What's meant to be will always find a way.

Trisha Yearwood

 
 
 
 
 
Tác giả: Marc Levy
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 10
Cập nhật: 2023-06-18 15:52:39 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 9
hỉnh thoảng, một vài ngôi làng hiện lên từ những cánh đồng đơn lẻ xuất hiện phía kính chắn gió rồi biến mất trong gương chiếu hậu. Agatha bám chặt vào vô lăng, lái xe qua những bụi cây ngải trải dài miên man, cảnh vật nhuốm màu đỏ máu khi mặt trời mọc.
- Mấy giờ rồi ạ? Milly mở mắt hỏi.
- 5h30.
- Chúng ta đang ở đâu vậy?
- Đâu đó trong Oklahoma, cô đã chạy xe rất cẩn thận.
- Cháu sẽ lái tiếp, chắc cô kiệt sức rồi.
Agatha, dù đã quá quen với những đêm trắng, vẫn thấy thật sự mệt mỏi. Bà dừng xe ngay khi thấy một nơi có thể uống cà phê.
Họ đi qua một tấm biển thông báo sắp tới địa phận Tulsa. Milly mở to mắt nhìn theo.
- Chúng ta còn chưa qua Tulsa ư? Cô chạy hai mươi cây một giờ à?
- Cô nói là đã chạy cẩn thận mà. Tuy nhiên cô có cảm giác đã chạy nhanh hơn thế nhiều, Agatha trả lời, nhưng có thể ban đêm cô đi hơi vòng vèo một chút. Rốt cuộc, quan trọng nhất là chúng ta đến được một nơi nào đó. Mà này, cháu ngủ suốt rồi, bây giờ cháu không dậy để mắng cô đấy chứ!
Agatha đỗ xe trước một quán ăn nhanh và cười rạng rỡ với cô bạn đồng hành.
- Bánh quế ngon và cà phê nhạt, cháu muốn chứ?
- Nhiều lúc sao mà cô làm cháu bực thế chứ! Milly nguyền rủa. Cô không thể hiểu cô làm cháu bực đến thế nào đâu!
- Có chứ, đừng lo, đôi khi chính cô cũng khiến bản thần cô bực mình mà, vậy nên cô hoàn toàn hiểu cháu. Nào lại đây, có thể một bữa sáng sẽ khiến cháu bình tâm lại.
* * *
Quint tỉnh dậy ngay khi những tia sáng đầu tiên trong ngày chiếu tới. Ông mặc áo ngủ tới gõ cửa phòng Tom. Không có tiếng trả lời, ông mở cửa và chỉ thấy mỗi cái giường lộn xộn. Ông lao xuống tầng trệt, vào phòng ăn không một bóng người, ngó vào phòng khách rồi đi nhanh ra cửa. Dây móc khóa thõng bên cánh cửa và Quint hiểu ra vị khách của ông đã bỏ đi từ lúc nào.
- Chết cha! ông làu bàu.
Người quản gia tiến tới sau lưng.
- Anh dậy sớm thế.
- Xin lỗi, Quint trả lời, tôi không định đánh thức anh.
-       Anh ta đi rồi à?
- Đúng vậy, và tôi không hiểu từ lúc nào.
- Tôi nghe tiếng động cơ xe cách đây khoảng ba mươi phút.
- Hy vọng tôi đã không mắc sai lâm, Quint thở dài.
- Tôi không hiểu anh muốn nói gì, nhưng nếu anh đã hành động theo lương tâm, anh không có gì phải tự trách mình. Tôi nghĩ rằng buổi tối hôm qua xứng đáng là chủ đề chuyện trò của chúng ta trong những ngày sắp tới. Trong lúc chờ đợi, tôi đi chuẩn bị bữa sáng. Điều cuối cùng tôi muốn nói là, cô bạn anh đã lấy đi khung ảnh bằng bạc, phải tìm ra lời giải thích.
- Tấm hình nào thế?
- Khung ảnh trên bàn làm việc của ông chủ, tôi sẽ ngạc nhiên nếu ông chủ không phát hiện ra.
Quint mỉm cười.
- Một cô bạn ẩn náu dưới mái nhà của anh và tranh thủ sự rộng rãi của anh để ăn trộm, vậy mà anh cũng cười được?
- Khung ảnh bằng bạc không có giá trị gì lớn, và thế giới này nợ cô ấy vài ba điều.
* * *
Như mọi buổi sáng, thẩm phán Clayton ra vườn đi bộ một chút để kiểm tra việc cắt tỉa hàng rào. Thỏa mãn, ông vào bếp dùng bữa sáng.
Sau khi rửa đĩa, ông lên gác vệ sinh, mặc com lê, thắt cà vạt trước gương và kiểm tra lại trang phục dường như phù hợp với nhiệm vụ đang chờ ông.
Tiếp đó ông vào phòng làm việc, mở sổ danh bạ và chờ đồng hồ điểm tám giờ. Khi hồi chuông đầu tiên gióng lên, ông nhấc máy gọi FBI Philadelphia. Trong khi hệ thống tổng đài để ông chờ, ông nhấp một ngụm trà.
- Thẩm phán Clayton đây, ông nói với người ở đầu dầy bên kia. Tôi rất tiếc phải thông báo về một vụ vượt ngục tại trung tâm cải tạo của vùng. Tôi vừa được biết và muốn thông báo với các anh mọi thông tin hồ sơ, anh có giấy bút ở đấy chứ?
* * *
Milly nhấp môi vào tách cà phê rồi nhăn mặt ghê tởm.
- Nếu cháu biết thứ cà phê người ta phục vụ trong tù như thế nào, cháu sẽ tin đang uống một ly arabica chính hiệu. Cô báo trước, bánh quế cũng cực tồi, Agatha thêm vào và đưa dĩa lên miệng.
- Hôm nay chúng ta đi đâu?
- Gần thôi, Woodward. Ta sẽ đến đó trước bữa trưa, rồi sẽ vượt qua biên giới bang Texas.
- Ta sẽ làm gì ở Woodward?
- Thăm một người.
- Cháu sẽ ngạc nhiên nếu không phải vậy.
Agatha lục trong túi và đặt một chiếc xe mô hình lên bàn.
- Một món quà nhỏ để cảm ơn cháu.
- Cảm ơn cái gì ạ? Milly vừa cầm chiếc xe vừa hỏi.
- Cảm ơn vì cây đàn ghi ta. Cô chưa có cơ hội cho cháu biết cô đã xúc động thế nào. cháu thật điên rồ, nhưng cô cũng vô cùng xúc động.
- Chiếc xe này giống với chiếc Oldsmobile của cháu, Milly nói và để chiếc xe chạy trên bàn.
- Vì thế mà cô đã chọn nó.
- Cô mua ở đâu vậy?
- Cô ăn trộm ở Trung tâm Giáng sinh, nhưng vẫn là một món quà đấy.
- Nó đẹp lắm, Milly nói.
- Cô rất vui vì cháu thích nó và hy vọng cơn bực của cháu với cô giảm đi đôi chút.
- Chúng ta sẽ đi thăm ai ạ?
- Cô ấy tên là Vera, nhưng lần này cô ấy sẽ tới gặp chúng ta, tối qua thật quá vội vàng; nguy hiểm mỗi giờ một tới gần hơn và vẫn còn quá sớm.
- Quá sớm để làm gì?
- Quá sớm để người ta bắt cô trở lại.
- Vậy tại sao lại đùa giỡn với hiểm họa chỉ để chào hỏi bạn bè và ra đi ngay sau đó? Vì sao cứ phải đi về hướng Tây? Hãy đi về phía Nam, tối nay ta có thể ở biên giới Mexico rồi.
- Không có hộ chiếu thì cô phải trình diện ở đâu?
- Cháu lớn lên ở Santa Fe, chẳng có một con đường to nhỏ nào mà cháu không biết; biên giới ư, cháu chở cô qua bên kia dễ như trở bàn tay.
- Và nếu ta bị bắt, cháu sẽ vào tù, không bao giờ!
- Cháu có thể thả cô ở một nơi an toàn, nếu điều đó làm cô lo lắng.
- Và khi đã ở bên kia biên giới, cô sẽ sống thế nào?
- Cô sẽ tự do. Nếu ban đầu cô có thiếu tiền, cháu có thể gửi cho cô.
Agatha nhìn sâu vào mắt Milly.
- Sao cháu lại làm vậy?
- Vì cháu muốn.
- Cháu thật rộng rãi, nhưng cô không thể. Ngược lại, khi tới Woodward, cô sẽ nhờ cháu một việc nhỏ cuối cùng.
* * *
Họ lại lên đường và Agatha nhắm mắt lơ mơ một lúc cho tới Enid.
- Một ngày kia cháu muốn có con chứ? bà vươn vai hỏi.
- Cháu có thể biết cô lấy câu hỏi đó từ đâu ra không? Milly vừa cười vừa đáp lại.
- Cháu có thể trả lời cô đơn giản là có hay không thôi.
- Cháu không biết.
- Khi cháu ngủ bên cạnh Frank, cháu có muốn có con với cậu ấy không?
- Cô không định lại bắt đầu đấy chứ?
- Cháu chưa trả lời cô.
- Cháu không trả lời cô gì hết, đó chỉ là vấn đề của cháu mà thôi.
- Còn cô, cháu biết không, nếu được tự do, cô sẽ không chần chừ một giây nào hết. Và nếu cuộc sống dành cho cô điều đó, cô rất muốn có con với người mình yêu.
- Nhưng cô chưa bao giờ chung sống với chú ấy, và như vậy những thứ đó chỉ là hão huyền mà thôi.
- Cháu có thể phản bác nếu cháu không đồng tình với những gì cô nói, nhưng là phụ nữ ai cũng biết điều đó, ngay cả khi cô ấy không muốn thú nhận.
- Người đàn ông cô yêu, cô chưa bao giờ gặp lại chú ấy ư?
- Có, tại phòng thăm thân lúc cô mới vào tù. Cô nhớ rõ từng lần chú ấy đến thăm, những thời khắc duy nhất mà cô cảm thấy được sống... và thời khắc cô muốn được chết. Một hôm, cô đề nghị chú ấy đừng bao giờ trở lại nữa.
-      Sao vậy?
