-08-04 14:04:04 +0700
Chương 10
C
ây ôliu, trổ mọc khúc khuỷu, dành cho Cosimo những tuyến đường thoải mái và dễ dàng; một loài cây nhẫn nại và thân thiện qua cái vỏ mấu sần sùi của nó: để băng ngang và trụ lại, dù mỗi cây không có nhiều cành to và ít đòi hỏi sự đa dạng về động tác. Trên một cây sung, trái lại, thận trọng với độ chịu sức nặng của nó, Cosimo liên tục di chuyển; anh dừng lại bên dưới một tòa lá, giữa ánh nắng soi rọi những đường gân của chúng, anh trông thấy những quả sung xanh xanh đang trương nở từ từ, anh ngửi ra mùi nhựa trào lên cổ cuống của chúng. Quả sung hấp thụ bạn, dìm bạn trong cái chất thể dinh dính của nó, trong tiếng vo vo của bày ong bắp cày. Được một chốc, bứt rứt, cảm thấy dường như chính mình trở nên một quả sung, Cosimo chuyền đi. Trên cây thanh lương trà cứng cỏi hay trên cây dâu tằm, anh cảm thấy dễ chịu; tiếc rằng chúng rất hiếm. Cây hồ đào cũng thế, chính tôi, để thổ lộ, những lần nhìn anh biến đi trong một cây hồ đào già lớn ngút ngàn như trong một cung điện nhiều tầng với vô số phòng thất, lòng tôi lại trào dâng ý muốn bắt chước anh, trèo lên ngụ ở nơi cao trên đó; biết bao sức mạnh và sự chắc chắn đã được dồn tụ để ngọn cây ấy tồn tại là cây, biết bao kiên gan để ngọn cây ấy biểu đạt sự nặng trịch và rắn chắc của nó, ngay cả trong lá.
Cosimo vui vẻ ngụ lại giữa những đợt lá dập dờn của cây nhựa ruồi (hay là cây sồi xanh, như cách tôi gọi khi nói về vườn nhà, có lẽ do được gợi ý từ kiểu ngôn ngữ trau chuốt của bố), anh thích cái vỏ nứt nẻ của nó, những lúc trĩu nặng ưu tư, anh thò ngón tay cậy vài mẩu, không phải vì bản năng gây đau, mà để hỗ trợ nó trong chuyến tái sinh dài và vất vả. Hoặc anh còn bóc cái vỏ trăng trắng của cây tiêu huyền để khám phá lớp nấm mốc sương. Anh cũng thích những thân cây nổi cuộn như của cây du, với các cục u dồn đẩy những chồi non mềm mại, những cụm lá răng cưa, và quả cánh như bằng giấy; song khó mà di chuyển nơi đây, bởi cành nhánh của nó chĩa thẳng lên trên, mảnh mai và rậm dày, không chừa lối. Trong rừng, anh ưa chuộng sồi rừng và sồi xanh: bởi trên cây thông các tầng cành quá sát nhau, không vững và đầy gai, chẳng chừa không gian lẫn chỗ bấu; còn cây hạt dẻ, với lá gai, tua nhọn, vỏ cứng, cành cao, dường như được tạo ra để ai nấy tránh xa.
