You practice mindfulness, on the one hand, to be calm and peaceful. On the other hand, as you practice mindfulness and live a life of peace, you inspire hope for a future of peace.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: William Colby
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: Lost Victory
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Ngoc Hai
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2424 / 52
Cập nhật: 2017-03-24 12:42:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4: Sai Lầm Tai Hại
Ở Nam Việt Nam cũng như ở Mỹ, người ta chỉ trích Diệm nhiều nhất là về vấn đề tôn giáo. Việt Nam chỉ có khoảng 10% người theo công giáo. Nhưng trong giáo dục, Nhà thờ đóng một vai trò trợ giúp quan trọng, lại thêm được chính quyền thực dân nâng đỡ, nên công giáo đã có ảnh hưởng lớn trong giới quan chức, địa chủ và tư sản và ảnh hưởng của nó hầu như có mặt ở khắp nơi trong đời sống xã hội. Điều đó phản ánh một khía cạnh của lịch sử Việt Nam. Hơn nữa, công giáo lại chiếm đại bộ phận trong số chín trăm nghìn dân di cư vào Nam năm 1954. Thực ra Diệm đã tổ chức họ lại thành các cộng đồng dân di cư và đưa nó vào các kế hoạch phát triển nông nghiệp miền núi - một bức tường thành vững chắc để chống cộng sản, mặt khác thì dù thế nào cũng phải bố trí cho họ ở vào một chỗ nào đấy. Ngược lại, chọn phó tổng thống và một số bộ trưởng, Diệm lại không chọn người công giáo (và đã có một thời kỳ, số thành viên không công giáo trong chính phủ còn chiếm đa số). Cho nên người ta không thể bảo rằng những người không công giáo đã bị Diệm gạt ra khỏi chính phủ.
Diệm đã bóp nghẹt những mưu đồ chính trị của các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, những giáo phái đã thực tế kiểm soát được nhiều vùng rộng lớn ở nông thôn. Ông chỉ cho phép họ hoạt động một cách thuần tuý tôn giáo và không được có quân đội riêng. Họ có thể hoàn toàn tự do hội họp các tín đồ và tiến hành các nghi lễ tôn giáo.
Về Phật giáo, họ chia làm hai phái: Một phái là Đại thừa, phái này xuất phát từ Ấn Độ, qua Himalaya rồi Tây Tạng và Trung Hoa, chịu vài ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa - và thậm chí cả đạo Lão và mang lại cho phái này một nghi lễ truyền thống và một cấu trúc có tổ chức chặt chẽ. Phái thứ hai là Tiểu thừa, triết lý có vẻ thuần khiết hơn, không có những thiết chế cầu kỳ phức tạp và phổ biến rộng rãi ở Myanma, Thái Lan và Campuchia. Trong cơn lốc của những năm 1950, cả hai phái - Tiểu thừa trong tấm cà sa vàng và Đại thừa trong tấm áo cà sa đỏ tía - đều không đóng một vai trò chính trị nào, một phần vì họ không có ham muốn và phần khác vì họ không được tổ chức cần thiết để làm việc đó.
Ngược lại, giới phật tử có quan hệ mật thiết với các khối đại chúng chưa bị ảnh hưởng nhiều bởi công cuộc hiện đại hoá của Diệm. Những nỗ lực của cộng sản nhằm lôi kéo tổ chức họ theo kiểu miền Bắc đương nhiên không tranh thủ được cảm tình của họ, nhưng họ cũng chẳng ưa thích gì sự mất ổn định do những thay đổi về lối sống truyền thống quen thuộc của họ nay bị những chương trình giáo dục, xã hội và theo trường phái truyền thống và tất nhiên cả những người Phật giáo, thì những chương trình ấy chủ yếu chịu ảnh hưởng ngoại lai của đạo Thiên Chúa của Diệm, ảnh hưởng của những quan hệ giữa Diệm và phương Tây (muốn nói người Mỹ) và về nhà nước thế tục mà ông ta có vẻ muốn thiết lập nên ở Nam Việt Nam.
Đúng vào lúc đó, cộng sản nổi lên hoạt động mạnh ở nông thôn, chương trình ấp chiến lược gây xáo trộn trong đời sống dân chúng, người Mỹ có mặt ngày càng đông ở Nam Việt Nam... tất cả những cái đó làm cho xã hội Việt Nam hỗn loạn và bùng nổ những căng thẳng. Chính trong bầu không khí ấy đã bùng lên tia lửa phản kháng của những người Phật giáo, và sự phản kháng này đã nhanh chóng phát triển thành một sự kiện có tầm cỡ quốc tế do chỗ Mỹ và Kennedy đã coi Việt Nam là mối quan tâm chính yếu của họ. Châm ngòi cho vụ nổ là vào tháng Năm năm 1963 ở Huế, thủ đô của trung phần Việt Nam. Cái thành trì này của chủ nghĩa truyền thống Việt Nam ẩn giấu những mưu đồ viễn vông của những tham vọng, những niềm tin trái ngược nhau cùng một lúc được hoá thân ở một trung tâm phật giáo với những lãnh tụ tôn giáo đầy quyền lực của họ, những di sản của nhiều vụ âm mưu và hiệp hội chính trị và ở người em của Diệm, Ngô Đình Cẩn, một người mà thái độ chính trị tỏ ra đặc biệt cứng nhắc.