- Sao vậy, sao vậy, sao vậy! cháu cũng làm cô thật bực mình với mấy cái câu sao vậy ngớ ngẩn đó. Cô là người phụ nữ tù tội, chú ấy là người đàn ông tự do, sẽ phải mất bao lâu để chú ấy nghiêng ngả vì một người phụ nữ khác? Cô muốn đi trước cái thời điểm chú ấy sẽ tới thú nhận điều đó với cô. Còn bây giờ, nói chuyện khác đi. Khi ta tới Woodward, cháu thả cô ở một quán cà phê rồi đi tới trường cấp hai. Cháu xin gặp Vera Nelson, cô ấy là giáo viên ở đó; cháu nói với cô ấy là cô muốn gặp và đưa cô ấy đến quán cà phê, hết sức chú ý để không bị bám theo. Và đừng đi theo con đường ngắn nhất, hãy vòng vòng qua một số khu nhà, dừng lại trên đường, kiểm tra xung quanh và luôn cảnh giác. Nếu cháu nhìn thấy cùng một chiếc xe hai lần, hãy đưa Vera trở lại trường và đừng quay lại chỗ cô.
- Thế còn cô?
- Cô sẽ tự xoay xở, nếu trong khoảng một giờ không thấy cháu, cô sẽ biến đi.
- Không, không, và không, không thể thế được! Chúng ta hẹn nhau ở một điểm nào đó, một nơi cháu có thể đón cô.
- Nếu phát hiện ra cháu, họ sẽ không để mất dấu vết của cháu nữa, lúc đó sẽ quá nguy hiểm, đừng tranh luận với cô.
* * *
Tom Bradley chạy quá tốc độ cho phép. Ở lối ra của Tulsa, một xe tuần tra khu vực xa lộ Patrol hú còi đuổi theo ông. Tom dừng xe và trình phù hiệu cảnh sát. Khi trở lại xe, viên cảnh sát báo cho đồng nghiệp qua đài để họ không dừng chiếc Ford đen đang chạy hết tốc lực, trên xe là một cảnh sát tư pháp liên bang đang làm nhiệm vụ.
Tới Woodward, Tom đỗ xe vào bãi của trường cấp hai rồi cầm tờ báo ra ngồi trên ghề băng, đối diện với cửa ra vào của tòa nhà chính.
* * *
Milly dừng xe tại quán Wind Café rồi quay sang phía Agatha, vẻ bối rối.
- Đừng làm vẻ mặt như thế chứ, mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Khi cháu đứa cô Vera tới đây, cô sẽ đề nghị cháu để bọn cô ngồi với nhau một lúc. Đừng trách cô, nhưng những gì cô muốn trao đổi với cô ấy hoàn toàn là chuyện cá nhân.
- Cho dù có chuyện gì, cô cứ đợi cháu trong quán cà phê này, Milly năn nỉ. Nếu bị theo đuôi, cháu sẽ biết cách cắt đuôi, ngay cả nếu có phải mất trọn một ngày. Cháu lái xe rất ổn. Hãy hứa với cháu cô không rời quán cà phê này đi.
- Hãy ôm lấy cô thay vì nói năng lung tung và chào tạm biệt cô đi, nhỡ may... mà không, như thế có thể sẽ mang vận đen đến chúng ta. Nào, cháu đi đi, sắp trưa rồi và cô không muốn cháu lỡ giờ gặp cô Vera.
Agatha ra khỏi xe và ngồi vào chiếc bàn sau cửa kính quán cà phê.
Mười phút sau, Milly đỗ xe vào bãi của trường cấp hai rồi đi vào tòa nhà chính. Cô tới phòng thư ký và hỏi phòng học nơi Vera Nelson đang dạy.
Nhân viên lễ tân, sau khi soi kỹ Milly, chẳng thèm hỏi liệu cô có phải là phụ huynh của học sinh hay không. Vì lý do an toàn, người lạ bị cấm ra vào khu dạy học. Milly chỉ có thể ngồi chờ cô Nelson tại sảnh.
- Lớp học sẽ kết thúc lúc mấy giờ? Milly hỏi.
- Ba mươi phút nữa, nhân viên lẽ tân đáp lời. Cô Nelson thường ra muộn, chị cứ bình tĩnh ngồi chờ.
- Chị có thể báo với cô ấy có việc khẩn được không?
- Việc khẩn gì vậy thưa chị?
Milly đã quá quen với đội ngũ nhân viên hành chính trường học để hiểu rằng người đối diện cô có đủ mọi phẩm chất của một người gác cổng hắc xì dầu và cô khó có thể hình dung ra câu trả lời đủ sức thuyết phục cô ta.
Quá sốt ruột, Milly không rời mắt khỏi kim đồng hồ, cô nhấp nhổm không yên.
Cuối cùng, khi chuông reo, đám học sinh từ các phòng học ào ra đẩy cả sảnh. Milly cố gắng tìm ra trong những khuôn mặt người lớn một người phù hợp với miêu tả của Agatha về Vera Nelson. Liếc nhanh về phía đồng hồ để hiểu rằng cô chỉ còn hai mươi lăm phút để trở lại với người bạn đồng hành và đưa bà đến chặng cuối. Milly cảm thấy mồ hôi đẫm trán và lòng bàn tay khi đột nhiên cô phát hiện ra ánh mắt của nhân viên lễ tân di chuyển về phía một người phụ nữ đang bước lại phía cô ta. Milly lao nhanh tới gặp bà.
- Bà Vera Nelson phải không ạ?
- Xin chào. Tôi còn rất ít thời gian, nếu chị muốn nói về con mình, mong chị liên hệ với thư ký để đặt hẹn. chị là phụ huynh của cháu nào?
- Xin bà hãy đi theo tôi!
- Chị là ai? Vera hỏi.
- Cô Agatha chờ bà ở quán Wind Café.
- Tôi không biết Agatha nào cả, nếu đó là trò đùa của học sinh, hãy nói với bạn bè cô là không chơi trò đó với tôi được đâu. Bây giờ, hãy để tôi yên.
Vera cao giọng và từ phòng thư ký, người gác cổng hắc xì dầu không bỏ lỡ một giây phút nào.
Milly nghĩ nhanh đến những khả năng có thể đưa ra. Không thể ép Vera theo cô bằng bạo lực... Dỗ dành thuyết phục sẽ mất nhiều thòi gian mà cô thì chẳng còn thời gian... Cô tìm giải pháp phù hợp, khi một hồi ức đột ngột hiện về trong đâu.
- Một chị em gái Soledad cần bà, việc khẩn đấy!
- Cô nói gì thế? Vera nghẹn giọng hỏi.
- Khẩn trương lên, tôi sẽ giải thích với bà trên đường. Vera đi theo Milly ra bãi đỗ xe. Nhìn thấy chiếc Oldsmobile, bà như ngược trở về ba thập kỷ trước.
- Chúa ơi, chiếc xe!
- Bà làm ơn lên xe đi, thời gian đang tính bằng phút đấy. Milly quá lo lắng. Tay cô run rẩy và cô như nghe thấy giọng Agatha thì thầm rằng mọi việc sẽ ổn thỏa. Cô bất thần khởi động xe thật nhanh mà không hể nhìn gương chiếu hậu.
- Mấy giờ rồi? cô hỏi Vera.
- Có chuyện gì khẩn cấp thế? Và nếu cô muốn đến Wind Café thì phải đi bên trái.
- Tôi biết.
- Vậy sao lại rẽ phải, nếu chúng ta đều đang vội?
Milly không đáp lời, cố gắng tuần thủ những gì Agatha đã dặn. Ở ngã tư sau đó, cô quay xe, nhìn nhanh về phía sau và đi theo hướng quán cà phê.
Khi tới nơi, hai hàm răng Milly nghiến chặt. Agatha không còn ở đó.
- Cháu làm được rồi, cô không có quyền bỏ đi như thế! Milly chực khóc kêu lên.
Người đồng hành nhìn cô khó hiểu. Milly lao vào bên trong. Vera chạy theo và không tin vào mắt mình khi thấy Agatha đang ngồi trong quán.
Milly quan sát họ rồi bỏ ra ngoài.
Cô đánh chiếc Oldsmobile vừa đậu hàng đôi vào chỗ để xe; và khi lùi xe vào chỗ đỗ, cô không hể để ý đến chiếc Ford đen vừa vượt qua trước mặt để đỗ xa hơn một chút.
* * *
- Hanna, là chị đấy ư? Vera thì thầm và ngồi vào bàn.
- Tôi già đi nhiều phải không?
- Không, Vera nói, giữa đám đông, tôi vẫn nhận ra chị, tôi quá ngạc nhiên khi thấy chị ở đây, tôi tưởng chị đang trong tù.
- Tôi ra rồi, nhưng chẳng biết được bao lâu?
- Chị đang được tại ngoại à? Vera hỏi.
- Không, tôi vượt ngục, có phiền chị không?
- Không, nhưng nếu vậy, chị không nghĩ có những nơi kín đáo hơn quán cà phê này ư?
- Không nơi nào kín đáo hơn một nơi công cộng, cứ nhớ lại thời chúng ta trốn chui trốn lủi mà xem.
- Tôi nhớ hơn cả là cái cách một số người trong chúng ta bị dính bẫy.
- Tôi sẽ đi thẳng vào việc, tôi không còn có thể lâu la được nữa. Đừng giận tôi, tôi vui vì được gặp lại chị, nhưng...
- Tôi cũng vậy, Vera ngắt lời, hơn chị có thể hình dung nhiều. Nếu chị có thể hình dung những kỷ niệm sống lại trong tôi khi thấy chị, thật không thể tin được khi thấy chị ở đây bằng xương bằng thịt. Tôi có biết bao điều muốn kể cho chị và bao câu hỏi dành cho chị.
- Để sau đi, nếu chị muốn, chị có từng gặp lại chị gái tôi không?
- Chúa ơi, Hanna, không ai kể với chị chuyện đã xảy ra ư? Vera trả lời, gương mặt buồn bã.
- Rằng chị ấy đã chết ư? Có, tôi có biết, đám quản ngục chẳng bao giờ tiết kiệm với tin buồn. Nhưng thực ra đó lại là một tin vui.
- Khi chị gái chị qua đời trong một tai nạn ư?