Những mối thiện cảm và những sự cách biệt ấy, Cosimo nhận ra hoặc có ý thức dần dà qua thời gian; song ngay từ những ngày đầu, chúng đã bắt đầu phối hợp với anh như một bản năng tự nhiên. Kể từ đó, với anh, thế giới khác đi; nó được kiến tạo bởi các nhịp cầu hẹp và cong bắc lên không trung, bởi mấu, vảy, nếp, sù sì trên vỏ, bởi cái ánh sáng sắc xanh biến thiên của nó, tùy theo những rèm lá dày đặc hay lưa thưa, rung lên trước ngọn gió vừa lùa qua cuống, hoặc lay chuyển như những cánh buồm theo cú rạp mình của thân cây. Trong lúc cái thế giới của chúng ta, phẳng dẹt dưới đáy nơi kia, có những hình hài kỳ cục, chẳng hiểu gì sất về những gì anh biết trên đó: những đêm dài nghe ra thế nào là tiếng gỗ lèn tế bào thành các vòng vân đánh dấu số năm trong thân, tiếng mảng nấm mốc mở rộng trong gió bấc, tiếng lẩy mình của con chim đang ngủ trong tổ rúc mỏ vào chỗ lông cánh mềm mượt nhất, tiếng sâu róm thức giấc, tiếng trứng chim bách thanh nở. Có khoảnh khắc, sự tĩnh mịch của đồng quê soạn ra trong hốc tai một cơn bụi mù tiếng động: quàng quạc, chít chít, cỏ lướt xào xạc, nước lõm tõm, tiếng giẫm đất sỏi loạch xoạch, và nổi lên cao hơn cả là bè ve kêu. Tiếng động chắp kéo tiếng động, thính giác càng lúc càng có thể tách bạch mỗi tiếng mới, như thể những ngón tay tháo gỡ một cuộn len mà mỗi sợi kết sổ lộ những đường tơ ngày càng mỏng và mịn hơn nữa. Ếch nhái tiếp tục ộp ộp, làm bè trầm và giữ nguyên lưu lượng âm thanh, như thứ ánh sáng thiên nguyên liên tục lấp lánh của các vì sao. Song trước mỗi cơn gió nổi hoặc ngọn gió cuốn, mỗi tiếng động lại biến đổi và mới mẻ. Trong đáy sâu của hốc tai chỉ còn tiếng gầm thét hoặc rì rào: biển cả.
Mùa đông tới, Cosimo tạo cho mình một chiếc áo khoác bằng lông thú. Tự tay cắt may từ những bộ da thú khác nhau săn được: thỏ rừng, cáo, chồn mactet, chồn sương. Anh vẫn đội chiếc mũ lông mèo. Anh còn làm cho mình một chiếc quần ống túm lông dê với đáy và đầu gối bằng da. Còn giày, cuối cùng anh hiểu rằng, trên cây, tốt nhất là một đôi dép lê, thế là anh chế ra một đôi, không biết bằng da gì, có lẽ bằng da con lửng.
Anh giữ ấm như thế. Cần phải nói rằng thời đó mùa đông ở vùng chúng tôi ôn hòa, không như cái lạnh bây giờ, mà theo thiên hạ nói, đã được Napoléon trục ra ở Nga, để rồi nó đuổi theo về tận đây. Thế nhưng, thời ấy, đêm đông màn trời chiếu đất hẳn không phải toàn là mộng đẹp.
Đêm xuống, Cosimo tìm ra được phương pháp túi ngủ lông thú; không còn là lều hay lán nữa, một túi ngủ với mặt lông thú lộn vào trong, treo trên một cành cây. Anh chui tọt vào đó, mọi sự tan biến, rúc người nằm ngủ như một đứa bé. Khi một tiếng động lạ vẳng lên trong đêm, thì từ miệng bao thò ra: chiếc mũ lưỡi trai, họng súng hỏa mai, và cặp mắt tròn vo của anh. (Thiên hạ đồn rằng cặp mắt anh có lẽ đã trở nên tỏa sáng trong bóng tối như mắt mèo hoặc mắt cú; thế nhưng, tôi chưa bao giờ nhận ra điều này).
Trái lại, buổi sáng, khi chim sả rừng cất tiếng hót, thì có hai nắm tay từ trong bao xọc ra, quả đấm vươn cao, cánh tay dang duỗi từ từ, rồi cú quẫy người lôi luôn ra ngoài: gương mặt còn ngái ngủ, nửa thân trên, bên đeo súng hỏa mai, bên đeo sừng đựng thuốc súng, cặp chân vòng kiềng (chúng trở nên cong do cái thói quen trụ chốt và di chuyển luôn luôn bằng cả tứ chi hoặc ngồi xổm). Cặp chân này phóc ra ngoài, duỗi duỗi hâm nóng, và thế là, sau vài lượt xoay lưng, một cú gãi gãi bên dưới chiếc áo khoác lông, thì Cosimo tỉnh táo, và tươi rói như một đóa hồng, bắt đầu một ngày của mình.