Ngày 5 tháng Năm năm 1963, cố đô Huế rực rỡ cờ hoa để kỷ niệm ngày nhận chức giám mục của Thục, anh của Diệm và Cẩn. Đó là một ngày hội trọng thể đối với giáo dân Nam Việt Nam, một biểu hiện về việc Vaticăng thừa nhận tư cách quốc gia và tôn giáo của họ, tư cách mà trước đây do người Pháp đại diện. Giữa rừng cờ hoa ấy, người ta có thể trông thấy biểu tượng vàng và trắng của Vaticăng được tô điểm bởi chiếc huy hiệu của Giáo hoàng.
Ngày 8 tháng Năm lại là ngày Phật đản của giới phật tử. Nhưng các nhà chức trách ở Huế lại cấm phật tử treo lá cờ Phật ngũ sắc của họ và làm như vậy là chính quyền vừa áp dụng luật lệ chống biểu tình của Phật giáo trước đây của người Pháp, lại vừa thi hành những biện pháp của chính quyền Diệm để phòng ngừa những hoạt động chính trị của các giáo phái đã bị Diệm loại bỏ. Một đám đông phật tử đã biểu tình để phản đối việc cấm đoán đó và giữa lúc hỗn loạn, một trái bom, hay có thể là một trái lựu đạn đã phát nổ. Quân đội được điều đến để làm nhiệm vụ đã nổ súng vào đám đông, làm chết chín người và làm bị thương hai mươi người khác. Một cách ngu ngốc, chính phủ đã đổ tội này cho “cộng sản”, trong khi đó thì các phật tử do các tăng ni dẫn dắt đã đòi chính quyền phải bồi thường tính mạng cho các nạn nhân, trừng trị những kẻ có trách nhiệm và đòi phải được tự do treo cờ và hành đạo.
Có lẽ bị ảnh hưởng bởi Thục và Cẩn, những người không muốn chấp nhận có dấu hiệu nào là Huế tỏ ra nao núng, Diệm đã giải quyết việc này mà không thực sự hiểu rằng nó sẽ gây ra những phản ứng thế nào đối với trong và ngoài nước. Ông tuyên bố rằng Hiến pháp năm 1956 đã công nhận quyền tự do tín ngưỡng nhưng lại không chấp nhận những hoạt động chính trị của những nhóm tôn giáo. Còn Nhu, được vợ kích động, lại làm cho tình hình thêm trầm trọng bằng cách gay gắt buộc tội những người cộng sản là thủ phạm gây nên sự bế tắc và những vụ biểu tình ngày càng tăng ở Huế. Cuối cùng rồi ngày 13 tháng Sáu, người ta cũng đi đến một thoả thuận là chấp nhận bồi thường cho các nạn nhân, mở cuộc điều tra tự do để tìm ra những người chịu trách nhiệm, Phật giáo được quyền tự do giảng đạo và được phép treo cờ Phật cùng với cờ quốc gia. Tuy nhiên vụ việc này không phải vì vậy mà bớt phần tai hại, và thoả hiệp trên cũng không dập tắt được những chống đồi do bản thân sự cố cũng như sự phản ứng tàn bạo của chính phủ gây ra.
Ấy vậy mà những căng thẳng dai dẳng ở Việt Nam cũng vẫn chưa là gì cả so với những phản ứng của người Mỹ, khi họ có ở trước mắt một loạt những tấm ảnh, mà nhìn thấy nó thì trước đây họ thờ ơ với những vấn đề của Việt Nam bao nhiêu thì bây giờ họ lại càng quan tâm đến nó bấy nhiêu. Ngày 11 tháng Sáu, một phát ngôn viên của Phật giáo loan báo với giới thông tấn Mỹ rằng ngay sáng mai ở một ngã tư đã định của đường phố Sài Gòn, sẽ xảy ra “một sự việc gì đó nghiêm trọng”. Đến giờ đã định trước ống kính của đông đảo nhà báo, hoà thượng Thích Quảng Đức trong bộ cà sa màu vàng bước ra và nghiêm trang ngồi xuống đất, trong khi đó mấy người tùy tùng tưới xăng vào người hoà thượng. Rồi hoà thượng đánh diêm châm lửa và hy sinh trước mắt mọi người, hành động ấy được coi như một lời phản kháng chống lại chế độ Diệm. Những tấm ảnh màu khủng khiếp xuất hiện ngay lập tức trên trang một tờ báo đã khiến chính quyền tự do của tổng thống Kennedy phải giữ một khoảng cách với một chế độ mà để chống lại nó, người ta đã phải dùng đến những hình thức quyết liệt như thế. Trong chính phủ Mỹ, lập tức nổ ra những cuộc tranh cãi gay gắt về vấn đề là Mỹ có đúng hay không khi ủng hộ Diệm ở Nam Việt Nam.