-  Không phải điều đó, mong chị ấy yên nghỉ, mà là việc cuối cùng tôi có thể được tự do. Ngày chị ấy qua đời, tôi bắt đầu năm thứ hai mươi lăm trong tù và bắt đầu thấy thời gian quá dài.
- Tôi không thể hiểu nổi những gì chị đang nói, vì sao sự ra đi của chị gái chị có thể giải thoát chị khỏi nhà tù?
- Hãy trả lời câu hỏi của tôi trước, chị có gặp lại chị ấy không?
- Có, cách đây chừng hai mươi năm, tôi có việc qua Santa Fe và tôi có tới chào chị ấy. Tôi không được đón chào, chúng tôi chuyện trò vài điều nhạt nhẽo và tôi nhanh chóng hiểu ra thái độ của chị ấy, rằng chị ấy không muốn tôi ở lại đó, và đặc biệt không muốn đánh thức quá khứ. Vì sao chị hỏi vậy, Hanna?
Agatha quan sát Vera, khuôn mặt bà không thay đổi, vẫn thái độ thành thật, vẻ tự nhiên không thể nhẩm lẫn. vẻ ngạc nhiên khiến ta không còn bất kỳ nghi ngờ nào về độ thành thật của bà, Agatha hiểu ra rằng mình đã nhầm hướng.
- Xin lỗi vì đã làm phiền chị vô ích, hãy trở lại với học sinh của chị, tôi phải đi đây.
- Không, không thể thế được, Vera nhẹ nhàng phản đối. Tôi muốn chúng ta nói chuyện.
- Về chuyện gì?
- Chúng ta từng là bạn, tôi chưa bao giờ dừng nghĩ ngợi về chị và về mọi người khác.
- Vậy việc chị không tới thăm tôi...?
- Tôi quá hoảng sợ khi nghĩ sẽ phải thấy chị trong tù, tôi buộc tội bản thần, và rồi tôi lo sợ nữa. Việc họ giam giữ chị mới thật bất công làm sao trong khi chị luôn chiến đấu chống lại bạo lực. Vì sao chị không muốn mở cuộc điều tra? Tôi sẽ tới làm nhân chứng chứng minh chị không thể phạm những tội lõi mà họ quàng vào chị.
- Tôi không từ chối xử án.
- Tôi không hiểu.
- Tôi chọn giải pháp cứu chị gái. Chị ấy mới là người tham gia vụ việc. Tên chị ấy nằm trong danh sách cảnh sát liên bang truy lùng gắt gao. Kiểm sát viên phụ trách vụ việc để lộ ra rằng ông ta chấp nhận thỏa thuận với những người ra đầu thú. Công lý của chúng ta hoạt động như vậy đấy, một thỏa thuận nhỏ thay vì một vụ xử lớn. Vào thời điểm đó, tội ác duy nhất là: phá hoại tài sản công. Năm năm, trong khi chị ấy có thể bị thêm ba mươi năm nếu có xử án. Chị ấy đã chấp nhận. Bản án đã được tuyên và chị ấy sẽ bắt đầu ngồi tù vào ngày đầu tiên của tháng sau đó. Vào lúc đó chị ấy thú nhận với tôi đang mang bầu. Làm sao có thể để chị ấy sinh con trong tù? Và họ sẽ làm gì với em bé của chị ấy? Tôi sống chui lủi, mẹ không nói chuyện với chúng tôi nữa, chúng tôi chỉ còn hai chị em với nhau, chị gái là người thân thiết duy nhất lúc đó với tôi, là tất cả với tôi và tôi đề nghị nhận bản án thay chị. Vì chị ấy và đứa con của chị. Chúng tôi làm giả giấy tờ, tôi trở thành Agatha và chị thành Hanna. Tôi cảm phục chị ấy đến nỗi cảm giác được đóng vai chị khiến tôi mê mẩn. Cuối cùng tôi sẽ là cô chị cả, người dũng cảm nhất trong hai chị em, thừa kế sức chiến đấu của chị, đột ngột trở thành người như chị từng là, nhân vật mà tôi không bao giờ đủ sức với tới. Tôi không sợ. Vào vai Agatha, tôi thừa kế lòng dũng cảm của chị, giành lấy sự tự tin ở chị, lòng quả cảm và sức mạnh của chị. Món thừa kế mới tuyệt làm sao, phải không! Khi người ta xây dựng lại trụ sở cảnh sát nơi Agatha và các bạn chị phá hủy, họ đã tìm thấy một cái xác dưới đống đổ nát. Khi ký thỏa thuận với kiểm sát viên, chị cũng ký nhận lời thú tội, và như vậy, tội của chị trở thành tội của tôi. Tội ác đã thay đổi bản chất, và bản án tôi nhận bị nặng hơn rất nhiều, ba mươi năm thêm vào năm năm như ban đầu. Tôi đá cầu xin chị nói ra sự thật, trả lại cho tôi cuộc sống. Nhưng trong thời gian đó, chị đã trở thành mẹ. Chỉ nghĩ đến việc phải xa con mình, không thể chứng kiến con khôn lớn, không thể ôm con trong vòng tay, chị mất hết mọi dũng cảm. Người mẹ nào hy sinh đứa con mình mang nặng đẻ đau để cứu lấy em gái? Chị cắt đứt mọi quan hệ. Tôi đã hy sinh để một người mẹ và con gái mình không bị chia cắt và tôi ở lại sau chấn song nhà tù.
Vera đặt tay lên tay bạn mình, cụp mắt nhìn xuống, không thể nói nên lời. Và Agatha kể cho bà câu chuyện về cuốn sổ vốn là niềm hy vọng duy nhất tìm lại được tự do của mình.
- Và chị nghĩ tôi giữ cuốn sổ đó? Vera nức nở.
- Tôi đã từng hy vọng như thế, nó sẽ minh oan cho tôi.
- Hanna...
- Agatha! Tôi mang cái tên này đã quá lâu nên không thể quen với tên kia được nữa.
- Tại sao chị không viết thư cho kiểm sát viên? Vì ông ta đã kết án chị gái chị, chỉ cần đối mặt là mọi chuyện sẽ rõ ràng.
- Vì ông ta biết chuyện ngay từ đâu. Chị tôi đã nói cho ông ta biết chị mang bầu. Với hoàn cảnh đó, chị ấy hoàn toàn có thể làm đơn để được mãn hạn tù sớm hơn, không chắc chắn nhưng hoàn toàn có thể. Chỉ có điều vị kiểm sát viên trẻ tuổi kia muốn một tên tội phạm chịu bản án đến cùng. Khi đề cập tới sự vô tội và tương lai của một đứa bé không lý gì phải trả giá cho tội của mẹ mình, ông ta chấp nhận nhắm mắt làm ngơ trước vở kịch của chúng tôi. Giấy tờ giả mạo của chúng tôi được làm rất tốt, và ai có thể nghi ngờ rằng có ai đó lại sẵn sàng tự nguyện vào tù cơ chứ? chỉ có điều, tiết lộ vụ lừa dối này, nhất là sau khi có cái xác kia, sẽ ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp của ông ta. Một người đàn ông tầm thường có thể trở thành kẻ xấu thực sự khi tương lai của anh ta bị nguy hiểm. Hẳn ông ta đã lựa chọn đúng vì sau đó tôi được biết ông ta được thăng làm thẩm phán. Nói đúng ra, tôi thậm chí không rõ mình có đủ dũng cảm để chia cắt mẹ con chị ấy và khiến phần ít ỏi còn lại của gia đình tôi đau khổ hay không. Nếu ra tù, tôi có thể làm gì? Nuôi dạy một đứa trẻ không phải là con mình cho tới khi, vào tuổi thành niên, đứa bé sẽ hiểu ra người mẹ thực sự của nó đang ở sau chấn song sắt nhà tù, và nó không thể được ở bên mẹ trước ba mươi lăm tuổi và tôi phải gánh phần nào trách nhiệm trong đó? Một lựa chọn thật khó khăn, phải không?
- Nhưng mẹ kiếp, chị đâu có lỗi gì cơ chứ!
- Tôi cũng là một thành viên của nhóm.
- Còn đứa bé, giờ nó ra sao rỗi?
- Con bé chính là người đưa chị tới gặp tôi.
Vera mở mắt to đến nỗi Agatha thấy như con ngươi của bà sắp rơi ra.
- Con bé biết chứ?
- Không, nó chưa biết gì cả. Mẹ nó đã nuôi dạy nó thành một cô gái tuyệt vời, với tính cách rất khó chịu. Nhưng điều đó không khiến tôi thất vọng, quan trọng nhất là con bé có cá tính, đúng không?
- Chị không muốn nói sự thật với nó sao? Vera kinh ngạc kêu lên.
- Nói gì đây? Rằng tôi từng ra tự thú thay người chị đã phản bội tôi hai lần? Milly không có cha, tôi không thể lấy đi nốt mẹ con bé bằng cách làm xấu đi hình ảnh của chị ấy; dù đã chết, chị ấy phải luôn là người mẹ con bé vẫn từng yêu thương, đó là một điều thiêng liêng. Và mọi cố gắng chịu đựng của tôi sẽ không còn ý nghĩ gì nữa. Chỉ vì lý do đó mà tôi không muốn con bé biết sự thật, hoặc không biết toàn bộ sự thật.
- Vậy tại sao lại lôi nó vào vụ vượt ngục của chị?
- Bởi nhờ nghĩ về con bé mà tôi qua được những năm tháng trong tù. Con bé trở thành lẽ sống của tôi, hoặc lý do để tôi tồn tại. Bởi tôi yêu nó và càng ngày càng yêu quý nó hơn. Vậy nên tôi muốn được biết về nó, biết nó trở thành một người phụ nữ ra sao, nếu như mọi điều hy sinh là đáng. Tôi tin là sự thật nó xứng đáng và chị không thể biết điều đó có giá trị thế nào với tôi đầu. Tôi phải đi thôi, Vera. Tôi những muốn đặt cho chị thật nhiều câu hỏi, tìm hiểu cuộc sống của một người phụ nữ với nhiều đứa trẻ vây quanh...