Anh chuyền đi rửa mặt, bởi anh có cái vòi nước treo của mình, do anh tự sáng chế, hay đúng hơn, được kiến tạo với sự giúp đỡ của thiên nhiên. Có một con suối chảy tới một điểm thì đổ xuống như thác, và một cây sồi cành nhánh vươn cao mọc lên gần đó. Với một miếng vỏ cây dương, dài độ hai mét, Cosimo tạo ra một cái máng, dẫn nước từ chỗ đổ xuống cho tới cành cây sồi, thế là anh có thể dùng nó để uống và tắm rửa. Rằng anh có tắm, tôi có thể bảo đảm, bởi có những lần tôi đã nhìn thấy; không thường xuyên và cũng không phải tất cả mọi ngày; anh còn có một cục xà phòng. Với cục xà phòng, thậm chí có lúc nổi hứng anh mang đồ đi giặt; để làm chuyện này anh tìm mang lên cây sồi một chiếc chậu gỗ. Rồi anh phơi đồ trên một sợi dây chăng giữa hai cành cây.
Tóm lại, anh thực hiện mọi chuyện ở trên cây. Anh còn tìm được cách nướng xâu thịt thú vật hoang dã săn được mà không bao giờ cần tụt xuống. Anh làm thế này: bật đá lửa đốt một quả thông, thảy vào chỗ đã có sẵn một cái lò (do tôi xếp với những phiến đá nhẵn), rồi thả cành nhánh và những bó củi khô lên đó, cời lửa bằng một lưỡi xúc với cái kẹp cột vào một cây que dài, có thể vươn tới chỗ xâu thịt, đặt trên hai chạng cây. Tất cả những điều này đòi hỏi sự thận trọng, bởi rất dễ gây ra một đám cháy trong rừng. Không phải tình cờ mà cái lò được xếp dưới cây sồi, cạnh thác nước, để trong trường hợp khẩn cấp anh có thể tha hồ sử dụng nước.
Như thế, với những thức săn được, phần thì để ăn, phần thì dùng để trao đổi với các bác nông dân lấy trái cây và rau cải, anh thực sự kiếm sống thoải mái, thậm chí không cần nhà phải gửi cho anh thứ gì nữa. Một hôm, chúng tôi biết được anh có sữa tươi uống mỗi sáng; anh đã bắt bạn với một cô dê, nó tìm tới và chồm lên một chạng cây ôliu, chỗ dễ dàng, cách mặt đất chừng vài gang tay, đúng hơn, không phải nó chồm, mà nó chổng hai chân sau, để anh tụt xuống chạng cây với một cái xô, và nặn sữa nó. Cùng một thỏa thuận với chị gà mái, một chị gà mái đỏ vùng Padova, rất mẳn. Anh đã kết cho chị một cái ổ bí mật, trong hốc một thân cây, cách bữa thì có một quả trứng, anh húp nó sau khi đã dùng kim đục lỗ hai bên đầu.
Một vấn đề khác: chuyện anh đi ngoài. Lúc đầu, tiện chỗ nào anh đi chỗ nấy, không hề bận tâm, thế giới rộng mà. Sau đó, anh hiểu ra, làm như thế không hay ho gì. Anh tìm được một cây tổng quán sủi nằm bên bờ ghềnh VũĐiệuLoàiPhân, nó ngả tới một điểm thuận lợi và kín đáo nhất, với một chạng cây nơi anh có thể đặt mông ngồi thoải mái. VũĐiệuLoàiPhân là một ghềnh nước ít người biết đến, khuất trong các khóm sậy, chảy mạnh, những ngôi làng bên cạnh thải nước thừa ra đó. Thế là cậu cả MưaGiông xứ Rondo sinh hoạt một cách văn minh, tôn trọng khuôn phép lễ nghi của đồng loại và của chính mình.