- Một cuộc sống đầy niềm vui và hụt hẫng, những thời khắc huy hoàng và thất bại, Vera ngắt lời. Có những đứa trẻ chị yêu thương, và những đứa chị không thể chịu đựng nổi, hoàn toàn không phải vì chúng học giỏi hay dốt. Điều làm nên sự khác biệt, đó là bản thân mỗi đứa trẻ. Từ bàn làm việc trong lớp học, tôi có thể nhìn thấy tương lai của mỗi đứa. Đoán ra những đứa có thể làm nên điều gì đó trong cuộc sống và những đứa sẽ mãi mãi tầm thường, những đứa rộng rãi và những kẻ tham lam, những đứa tốt bụng và những kẻ độc ác, đứa làm điều thiện và kẻ sẽ làm điều ác, những trí tuệ cởi mở và những đầu óc hẹp hòi. Tôi dạy bọn chúng câu chuyện của chúng ta, những gì chúng ta đã làm, chúng lắng nghe, mồm há hốc, không thể tin được, mà không thể thú nhận với chúng mình đã từng tham gia câu chuyện đó. Vừa hài hước vừa thất vọng. Mỗi năm lại có ít nhất một học trò mang lại ý nghĩa cho nghề nghiệp của tôi, một học trò mà tôi biết khi chú ý tới nó, mang cho nó điều nó cần, tôi có thể giúp nó trở thành con người có giá trị. Tôi có cảm giác hữu ích và điều đó khiến tôi thấy hạnh phúc, vậy mà khi nhìn mình trong gương, tôi thấy mình vẫn vụng về như thuở nào, một cảm giác không bao giờ tôi dứt bỏ nổi.
- Hãy trở lại với bọn nhỏ, tôi không còn thời gian nữa. Tôi rất vui vì được gặp lại chị, Vera, và chị hoàn toàn không vụng về. Nếu tôi được tự do, rất hy vọng sẽ còn gặp lại chị.
- Chị sẽ tự do, tôi hy vọng điếu đó từ đáy lòng mình. Đi đi, tôi không muốn trở lại trường ngay lúc này, tôi muốn ở lại đây một chút, và để hóa đơn lại cho tôi, tôi sẽ trả, đó là niềm vinh dự và hân hạnh với tôi.
Agatha ôm lấy Vera và thì thầm vào tai bà:
- Hãy nói với bọn trẻ rằng chúng ta đã chiến đấu vì chúng, rằng chúng ta đã phạm phải những sai lầm khủng khiếp, nhưng luôn luôn hành động Vì một thế giới công bằng hơn.
- Cứ yên tâm, bạn thân mến, năm học nào tôi cũng sẽ nhắc lại điều đó.
* * *
Đây là lần đầu tiên ông lại nhìn thấy bà và tim ông đập dồn. Ông đặt một tay lên báng súng, tay kia trên nắm cửa, nhưng hai bàn tay ông run rẩy. Khi Agatha ra khỏi Wind Café ông thấy đôi chân mình bủn rủn, dường như toàn bộ cơ thể đang sụp xuống. Bà ấy kia, gần ông đến thế, tiến về phía vỉa hè đối diện rồi lên chiếc xe ông dõi theo đã một lúc. Bà ngồi vào ghế cạnh lái, còn ông ngồi đó, toàn thân bất động.
Chiếc Oldsmobile bất thần khởi động rồi lao về phía đại lộ Oklahoma.
* * *
- Có đáng để chuốc lấy nhiều hiểm nguy như vậy không cô?
- Bao giờ cháu mới thôi đặt ra những câu hỏi ngớ ngần như thế? Lần trước cháu cũng hỏi cô câu này. Có đáng để gặp lại Raoul hay không? cháu không thực sự hòa hợp với chú ấy, trong đời cháu đã từng gặp ai như chú ấy chưa? Cậu Frank của cháu có xứng tầm chú ấy không?
- Cô đang bực bội à?
- Cô đang giận dữ, giận điên lên nếu cháu muốn biết, và cô không hề muốn trút giận lên cháu, vậy nên hãy yên lặng cho tới khi cô bình tâm trở lại.
- Soledad nghĩa là gì? Milly hỏi.
Agatha thở dài.
- Soledad là trại cải tạo nơi giam giữ một người vô tội đã trở thành huyền thoại. Trong cái đất nước chết tiệt này, ở trường người ta dạy học sinh thứ gì nhỉ?
- Có thể là những điều mới mẻ hơn. Cô làm ơn tha thứ cho sự ngu dốt của cháu chứ? Milly tinh nghịch nói.
- George Jackson trải qua tuổi thơ trong khu ổ chuột của người da đen ở Chicago và Los Angeles. Như nhiều thanh niên sống trong nghèo khổ cùng cực, ông ấy gây xích mích với cảnh sát vì mấy tội vớ vẩn. Vào năm mười tám tuổi, ông ấy bị kết án đồng lõa trong một vụ trộm vì ngồi sau tay lái chiếc xe cùng người bạn hẳn đang tìm cách chạy trốn sau khi ăn trộm sáu mươi đô la trong một trạm xăng. Người ta khuyên ông nhận tội, và hứa bản án tối đa là một năm trong nhà tù tiểu bang. Ông ký nhận tội, nhưng thay vì lời hứa về bản án, người ta kết án ông ít nhất một năm tù và nhiều nhất là chung thân, rồi đưa thẳng ông vào trại giam.
- Vì sáu mươi đô la ư?
- Mà bản thân ông ấy không hề ăn trộm. Những bản án kiểu này là nỗi ô nhục thực sự, để tù nhân phải trông đợi vào lòng trắc ẩn của một tiểu ban nhóm họp mỗi năm và quyết định tương lai của anh ta tùy vào cách anh ta hành xử trong trại giam. Nhưng Jackson là người da đen, ngày hay đêm đều bị bắt nạt, làm nhục và tra tấn. Ông ấy từ chối khuất phục. Mỗi khi phản kháng, người ta nhốt ông vào ngục tối, với đẩy chất thải ô uế, không có lỗ thông hơi, nơi ông không được phép tắm rửa, phải vệ sinh cá nhân ngay tại ngục nơi ăn ngủ.
- Cô biết ông ấy không?
- Không, khi đó cô còn trẻ quá. Jackson nhanh chóng bị nhà chức trách liệt vào danh sách chiến binh chính trị, một con người phải đè bẹp. Trong năm 1970, khi ông ấy đã ngồi tù được mười năm, họ mở một cái sân mới trong tù, đám cai ngục bày trò thả vào sân mười tù nhân da trắng và bảy tù nhân da đen. Những tù nhân da đen được chọn đều nổi tiếng là những chiến binh và những tù nhân da trắng nổi tiếng là phân biệt chủng tộc đến cực đoan. Một tay súng thiện xạ rình sẵn trên chòi canh, với một khẩu súng trường có kính ngắm, chuyện gì phải đến đã đến, một cuộc hỗn chiến bùng nổ và tay cai ngục cứ thế bắn cho đến khi hết đạn. Ba người da đen ngục ngã dưới làn đạn, một người da trắng bị thương ở mạn sườn. Họ để mặc một người da đen bị thương nằm trong sân mất máu đến giọt cuối cùng, trong khi trại giam nằm ngay cạnh bệnh xá.
Phong trào phản kháng nổi lên trong nhà tù, và lần đầu tiên, người da đen, da trắng và người Mexico cùng nhịn ăn để phản đối. Ba ngày sau, một hội đồng đông đủ của tiểu bang kết luận quyển tự vệ của tay súng thiện xạ là hợp pháp. Cái ngày kết luận này được tuyên, một cai ngục của Soledad bị giết và Jackson, người mà chính quyền muốn xử tử, bị kết tội là thủ phạm giết người cùng với hai tù nhân khác, cả ba đều bị kết án tử. Ba người da đen bị một cai ngục bắn chết thì người cai ngục trắng án, trong khi một cai ngục bị giết thì ba người da đen sẽ phải ngồi ghế điện, cháu hình dung ra sự châm biếm của công lý chứ! Vụ án trở thành biểu tượng của một chính phủ phân biệt chủng tộc và ba tù nhân được đặt tên là “Anh em Soledad”.
- Họ bị xử tử ư?
- Không. Các ủy ban bảo vệ được thành lập trên khắp đất nước. Hai luật sư bảo vệ quyển lợi của họ thành công trong việc tẩy rửa sự ô uế của vị thẩm phán phân biệt chủng tộc muốn xử tử họ bằng mọi giá cũng như trong việc đưa vụ xử án tới San Francisco. Báo chí địa phương ở Soledad và trong vùng đều tuyên bố rằng họ có tội. Khắp nơi mọi người đều ủng hộ, những ủy ban bảo vệ ngày càng tập hợp được nhiều thành viên, những chiến binh mạnh mẽ nhất lên tiếng ủng hộ họ.
- Họ được trắng án chứ cô?
- Đừng có liên tục ngắt lời cô như vậy, để cô kể hết cầu chuyện đã! Jackson có một người em trai, cho dù không được chứng kiến em mình khôn lớn nhưng ông ấy yêu cậu em hơn mọi thứ trên đời và cậu em cũng vậy. Jonathan coi anh trai như một người anh hùng, bị giam giữ vì một lý do không thể bất công hơn. Trong một buổi xử án nơi họ xử ba tù nhân khác, Jonathan, cho dù chỉ là đứa trẻ, đi vào phòng xử. Chỉ một chút sau khi vụ xử án bắt đầu, cậu đứng dậy, rút đồ dưới áo khoác rồi ném về phía các tù nhân mấy khẩu súng lục cậu giấu trong một túi giấy. Cậu hét lên: “Đủ rồi đấy, tôi là người quyết định, hãy giải phóng những người anh em Soledad!” Các tù nhân và cậu giữ con tin bỏ trốn trên một chiếc xe tải nhỏ mà cảnh sát không ngừng nã đạn vào. Hai tù nhân, một con tin và Jonathan bị bắn chết. Sau khi em trai bị bắn chết, Jackson thư từ qua lại với gia đình và một số người thân, kể lại cuộc sống hằng ngày và cuộc chiến của ông. Ngòi bút của ông là của một nhà văn lớn và những gì ông viết được xuất bản dưới dạng tuyển tập để tưởng nhớ người em trai. Tuyển tập nhận được những thành công nhất định, được dịch và xuất bản ở nước ngoài, khiến dư luận ngày một chú ý tới số phận của Jackson, đến sự bất công mà ông là nạn nhân, về những sự khủng khiếp trong nhà tù, về sự phân biệt chủng tộc của bộ máy tư pháp. Chính phủ quyết định dập tắt vụ việc, Jackson bị hạ sát một năm sau đó, trong một vụ lùm xùm người ta nói ông định vượt ngục ở nhà tù Saint Quentin nơi ông được chuyển tới. Họ giết ông nhưng không thể làm mọi người quên được ông và cuộc chiến của ông. Những người anh em Soledad trở thành một biểu tượng, đám đao phủ sẽ biến mất trong tầm thường.