Tuy nhiên trong cuộc sống người-săn, về tình thân anh cần một sự bổ sung: một chú chó. Phần tôi, luôn xông vào những bụi gai, bụi rậm, để tìm ra con chim sáo đá, con chim dẻ gà, con chim cút, rơi từ trên không trung khi bị anh bắn trúng, hoặc ngay cả những con cáo, sau một đêm rình mò, có con nằm lại trong bụi cây với cái đuôi dài ló ra ngoài. Song tôi chỉ có thể thỉnh thoảng trốn đi gặp anh trong rừng: những buổi học với thầy Trùm, rồi chuyện làm bài, giúp lễ, bữa cơm với bố mẹ, đã cầm chân tôi; trăm thứ bổn phận trong sinh hoạt gia đình mà tôi phải tuân theo, bởi vì, xét cho cùng, câu nói mà tôi luôn nghe lặp lại là: “Trong mỗi gia đình, một kẻ nổi loạn là đã quá đủ”, nó không phải không có lý, tôi đã để nó in dấu ấn lên suốt đời mình.
Cho nên Cosimo hầu như luôn đi săn một mình, và để nhặt con thú săn (trừ trường hợp gặp may khi một con chim vàng anh vướng đôi cánh vàng vào một nhánh cây), anh sử dụng một kiểu cần câu với dây lạt, một cái móc hoặc một lưỡi câu, song không phải lúc nào anh cũng thành công, đôi lúc, một con chim dẻ gà bị kết thúc dưới một đáy mương với đàn kiến đen kịt.
Cho tới đây tôi nói về nhiệm vụ của một chú chó tha mồi. Bởi lẽ Cosimo hồi đó hầu như chỉ săn theo kiểu ngồi rình, anh trải qua những sáng hoặc những đêm trên cành, chờ con chim sáo đậu lên ngọn cây, hoặc con thỏ rừng xuất hiện ở một bãi cỏ trống. Bằng không, anh lang thang tùy hứng, dõi theo tiếng chim hót, hoặc đoán chừng những lối đi khả dĩ của thú săn. Khi nghe tiếng bầy chó săn đuổi theo con thỏ rừng hoặc con cáo, thì anh biết mình phải tránh xa, đó không phải loại thú săn của mình, kẻ đi săn đơn độc và tình cờ. Tôn trọng lề luật, ngay cả khi ở trên một chỗ rình trăm phát trăm trúng trước con thú săn đang bị chó của người khác đuổi, anh không bao giờ nâng họng súng. Anh chờ người đi săn hổn hển xuất hiện trên lối nhỏ, tai căng, mắt nháo nhác, chỉ cho họ hướng chạy của con vật.
Một hôm, anh trông thấy một con cáo: một đợt sóng đỏ giữa cỏ xanh, tiếng phì phò dữ tợn, ria tua tủa; con vật băng ngang bãi cỏ và biến mất sau bụi cây. Theo sau là bầy chó: Gâu! Gâu! Gâu!…
Chúng lao tới, mõm gí đất, đôi lần hốc mũi lạc mùi cáo, chúng quay ngoắt người lại.
Bầy chó chạy được một quãng thì có tiếng ăng ẳng: hui! hui!, một con gì đó đang rẽ cỏ, với những cú phóc kiểu của cá hơn là của chó, một loại cá heo mỏ đang bơi, khịt khịt cái mũi nhọn hơn, lủng lẳng đôi tai rủ hơn, so với một con chó săn. Thân sau, hệt loài cá; dường như đang quẫy vây hoặc ngón màng để bơi, dài ngoằng và không chân. Lộ ra ngoài: nó là một chú chó chồn.
Chắc chắn nó thuộc đoàn chó săn và bị bỏ rơi lại đằng sau, nó còn trẻ, đúng hơn, hầu như vẫn còn là một chú chó con. Lúc này thì đoàn chó săn bật ra tiếng “Boohahf!” bực dọc, bởi chúng bị mất dấu vết, và cuộc chạy theo đoàn bị tản ra thành một mạng tìm kiếm khứu giác khắp một khoảng rừng trống, quá hoang mang trong việc tìm ra lại cái mùi đã bị thất lạc để mà chạy cho đúng hướng, sức phóng chạy vừa bị giảm, thì đã có con thừa cơ hội kiễng chân tè lên một hòn đá.