Phải chăng là bản năng, hoặc trực giác, đột nhiên Agatha quay lại nhìn qua gương chiếu hậu.
- Từ từ tăng tốc, bà vừa nói vừa hạ tấm che nắng xuống.
- Chúng ta bị bám theo à?
- Cô có cảm giác như vậy.
Ra khỏi Woodward, những cánh đồng ngô trải dài ngút tâm mắt. Mấy điểm nhấn duy nhất là vài hẩm ủ tươi và điền trang bỏ hoang. Không có một chỗ rẽ, không một nơi có thể ẩn nấp và chiếc xe già Oldsmobile không thể cạnh tranh tốc độ với chiếc Ford mà Agatha đang quan sát trong gương gắn trên tấm che nắng.
Kim chỉ tốc độ xe đã vượt ngưỡng sáu mươi dặm, nhưng khoảng cách giữa hai xe cũng không xa hơn là mấy.
- Đừng đi nhanh hơn nữa, Agatha nói, nếu chiếc xe kia bám theo chúng ta, không nên để người lái hiểu được chúng ta đã biết mình bị bám theo.
Tuy nhiên, Milly vẫn tiếp tục nhấn ga và đồng hồ tốc độ vượt ngưỡng bảy mươi dặm.
- Cháu sẽ làm máy móc nổ tung mất! Agatha phản đối.
- Cô im lặng đi và cứ để cháu, cháu đã nói rồi, không ai có thể cạnh tranh với cháu sau vô lăng được.
Một đoàn tàu chở hàng đang từ xa tiến lại trên đường sắt chạy cắt ngang đồng bằng. Milly ước lượng thời gian gặp đoàn tàu, và nhìn nhanh vào gương chiếu hậu. Chiếc Ford đang lại gần hơn.
- Có thể là một tên chơi trò hút bụi?
- Chơi trò hút bụi cụ thể là gì vậy?
- Một kỹ thuật để chơi lại cảnh sát phục xe cộ qua lại với súng bắn tốc độ. Khi phát hiện ra một con mồi chạy quá tốc độ cho phép, chỉ cần bám đít nó như toa tàu nối đuôi nhau. Con mồi sẽ tự phạm lỗi, còn kẻ bám theo hoàn toàn vô tội.
- Nói đến tàu hỏa, cô thấy một chiếc chuẩn bị kéo còi báo hiệu, đi chậm lại và đừng làm trò ngớ ngẩn, chúng ta không đủ thời gian để vượt qua đâu.
Milly nghe lời và nhấc chân khỏi chân ga. Agatha quan sát chiếc Ford mỗi lúc một rõ hơn trong gương.
Người lái tàu và những toa tàu dài miên man kéo còi khi đến gần điểm giao cắt không có rào chắn. Đèn báo hiệu bắt đầu nhấp nháy, kèm theo tiếng chuông dài.
Milly khẽ quay về phía Agatha kêu lên:
- Nhắm mắt lại!
Cô dùng hết sức nhấn chân ga và động cơ xe Oldsmobile bung hết sức lực. Kim tốc độ chỉ đến vạch tận cùng.
Chiếc xe sát lại gần đường ray, nếu nó vượt qua với tốc độ này, cỗ máy sẽ nằm lại trên đường ray.
Chứng kiến làn mây bụi trước mặt, Tom hiểu ngay cái trò người ta đang chơi với ông. Ông tăng tốc, vượt qua chiếc Oldsmobile và lao sang phía bên kia đường ray. Nhưng khi chỉ cách đường ray một gang tấc, Milly đạp mạnh chân phanh, quay mạnh vô lăng rồi đạp mạnh chân ga, để xe đi ngang theo trục đường song song với đường ray xe lửa.
Trong lúc đoàn xe lửa lao hết tốc lực chia cắt cô với chiếc Ford kể từ giây phút này, cô dừng lại để chuyển số lùi, lùi tới đường rồi lao hết tốc lực về phía Woodward.
- Cháu quá giỏi! Agatha thở phào.
Nhưng Milly chẳng có thời gian để tận hưởng lời khen ngợi, ánh mắt cô lướt từ kính chắn gió tới gương chiếu hậu; chừng nào đoàn tàu còn chạy ngang, họ còn giấu mình được.
Tới đoạn giao cắt đầu tiên, cô ngoặt sang hướng Nam, rồi về hướng Tây ở đoạn giao tiếp theo, vượt qua một chiếc xe tải lớn rồi lao về phía những ngọn đồi.
- Cháu nghĩ chúng ta đã thoát, cô nói.
- Còn cô nghi rằng cháu thật điên rồ. Nhưng đây không phải lời trách móc, hoàn toàn ngược lại.
* * *
Tom giận điên lên khi phải bất lực chứng kiến những toa tàu cứ tiếp nối miên man. Những chuyến tàu hàng đi dọc đất nước nhiều khi có tới hơn sáu mươi toa và đoàn tàu trước mặt ông dường như không có toa cuối. Khi toa máy ở đuôi tàu đã xa, con đường trước mặt ông hoàn toàn hoang vắng. Ông trở lại phía bên này đường ray, đậu xe bên vệ đường để mở bản đồ ra xem. Ông đã bỏ lỡ cuộc gặp với Vera, nhưng nghĩ rằng ông đoán được nơi Agatha sẽ đến lúc này. Và lần này, sẽ không còn chút ngập ngừng; ông có một nhiệm vụ phải hoàn thành, nhiệm vụ cuối cùng trong sự nghiệp và ông quyết tâm hoàn thành nó. Ông quay đầu xe và đi theo hướng Tây.
* * *
- Ai dạy cháu lái xe như vậy?
- Mẹ cháu, Milly trả lời, và cả nơi cháu lớn lên nữa. Vả lại ta đang đến gần nơi đó. Từ khi mẹ mất, cháu còn chưa trở lại Santa Fe.
- Cháu muốn chúng ta qua đó chứ?
- Sau những gì ta vừa trải qua, cháu không nghĩ đi vòng vèo lúc này là một ý hay.
- Trên đường ta phải đi mà, vả lại ta cũng cắt được đuôi rồi.
- Không, cháu thấy kỳ lạ khi dừng chân ở đó.
- Đôi khi, điều ta cảm thấy kỳ lạ lại có điểm tốt, cô thì nghĩ rằng chúng ta nên tới chào bà ấy.
- Ai cơ?
- Mẹ cháu. Cô nghĩ mẹ cháu được chôn ở đó phải không?
- Không bao giờ!
- Hãy nghe cô một chút, ngay cả khi chuyện này chả liên quan gì tới cô. Có những điều không nên làm trong cuộc đời. Gia đình là thiêng liêng, nếu mẹ cháu nhìn thấy cháu từ trên cao, bà ấy sẽ rất buồn khi con gái đi ngang gần mẹ đến vậy mà không tới thăm mộ mẹ. Lúc nãy, ở nơi giao cắt với đoàn tàu, rất có thể chính mẹ cháu đã nâng đỡ chúng ta.
- Cô tin vào những chuyện đó ư?
- Cháu vừa nói chính mẹ dạy cháu lái xe phải không? Chúng ta ở đây lúc này là nhờ vào bà đúng không? Và, cô muốn thổ lộ với cháu một điều, cô muốn được nhìn thấy nơi cháu đã lớn lên.
- Vì sao?
- Cháu và những câu hỏi vì sao của cháu! Vì điều đó làm cô vui, để giải thích dài dòng với người ngồi ngay bên cạnh cô.
Milly mỉm cười.
- Có một quán ăn nhỏ gần nhà cháu mà mẹ thỉnh thoảng đưa cháu tới ăn tối. Rất giản dị, nhưng ở đó có món tacos ngon nhất thế giới, cháu nghĩ sẽ rất vui nếu ta có thể qua đó ăn một bữa.
- Vậy đi ăn tacos thôi! Nhưng sau đó, cho cô thăm nhà cháu nhé.
- Cháu không biết có đủ dũng cảm hay không, mọi thứ chắc phủ đầy bụi, và cháu lại không có chìa khóa nữa. cháu đâu có dự định đi xa thế này, nếu cô hiểu cháu muốn nói gì.
- Đừng nói là cô bé nghịch ngợm chẳng khác gì con trai như cháu chưa bao giờ trèo tường. Nếu cháu biết trèo tường ra khỏi nhà mà không ai biết, thì cháu hoàn toàn có thể trèo tường từ ngoài vào nhà. Sau đó chúng ta sẽ đến thăm mộ mẹ cháu.
Milly, quá chán chường, rẽ theo hướng Santa Fe ở đoạn giao cắt sau đó.
* * *
Trên một con đường song song nhưng về phía Nam, Tom Bradley đi vào bang Texas rồi theo hướng Tây. Cái đói và cái khát bắt đầu hiện hữu nhưng ông không để mất thời gian, ngay cả khi kim xăng báo hiệu cần dừng xe khẩn cấp. Ông lại nghĩ tới những giây phút mất bình tĩnh ở Woodward và không thể tha thứ cho bản thân. Nếu như có một điều ông học được trong suốt sự nghiệp thì đó là cuộc sống ít khi tặng cho một cảnh sát tư pháp liên bang cơ hội thứ hai nếu đã để vuột mất con mồi.
Ông đi ngang một làng quê bỏ hoang; rất có thể từng bị một trận cuồng phong tàn phá; hoang tàn và chết chóc, những trận cuồng phong thường xuyên xuất hiện vào mùa hè tại đồng bằng bụi bặm. Những ngôi nhà chỉ còn là mấy thanh gỗ chồng chất dọc đường đi. Tom tự hỏi số phận những con người từng sống nơi đây ra sao. Ông thấy những dấu vết đổ nát của một trường học, xa hơn nữa, một nhà hàng nơi những gia đình quanh đây chắc hay đến ăn tối, một tấm biển gãy làm đôi là những gì còn lại của một tiệm bowling cũ, và giữa quang cảnh ma mị, một quả chuông nhà thờ đổ vật dưới đất chứng minh cơn bạo tàn đã tràn qua nơi đây, như thể sự trừng phạt của Chúa trời. Tom rùng mình và tăng tốc, lo lắng không hiểu còn đủ xăng cho tới trạm xăng tiếp theo hay không. Để cho an toàn, ông đi chậm lại.
Khu làng sau đó cũng không có gì vui vẻ hơn, chắc có chưa đầy một trăm linh hồn trú ngụ ở Fargo. Không có một cửa hàng, cửa hiệu nào ở con phố chính, chỉ có vài chiếc xe bán tải đỗ chéo minh chứng nơi đây còn chưa bị bỏ hoang hoàn toàn. Nơi này nơi kia, những căn nhà đúc sẵn, đặt trên hệ thống móng tạm bợ, nhắc nhớ sự nghèo nàn của vùng thôn quê khô cằn này. Đèn hiệu đỏ nhấp nháy trên bảng táp lô và Tom chỉ còn một mối lo duy nhất, tìm một trạm xăng trên đường.
* * *
- Chúng ta sẽ chẳng thể nào đến được Santa Fe trước khi đêm xuống, Milly thở dài.
- Thế thì sao, xe của cháu có đèn pha mà!
- Tại sao lại là San Francisco?
- Hình như cô đã nói với cháu là có bạn bè chờ cô ở đó mà.
- Cô sẽ ở đó vài giờ với họ, và sau đó thì sao?
- Sau đó, là đại dương.
- Cô muốn trốn bằng đường biển?
- Cô không chạy trốn, ít nhất là không phải như cháu nghĩ, nếu không cô đã chấp nhận để cháu chở qua biên giới. Cô chỉ muốn được nhìn thấy vịnh Cổng Vàng, say sưa với tầm nhìn ngút tận chân trời, và khi đã tới đó, cô sẽ biết phải ẩn trốn ở đâu và sống những ngày thanh bình.
- Cô thật sự có bạn ở đó à?
- Cô hy vọng như vậy, nhưng không chắc chắn.
- Vậy thì tới đó làm gì?
- Với cô, đó là điểm tận cùng của con đường. Và dù gì cũng khó có thể đi xa hơn. Còn cháu, sẽ phải đi ngược trở lại và cô không thể đi cùng cháu được nữa. cháu hứa sẽ đi cẩn thận chứ?
- Cháu không nghĩ có thể không cẩn thận như từ lúc chúng ta ra đi cùng nhau.
Agatha nhìn cảnh vật xung quanh.
- Chúng ta sẽ không gặp lại nhau nữa ư? Milly hỏi.
- Đừng nghĩ đến điều đó. Có thể một ngày kia cháu sẽ tới thăm cô.
- Cháu sẽ thăm cô ở đâu?
- Sau này cô sẽ viết thư cho cháu.
- Cháu có thể trả lời cô theo địa chỉ nào?
- Trong thư cô sẽ viết cho cháu địa chỉ hộp thư, và nếu cháu thực sự sẽ tới thăm cô, chúng ta sẽ chọn một địa điểm mà chỉ có chúng ta biết, bí mật của chúng ta.
- Cháu thích thế, Milly nói.
- Cháu sẽ làm gì khi về nhà?
- Cố gắng giữ công việc của mình, gặp lại Frank, xin lỗi anh ấy.
- Vì sao phải xin lỗi?
- Cháu không biết, Milly nhún vai thở dài.
- Cô phải thú nhận với cháu một điều. Khẩu súng lục cô dùng để dọa cháu vào cái tối chúng ta gặp nhau, nó chỉ gây ra mấy cái lỗ rất nhỏ, và chỉ có một viên đạn duy nhất. Nếu nhằm trúng và may mắn nhất thì cô cũng chỉ có thể làm tung nắp hộp đựng găng của cháu mà thôi.
- Cháu biết, cháu cũng nhận ra điều đó. Thỉnh thoảng mẹ có đưa cháu đến trường bẳn và cháu cũng biết một chút về súng để hiểu rằng súng của cô chỉ là hạng ruồi. Cháu cũng vậy, cháu đã nói dối cô; cuộc sống thường ngày của cháu chẳng có gì là dễ chịu, cháu buồn chán muốn chết luôn và cháu đã nắm lấy cơ hội của mình.
- Cô có thể nói với cháu một bí mật nữa được không? Agatha hỏi.
- Vâng, tất nhiên.
- Cháu nói dối rất tồi!
- Cô cũng vậy!
* * *
Tom Bradley tới Santa Fe khi màn đêm buông xuống. Ông tìm một khách sạn để ngủ qua đêm, nhận phòng rồi nằm dài ra giường, gối đầu lên tay, nghĩ đến những gì sẽ làm ngày mai. Mỏi nhừ vì một ngày lái xe liên tục, ông đứng dậy đi tắm và nhìn chiếc điện thoại đặt trên bàn đầu giường. Ông ngập ngừng và cuối cùng cũng bấm số của thẩm phán Clayton.
- Anh đang ở đầu thế? Clayton hỏi.
Tom không đáp lời mà hỏi ngược lại.
- Ông có tin gì mới không?
- Giám đốc trại giam đã bị suy sụp, Clayton nói, ông ấy vừa gọi cho tôi báo sẽ liên lạc với cảnh sát liên bang sáng sớm mai để thông báo về vụ vượt ngục.
- Thật đáng tiếc cho sự nghiệp của ông ấy, Tom thở dài.
- Vì sao, anh tóm được cô ta rồi ư?
- Chưa, nhưng chẳng bao lâu nữa.
- Anh tìm ra chỗ của cô ta chưa?
Tom cười khẩy trong máy.
- Tôi nói điều gì hài hước ư? thẩm phán khó chịu kêu lên.
- Điều hài hước ở đây chính là nghe ông sử dụng ngôn từ của đám bất lương. Tôi nghi đã đoán được nơi cô ấy sẽ tới ngày mai và nếu tôi không nhầm, tôi sẽ chờ cô ấy ở đó.
- Cho tôi biết địa điểm, cử thêm tiếp viện sẽ không là quá đâu.
- Cô ấy đang lẩn trốn, và có vũ khí, cảnh sát liên bang sẽ không cho cô ấy cơ hội nào đâu và tôi muốn tránh điều đó, nhưng lẽ nào ông muốn vụ bắt bớ cô ấy kết thúc tồi tệ?
- Làm sao anh có thể nghĩ thế được chứ? Clayton vặc lại.
- Vì tôi biết ông.
- Đừng chơi trò công lý đơn độc, Tom, tôi là người đầu tiên muốn mọi chuyện ổn thỏa, theo cách kín đáo nhất có thể.
- Vậy hãy giữ lũ chó săn thêm hai mươi tư giờ nữa.
- Tôi sẽ làm hết sức mình, nhưng tôi không thể hứa hẹn gì với anh. Anh muốn tôi nói gì với họ?
- Hãy để trí tưởng tượng của ông hoạt động.
- Tôi là người giao cho anh nhiệm vụ này, hy vọng anh còn nhớ. Nếu không muốn một cái kết an bình, tôi đã không gọi anh, thái độ của anh quá xấc xược đấy. Vì sao không bắt cô ta ngay tối nay, nếu anh biết nơi cô ta đang ẩn náu?
- Vì tôi mệt rồi và tôi không thể xích cô ấy vào lò sưởi trong khi tôi ngủ. Tôi sẽ đi ăn tối, nghỉ ngơi và hoàn thành nhiệm vụ của mình đúng thời gian đã để ra. chúng ta đã có một thỏa thuận, nếu cả hai cùng tôn trọng nó, mọi chuyện sẽ tốt đẹp trong yên bình, như ông muốn.
- Tôi sẽ cố gắng hết sức và sẽ nhận lời xin lỗi của anh khi anh muốn.
Tom nghe tiếng cạch từ đầu dây bên kia, Clayton đã bỏ máy.
Tom nghĩ đến những gì đang chờ ông, ông tiếp tục suy nghĩ trong lúc tắm và cứ như vậy cho tới khi vào quán bar một giờ sau đó. Ông uống một ly Scotch, rồi một ly khác giúp ông thấy ổn hơn rồi đi lang thang khắp thành cổ.
Santa Fe là thành phố mang đầy lịch sử trong nó, khách du lịch tới đây chiêm ngưỡng những căn nhà gạch mái dốc, hít thở mùi hương của hoa và gỗ thơm. Hiên các nhà hàng luôn đông nghịt khách, người ta uống, hát ca và nhảy múa, buổi tối dường như là lẽ hội, và Tom, ngồi lẻ loi bên hiên nhà hàng nhìn cặp tình nhân trẻ đang chuyện trò trước mặt và nhớ tới một đêm hè ở Santa Fe ba mươi năm trước đây.
Ngày hôm sau của buổi tối đó, đẩy hứa hẹn, Tom lên đường với bạn bè, đi qua ba bang, vượt một dòng sông trên một chiếc phà, rồi lại qua ba biên giới nữa trước khi tới bờ Đông. Những hình ảnh cứ trôi qua trong đầu ông, những khuôn mặt và những kỷ niệm tuổi trẻ đã lầu ông không hồi tưởng lại.
- Ông muốn gì khác nữa không? cô phục vụ hỏi.
Tom ngẩng đầu nhìn, cô gái thật đẹp trong chiếc váy mousseline.
- Cô là người ở đây à? ông ngạc nhiên hỏi.
- Với giọng Brooklyn, tôi khó mà khẳng định điều đó, tôi không biết vì sao nhiều khách hàng nghĩ tôi là người Mexico, chắc vì mặt trời, ở vùng này mặt trời thật chói chang khiến cả làn da dân Ai len cũng phải rám nắng. Còn ông, ông từ đâu tói?
- Phía Bắc Wisconsin.
- Không phải ngay cạnh nơi này, khí hậu cũng khác nữa; điều gì đưa ống tới Santa Fe?