Thế là chú chó chồn, thở hổn hển, loắng toắng dương cao mõm đắc thắng không cần lý do, đuổi kịp đoàn chó săn. Vẫn chẳng cần lý do, nó buông ra tiếng ủng ẳng tinh quái:
– Uai! Uai!
Thình lình, đoàn chó săn: – Aurrrch! Chúng gầm gừ, tạm quên việc hửi tìm mùi cáo một chốc, quay mõm hướng vào nó, há họng sẵn sàng táp: – Ggghrr! Rồi nhanh chóng trở về với sự chẳng quan tâm, và phóng đi.
Cosimo theo dõi chú chó chồn đang đi quanh quẩn, và con vật, bâng quơ vờn mõm, trông thấy cậu thiếu niên trên cây, nó vẫy đuôi mừng. Cosimo tin chắc con cáo vẫn còn ẩn ở đó. Đoàn chó săn lúc này đang tản mác ở phía xa, từ trên những gò đất đối diện, văng vẳng những tiếng sủa đứt quãng, không còn mục tiêu, đốc thúc bởi những tiếng hét khan giọng của toán thợ săn. Cosimo bảo chú chó chồn:
– Nào! Nhanh lên! Chú mày tìm đi!
Con vật quăng mình rà mõm ngửi, thỉnh thoảng ngước đầu nhìn lên cậu thiếu niên.
– Tiếp tục! tiếp tục!
Lúc này Cosimo không còn thấy nó nữa. Anh nghe thấy một tiếng sột soạt trong bụi cây, thế rồi, đột nhiên:
– Guoaguoaguoaaaa! Iai, iai, iai.
Chú chó con đã bức được con cáo chạy ra.
Cosimo trông thấy con thú chạy trên bãi cỏ. Song liệu mình có nên bắn một con cáo truy ra được từ một chú chó con của người khác hay không? Anh để nó chạy ngang mà không bắn. Chú chó chồn giơ mõm về phía anh, với ánh nhìn của một con chó khi nó không hiểu và không biết mình có thể có lý do để không hiểu hay không, thế là nó lại quăng mình, chúc mõm đuổi theo con cáo.
– Iai, iai, iai!
Con cáo bị đuổi chạy một vòng. Đây rồi, nó đang quay trở lại. Thế mình bắn hay không bắn? Anh không bắn. Chú chó chồn ngước đầu nhìn lên với một ánh mắt rầu rĩ. Nó thôi không sủa nữa, lưỡi thòng dài hơn tai rủ, nó kiệt sức, song vẫn tiếp tục chạy.
Cuộc truy tìm của nó đã đánh lạc hướng đoàn chó săn và toán thợ săn. Một lão già cầm một chiếc súng hỏa mai nặng chình chịch chạy trên lối nhỏ. Cosimo hỏi:
– Này ông lão! Có phải con chó chồn kia là của ông?
– Tiên sư chú mày và cả nhà chú mày.
Lão lớn tiếng, ắt là đang ở trong một cơn bực bội.
– Chú mày cho lão gia này là kẻ đi săn chó chồn à?
– Vậy thì con nào mà nó truy được, cháu sẽ bắn nhé.
Cosimo nhấn giọng, anh muốn mình hợp thức.
– Chú mày muốn bắn thiên thần bổn mạng của chú mày cũng được, lão chả thiết!
Lão trả lời và chạy đi.
Chú chó chồn đuổi con cáo chạy lại. Cosimo bắn và trúng đích. Anh trở thành chủ nhân của chú chó chồn; anh đặt tên nó là Massimo GiỏiGiắn.
Massimo GiỏiGiắn là một chú chó vô chủ, nhập vào đoàn chó săn vì nỗi niềm cuồng nhiệt của tuổi trẻ. Thế nhưng nó từ đâu tới vậy nhỉ? Muốn hiểu ra điều này, Cosimo để nó dẫn anh đi.