- Lội ngược trở lại quá khứ, tôi nghĩ vậy. Thế vì sao một
CÔ gái trẻ của Brooklyn lại có mặt nơi này?
- Quá chán mùa đông, và tôi đi theo bạn trai.
- Hai lý do thật chính đáng.
- Đặc biệt là lý do đầu tiên.
- Cô có nhớ Brooklyn không?
- Đôi khi, nhưng tôi chẳng có gì phải phàn nàn. Cuộc sống ở đây thật dễ chịu, một nửa dân số từng là dân Hippy, thực ra là hấu hết những người già, và họ thư thả hơn hội bạn tôi ở New York; thế giới ở đây hơi đảo ngược nhưng khá vui. Ông cũng từng là dân Hippy à? Có rất nhiều người trở lại nơi đây vì lý do đó.
Tom mỉm cười.
- Tôi có vẻ Hippy ư?
- Có và không, tôi không biết, đồng thời có điều gì đó mách bảo tôi rằng ông đã phiêu bạt rất nhiều. Ông làm nghề gì?
- Tôi là cảnh sát tư pháp liên bang
- Nghiêm túc chứ? cô phục vụ trả lời.
- Không, không nghiêm túc lắm, tôi trêu cô đấy.
- Được rồi, tôi thấy vài khách hàng đang sốt ruột vẫy tôi như thể tôi không nhìn thấy gì, tôi phải đi phục vụ họ. Ông không muốn gì nữa à?
Tom đưa cô gái tờ năm mươi đô la, cảm ơn cô vì bữa ăn và mẩu đối thoại.
Trên đường về khách sạn, Tom Bradley vẫn chưa biết sẽ làm gì vào ngày mai, điều duy nhất ông cảm thấy chắc chắn đó là dù kết cục có ra sao thì ngày hôm nay đã mang đến cho ông cảm giác được giải thoát.
* * *
Thẩm phán Clayton kết thúc cuộc trao đổi với đặc vụ Maloney, người cuối cùng cũng mang đến cho ông những tin tốt lành. Một thanh tra cảnh sát Philadelphia đã liên lạc với FBI sau khi nhận ra kẻ vượt ngục trên tờ thông báo gửi tới các trụ sở cảnh sát trên toàn quốc. Những hình ảnh camera ghi hình tại trạm xăng gần trường đại học cho thấy bà ta đã lên một chiếc xe Oldsmobile 1950 màu đỏ. Đặc vụ Maloney không hiểu vì sao những hình ảnh đó được ghi lại đã nhiều ngày trong khi vụ vượt ngục mới được thông báo sáng nay, và giám đốc trại giam sẽ phải có lời giải thích về việc này. Thẩm phán Clayton khẳng định ông là người đầu tiên ngạc nhiên với tin này. Nếu ai đó trong bộ máy của trại giam lơ là nhiệm vụ, ông sẽ cho điều tra ngay rồi áp dụng các hình phạt. Đặc vụ Maloney hoàn toàn nhất trí trước khi tiếp tục báo cáo.
Các phần mềm phân tích hình ảnh của phòng thí nghiệm liên bang đã tìm ra biển số chiếc xe, chủ nhân của nó cũng được nhận diện và điện thoại di động của cô ta được định vị tại vùng Tulsa. Chiếc xe di chuyển theo hướng Tây trước khi mất tín hiệu. Tại bang Texas và những đồng bằng hoang vắng rộng lớn nhiều khi không có sóng di động, nhưng ngay khi cô ta lại gần một khu dân cư, tín hiệu sẽ lại xuất hiện. Các văn phòng ở Dallas, Colorado Springs và Albuquerque đã nhận lệnh và đều sẵn sàng hành động.
Thẩm phán Clayton nhiệt thành cảm ơn Maloney rồi khen ngợi sự nhanh nhẹn và hiệu quả của FBI trong công tác tìm kiếm.
Sau khi bỏ máy, Clayton đi pha một cốc trà thảo dược, cầm tờ báo đang đọc dở và đi lên phòng ngủ.
* * *
- Cháu xin lỗi, Milly nói, nhưng tối nay, chúng ta không thể đi xa hơn Tucumcari. Đêm sắp sập xuống và trước khi tới Santa Fe, ta phải qua vùng núi Sangre de Cristo. Đường dốc và quanh co lắm, đêm xuống sẽ rất nhiều mây mù nữa. Cháu đã từng bị chết đứng trên cao, không thể nhìn thấy gì quá nắp ca pô. Ngay cả vào mùa xuân, trên đó cũng lạnh lẽo vô cùng, và nếu chúng ta mắc kẹt trên đó...
- Được rồi, chẳng cần phải nói có cả gấu và băng tuyết trên đó, cô bị thuyết phục rồi, nếu cháu mệt, ta dừng ở Tucumcari thôi.
- Cháu không mệt, nhưng buổi đêm đi đường đó rất nguy hiểm.
- Cô nghe thấy thế rồi mà, ta nghỉ ở Tucumcari đi. Có ai không mơ một lần đến đó trong đời cơ chứ? Hơn nữa, nếu trí nhớ cô còn tốt, có một nhà nghỉ huyền thoại ở đó, Blue Swallow.
- Cô từng đến Tucumcari rồi sao? Milly không tin vào tai mình bèn hỏi lại.
- Không, không may là chưa bao giờ! Nhưng trong cầm nang du lịch có ghi vậy, bà vừa nói vừa chỉ tay vào tờ gấp đang cầm, vào theo những gì cô đọc, nó huyền thoại là bởi vì chỉ có duy nhất nhà nghỉ đó ở đấy.
* * *
Bà chủ nhà nghỉ Blue Swallow tên là Poopsie Gallena, và Milly nghĩ ngay lập tức đến Jo, bởi cái tên như vậy không thể bịa ra được. Nhà nghỉ này là một trong những nhà nghỉ cuối cùng của đường 66.
Trong sảnh, một tủ kính nhỏ bày đồ linh tinh gợi nhớ thời kỳ hoàng kim của con đường rải nhựa đầu tiên nối liền đất nước từ Đông sang Tây chạy qua tám bang và ba múi giờ. Thời kỳ Chuck Berry dành cho nó những câu chữ thượng lưu bằng một bài hát đã qua và từ khi nó không còn giá trị, rất nhiều làng mạc mà con đường chạy qua cũng lịm tắt cùng nó.
Poopsie và chồng bà, Oncle Stinkwad - Milly không thể biết được vì sao ông ta có cái tên như vậy, đã rời khỏi Michigan và mua lại nhà nghỉ sau khi cả hai mất việc vào thời kỳ đại suy thoái 2008. Họ không phục vụ ăn tối ở Blue Swallow nhưng Poopsie gợi ý một nhà hàng Mexico cách đó hai dặm. Roy, chủ nhà hàng, rất hân hạnh được tới đón khách trên chiếc xe buýt mini Volkswagen đã rất rất cổ. Poopsie Gallena điện ngay tới nhà hàng đặt bàn cho họ.
Agatha và Milly chỉ kịp rửa ráy qua loa trong phòng, đơn giản nhưng sạch sẽ, trang hoàng bằng tất cả tình yêu mà ông bà chủ dành cho nhà nghỉ của mình.
Một tiếng còi cất lên và Milly là người đầu tiên có mặt. Oncle Stinkwad, tay đút túi quần, ngắm nghía xe của cô với đôi mắt thán phục của cậu bé ngày nào. Ánh đèn nê ông trên biển hiệu nhà nghỉ chiếu vào xe tạo ra những ánh xanh nước biển.
- Thời đó có nhiều xe như thế này lắm, như thể nó vẫn còn nguyên bản, vừa nói ông vừa vuốt ve nắp ca pô.
- Có thể ông không nghĩ mình nói chuẩn nhưng chiếc xe này của bà tôi và phần lớn cuộc đời nó chạy trên các con đường của Santa Fe. Hơn nữa, tôi chưa bao giờ thay biển số, nó vẫn nguyên bản như ngày nào.
Agatha xuất hiện ở cửa ra vào và nói với Milly rằng người lái xe đang chờ họ.
Milly chào Oncle Stinkwad rồi trèo lên chiếc xe buýt mini.
Roy, ngồi phía sau tay lái, với bộ râu trắng buông thõng như tóc che đi một nửa khuôn mặt tàn tạ. Agatha không lạ gì những thứ mà ông ta chắc đã dùng trong những năm 1960 và bà nhìn kỹ, tự hỏi không hiểu họ đã từng gặp nhau trong quá khứ hay chưa.
- Ông sống ở đây đã lâu chưa? bà nói trong lúc chiếc xe buýt mini lắc lư vì ổ gà trên đường.
- Tất cả phụ thuộc vào “đã lâu” của bà có nghĩa gì?
- Những năm 1970, Agatha trả lời, càng tò mò.
- Bà biết mọi người nói gì về những năm tháng đó không: nếu bạn còn nhớ đến nó, có nghĩa bạn không có mặt ở đó. Cha tôi là lính và mỗi khi ông bị điều động, chúng tôi lại chuyển nhà. Alaska, Florida, Kansas, Massachusetts và thậm chí là nước Đức, tất nhiên vào cái thời còn chưa có bức tường. Tôi còn giữ những kỷ niệm khá đặc biệt. Nhờ vào một tai nạn xe hơi mà chúng tôi có mặt ở đây; số phận đôi khi cũng có máu hài hước.
Chàng Roy trẻ tuổi và vợ rời khỏi Arizona sau khi một vụ hỏa hoạn thiêu trụi nhà cửa của họ. Họ tới sống ở Florida với bố của Roy, người cho họ ở nhờ và hỗ trợ tài chính cho họ. Khi đã tiết kiệm được kha khá tiền, họ quyết định rời đi và lại đi dọc đất nước, dù chẳng có một ý tưởng nào về nơi họ sẽ tới.
- Trong một lần dừng chân tại Vegas, chúng tôi kiếm được một khoản nhỏ ở sòng bạc, Roy thích thú tiếp tục. Chúng tôi lại lên đường một tuần sau đó. Khi vượt qua dãy núi Sangre de Cristo mà hai người có thể thấy đằng kia, khi đêm xuống chúng tôi phải đối mặt với làn sương mù dày đặc đến mức có thể dùng dao cắt lát được và xe của chúng tôi rơi xuống hố. Đừng lo, hoàn cảnh lúc đó thật đặc biệt, và nhà hàng không còn xa lắm. chúng tôi qua đêm trong chiếc xe bán tải đang nghiêng hẳn sang một bên, với nỗi sợ khủng khiếp khi nghĩ đến việc ra khỏi xe. chúng tôi hoàn toàn không biết dưới bánh xe là cái gì. Nếu tai nạn xảy ra cách đó một trăm bước chân, chúng tôi sẽ rơi xuống một cái hang sâu. Lúc sương mù tan đi cùng mặt trời, vợ tôi, khi khám phá ra cái kiếp nạn chúng tôi vừa thoát, đã nói: “Đủ rồi, chúng ta không đi xa hơn nữa!” Thế là chúng tôi hạ đồ đạc xuống khu làng đầu tiên bắt gặp. Tìm được một căn nhà nhỏ và việc làm, vào thời đó, việc làm không thiếu. Chúng tôi mở được nhà hàng này, vợ tôi nấu ăn rất giỏi và chúng tôi chẳng đi đâu nữa. Còn các vị, lần đầu tiên hai người tới đầy à?
- Vâng, Agatha và Milly đồng thanh đáp lời.
- Điều gì đưa hai người tới với Tucumcari?
- Như ông thôi, tình yêu với những chuyến đi, chúng tôi đi dọc đất nước, Milly đáp lại.
- Vậy hãy cẩn thận khi vượt qua đỉnh núi đằng kia nhé.
Chiếc bộ đàm gài ở thắt lưng ông ta kêu lên, Roy dùng một tay túm lấy nó rồi giảm âm lượng.
- Điện thoại di động không dùng được ở đây vì núi non chặn mất sóng, chúng tôi phải liên lạc theo kiểu cũ, ông nói và giỏng tai nghe. Anita sốt ruột vì có khách hàng cần chở đi.
Roy thả họ trước cửa nhà hàng Pow and Lizard Lounge và chúc họ ngon miệng.
* * *
Vào cuối bữa tối mà cả hai đều thấy ngon miệng, Agatha lo ngại khi nghĩ tới cuộc chuyện trò với Roy trên đường về.
- Cháu không thấy ông ta lắm lời ư? bà thì thầm trong lúc thanh toán.
- Cũng bình thường thôi mà.
- Cô hỏi ông ấy một cầu và ông ấy kể cả cuộc đời mình cho chúng ta.
- Điều làm cô khó chịu đó là cô hy vọng có biết ông ấy nhưng không phải, và cô thất vọng.
- Cháu mới làm cô khó chịu, Agatha càu nhàu, cháu nhanh nhạy quá đấy.
- Thỉnh thoảng cháu có cảm giác chúng ta khá giống nhau.
- Hai ta ư?
- Không, Roy và cháu, với bộ râu và mái bờm của chú ngựa già kiệt sức; tất nhiên là cháu nói về hai chúng ta rồi.
- Điều gì khiến cháu thấy vậy?
- Tính cách của cô.
- À, thế cô phải coi đó là một lời khen ngợi đúng không?
- Tùy cô thôi.
Roy đưa họ trở lại nhà nghỉ Blue Swallow. Poopsie Gallena và Oncle Stinkwad đã ngủ, và hai người phụ nữ vòng ra cửa sau để lên phòng.
Milly nằm dài ra giường, nghĩ ngợi. Cô muốn nói chuyện và ánh mắt hướng về chiếc điện thoại trên bàn đâu giường. Đã nửa đêm ở Philadelphia và cô không muốn đánh thức Frank. Cô chắc chắn Jo vẫn còn thức, anh thường ngủ rất muộn, nhưng cô có một cảm giác kỳ lạ khi bấm số của anh và bỏ máy sau hồi chuông đầu tiên.
Cô nghe tiếng bước chân của Agatha phía bên kia tường và tiếng vọng ầm ì của ti vi chắc bà vừa bật. Vậy là lấy hết dũng cảm, cô bước lại gõ cửa phòng Agatha.
- Ngoài Brad, cô đã bao giờ gắn bó với ai khác trong đời chưa? Milly vừa bước vào vừa hỏi.
- Cháu muốn nói ở trong tù ư? Agatha trả lời và ngẩng đầu khỏi cuốn sách đang đọc.
Milly cụp mắt, lo lắng vì đã đặt một câu hỏi không đúng lúc, đúng chỗ khi nghe thấy Agatha đặt lại câu hỏi.
- Cô đọc sách và xem ti vi cùng lúc ư?
- Thói quen cũ đấy. Buổi tối, tù nhân không được phép ở một mình trong phòng giam, vậy nên cô chẳng có lựa chọn nào khác là đọc sách trong phòng đám con gái ngày một ngớ ngẩn trước những chương trình truyền hình ngu ngốc; cô quen với cái thứ tiếng động ro ro đó và từ đó cô thích đọc sách trên nền âm thanh như vậy.
Agatha mời Milly ngồi ở mép giường. Bà đặt sách xuống bàn đầu giường và tựa lưng vào gối.
- Để trả lời cho câu hỏi đầu tiên của cháu, cô không quảng giao lắm, nhưng cô may mắn có một người bạn thực sự.
- Cô ấy vẫn trong tù?
- Không, cô ấy ra cách đây mười năm rồi và cô ấy đã làm lại cuộc đời ở Jamaica. Khi cô ấy được thả, cuộc chia tay thật vô cùng khó khăn. Cô rất mừng cho cô ấy nhưng lại quá đau khổ vì sẽ mất một người bạn. Bọn cô viết thư cho nhau rất nhiều.
- Cô ấy làm gì mà phải vào tù?
- Những điều chỉ liên quan đến cô ấy.
- Vì sao cô không tới sống gần cô ấy? Cô sẽ yên ổn ở Jamaica.
- Sẽ rất tuyệt, cô chỉ việc đội mũ lưỡi trai trên mái tóc kiểu Jamaica và sẽ chẳng còn ai nhận ra cô nữa... Cuộc sống đâu chỉ đơn giản như vậy, Milly, và cuộc sống của cô là ở đây.
- Cô thật cứng đầu cứng cổ, cô muốn chơi trò mèo đuổi chuột cho tới khi bị họ bắt lại?
- Tự do không phải một trò chơi, mà là một nhu cầu, phải bị tước đoạt mất tự do thì mới có thể hiểu được giá trị của nó. Nếu cháu muốn nói cho cô lý do khiến cháu mất ngủ.
- Cháu chịu, cháu cảm thấy cô độc và cháu muốn chuyện trò với ai đó.
- Có thể đã đến lúc cháu phải về Philadelphia rồi. Từ giờ cô có thể tự xoay xở, chúng ta không còn xa biển mấy nữa. Tới Santa Fe, hãy thả cô ở bến xe, cô sẽ đi xe buýt tới San Francisco.
- Cháu không muốn nói như vậy.
Agatha cầm tay Milly.
- Cô rất vui được quen cháu, và rất buồn khi phải tạm biệt cháu, nhưng con đường của chúng ta sắp chia hai ngả. Chúng ta không thể bên nhau mãi mãi. Cháu có công việc, bạn trai chờ cháu, và cuộc sống của cháu nữa.
Milly câm lặng.
- Thôi, Agatha thở dài, cái giường này đủ rộng cho cả hai chúng ta, lấy gối trong tủ rồi lên ngủ với cô; cô hy vọng cháu không ngáy chứ?
- Cháu cũng định hỏi cô như vậy, Milly vừa đáp lời vừa chui vào chăn.
Agatha tắt đèn.
- Khi cháu không ngủ được, cứ giả vờ nhé, Agatha thì thầm.
- Giả vờ gì cơ?
- Rằng mọi chuyện đều ổn cả, rằng cháu đang ở một nơi thật tuyệt: dưới một tán cây giữa đồng bằng, bên bờ một con sông hay đại dương, trong phòng của cháu lúc nhỏ, quan trọng là một nơi yên tĩnh. Sau đó, hãy hình dung một người bên cạnh mà cháu muốn, hoặc không ai cả nếu cháu muốn được một mình.
- Và sau đó? Milly hỏi, đã hình dung ra mình trên mái nhà.
- Tiếp đó, hãy lẩm nhẩm một giai điệu mà cháu thích, hoặc tập trung vào một tiếng động khiến cháu bình tâm, tiếng tí tách của gỗ cháy trong lò sưởi, tiếng sóng, tiếng hạt mưa rơi trên cửa sổ.
Nhưng Milly đang nghe thấy tiếng thì thầm của những bông tuyết đầu tiên rơi xuống bồn nước sau nhà.
- Khi họ tắt điện trong phòng giam, Agatha thì thầm, cô bay về phía Baker Beach, một bãi biển cát xám, không xa Golden Gate, cha cô luôn ở bên và hai cha con ngồi chuyện trò say sưa. Cha kể cho cô nghe ngày làm việc của ông ở xưởng, rồi hai cha con nói chuyện chính trị, về tương lai, về những gì cô sẽ làm khi mãn hạn tù. Ông gợi ý cho cô, cho lời khuyên để cô vượt qua mọi hoàn cảnh, và nghe giọng cha luôn khiến cô yên lòng. Một hôm, khi cô đánh nhau với một nữ tù nhân khác vì cô ta định ăn trộm miếng xà phòng của cô, cô bị đánh nhiều vào mặt và mạn sườn, cô đau đến nỗi không thể tìm được một tư thế nằm nào mà không đau. Tối đó, dù cố gắng nhắm mắt, cô không thể thấy lại được khuôn mặt của cha và cô cảm nhận những khoảnh khắc lo sợ nhất đời mình: quên lãng khuôn mặt của cha mình. Nỗi sợ lớn đến mức cuối cùng nó khiến cô quên cả cơn đau. Thế là ánh mắt của cha xuất hiện trong đêm tối, với tất cả tình thương yêu trong đó...
Và Agatha dừng lời khi nghe hơi thở đều đặn của Milly đã chìm vào giấc ngủ sâu.
Một Ý Niệm Khác Về Hạnh Phúc Một Ý Niệm Khác Về Hạnh Phúc - Marc Levy Một Ý Niệm Khác Về Hạnh Phúc