Chú chó chồn, bụng sát đất, băng qua những hàng giậu bờ mương; rồi quay lại nhìn xem cậu thiếu niên trên đó có thể bám theo ngả đường của mình hay không. Tuyến đi này hết sức khác thường, khiến Cosimo chưa hiểu ra ngay là anh và nó đã đặt chân tới đâu. Khi hiểu ra, thì tim anh đập thình thịch: đó là ngôi vườn gia đình nhà Hầu tước SóngVỗBờ.
Trang viên im lìm, những cánh cửa chớp khép kín; chỉ còn một cánh, trên cái gác mái, dội đập theo gió. Ngôi vườn không được chăm sóc, hơn bao giờ hết, nó mang cái vẻ của một khu rừng thuộc một thế giới khác. Những lối nhỏ nay bị cỏ xâm lấn và những luống hoa thì đầy bụi rậm, Massimo GiỏiGiắn sung sướng đi lại, như nhà của nó, nó đuổi theo những cánh bướm.
Nó biến mất trong một bụi cây. Quay lại, miệng tha một giải ruy băng. Tim anh càng đập mạnh:
– Gì vậy, Massimo GiỏiGiắn? Này! Nói cho tao nghe đi! Nó là của ai vậy?
Massimo GiỏiGiắn vẫy đuôi.
– Tha lại đây, nhanh lên, Massimo GiỏiGiắn!
Cosimo, tụt xuống một cành cây thấp, với tay lấy mảnh vải đã sờn từ miệng con vật, chắc chắn nó là cái giải ruy băng buộc tóc của Viola, cũng như chắc chắn Viola đã là chủ nhân của chú chó này, bị bỏ quên trong chuyến dọn nhà gần đây nhất của gia đình. Đúng hơn, giờ thì Cosimo dường như nhớ ra, hè năm ngoái, vẫn còn là một con chó bé bỏng, nó nhú ra từ một chiếc giỏ trong vòng tay nàng tiểu thư tóc vàng, có lẽ là một món quà nóng hổi mới.
– Tìm đi, Massimo GiỏiGiắn!
Chú chó chồn phóng người vào khóm trúc; nó quay trở ra với những kỷ vật khác của nàng, cuộn dây nhảy, một mảnh diều rách, một cây quạt.
Trên đỉnh cái thân cây cao nhất trong vườn, bằng mũi gươm, anh tôi khắc lên đó hai cái tên: Viola và Cosimo, sau đó, ở bên dưới, chắc cũng sẽ làm nàng hài lòng nếu anh gọi chú chó chồn với một cái tên khác, anh viết: Chú chó con Massimo GiỏiGiắn.
Kể từ đấy, mỗi khi trông thấy cậu thiếu niên trên cây, thì người ta cũng đoan chắc, nhìn xuống dưới phía trước hoặc sát quanh đó, họ sẽ thấy Massimo GiỏiGiắn đang lon ton, bụng sà đất. Anh đã dạy nó: tìm kiếm, chặn lối, và tha mồi, những công việc của mọi con chó săn, và không con thú nào trong rừng mà anh và nó đã không săn chung. Để tha lại con mồi cho anh, Massimo GiỏiGiắn chồm hai chân trước lên thân cây, chỗ cao nhất có thể với tới; Cosimo tụt xuống đón lấy con thỏ rừng hoặc con gà gô từ miệng nó, và trao cho nó một cú vuốt ve. Tất cả là ở đấy, mối liên hệ mật thiết giữa anh và nó, sự ăn mừng của anh và nó. Song, liên tục giữa đất và cành, qua lại giữa người này và con kia, diễn ra một cuộc đối thoại, một chuyến lĩnh hội, những tiếng sủa đơn tiết, những cú chặc lưỡi và búng tay. Sự hiện diện thiết yếu ấy – mà với chó là người, và với người là chó – không bao giờ bị người này hay con kia vi phạm; anh và nó, dẫu có khác biệt thế nào so với tất cả mọi con người và tất cả mọi con chó trên thế gian, có thể bảo rằng, trong tư cách người và trong tư cách chó: mình hạnh phúc.