Lúc đó đại sứ Nolting đang đi nghỉ ở Hy Lạp, việc liên lạc với Diệm được tiến hành qua trung gian của phó đại sứ William Trueheart. Thế mà đối với Diệm, Trueheart là người chủ trương phải có thái độ cứng rắn hơn là duy trì với Diệm một quan hệ tin cậy dựa trên sự ủng hộ vô điều kiện của Mỹ. Một thái độ mà lúc mới đầu Kennedy đã xác định. Để ứng phó với tình thế, bộ Ngoại giao Mỹ dồn dập thúc ép Diệm phải hoà giải với Phật giáo. Nhưng trong khi đó, Diệm lại chịu sức ép của vợ chồng Nhu là đòi hỏi Diệm phải “mạnh tay” hơn với giới Phật giáo và những ảnh hưởng “cộng sản” của họ (Bà Nhu, như đổ thêm dầu vào lửa, lại gọi hành động hy sinh của các nhà sư - lúc bấy giờ lại có thêm nhiều người tự thiêu - là hành động “tự quay”). Diệm nghiêng ngả giữa hai thái độ ấy, một mặt hứa với Mỹ sẽ hoà giải với Phật giáo, và trên thực tế ông đã có vài lời tuyên bố theo chiều hướng ấy, song mặt khác ông lại tìm cách phát triển mạnh mẽ. Thậm chí cả các quan chức chính phủ và giới quân nhân cũng phải công khai bày tỏ sự lo ngại của họ trước cách giải quyết vụ việc của Diệm. Thời gian càng qua đi thì những tiếng xầm xì và những báo cáo của C.I.A. về một cuộc đảo chính nay mai là có thể tin được.
Trong tình hình ấy, ngày 27 tháng Sáu, lại có thêm một chuyện mới. Rõ ràng có ý định muốn “phi chính trị hóa” vấn đề Việt Nam đối với Hoa Kỳ, tổng thống Kennedy công bố việc đưa Herry Cabot Lodge sang thay cho Nolting. Là một sản phẩm quý tộc thuần chất của xã hội thượng lưu Boston, Cabot Lodge là ứng cử viên phó tổng thống nhiệm kỳ 1960 của Đảng Cộng hoà và ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đại sứ ở Liên hiệp quốc dưới thời Eisenhower. Từ Sài Gòn nhà ngoại giao chuyên nghiệp Nolting đã chiến đấu để bảo vệ chính sánh của ông đối với Washington và thường là chống lại nhiều nhân vật chóp bu trong chính quyền Kennedy. Nếu cuối cùng Nolting thua trận thì tuy nhiên, câu chuyện của ông vẫn là một trong những cái gương có ích nhất, có tính báo hiệu ứng nghiệm nhất và đáng tôn vinh nhất trong cuộc can thiệp của Mỹ vào cuộc chiến tranh lần thứ hai ở Đông Dương.
Vào tháng Bảy, người Mỹ bắt đầu tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu như có một cuộc đảo chính, hiển nhiên là quân sự, chống lại chế độ Diệm. Nhiều cuộc họp đã diễn ra ở Washington, các cơ quan ai nấy đều chuẩn bị chu đáo trước cho quan điểm của mình để đưa ra khi tổng thống họp Hội đồng An ninh quốc gia. Mc Cone khuyến khích tài năng phân tích của C.I.A., cung cấp các đánh giá về tình hình chế độ Diệm và cuộc chiến tranh ông ta đang tiến hành ở Nam Việt Nam. Mc Cone dẫn tôi tới cùng dự các cuộc họp của Nhà Trắng mà ở đó, với vốn hiểu biết trực tiếp của tôi về những vấn đề Việt Nam, tôi có thể gợi ý về những hành động có khả năng giúp chúng tôi giải quyết được thế tiến thoái lưỡng nan của Mỹ ở Việt Nam.
Trong các cuộc họp ấy, hố ngăn cách giữa các bên tham dự chỉ có ngày càng bị đào sâu thêm. Ở bộ Ngoại giao, Roger Hilsman trở thành thứ trưởng phụ trách Viễn Đông, thay cho Averell Harriman, được cử làm thứ trưởng phụ trách các vấn đề chính trị. Vốn là một dân kỳ cựu của West Point và đã từng chiến đấu tại bưng biền Bắc Miến (Mianma) trong chiến tranh thế giới thứ hai, nên không phải vô cớ mà Hilsman được coi như một chuyên gia về vấn đề Viễn Đông. Ông không ngừng giục giã tôi phải tiến hành những hoạt động tích cực hơn ở Lào và về phần tôi, tôi cũng sẵn sàng chú ý lắng nghe những hồi tưởng của ông về chiến tranh để đổi lại, tôi có được sự ủng hộ về chính trị của ông, một sự ủng hộ đương nhiên là cần thiết cho nỗ lực của chúng tôi.
Ngày 15 tháng Tám, theo đúng tục lệ không bao giờ hai đại sứ kế nhiệm nhau ở một vị trí lại được phép có mặt cùng một lúc ở một nhiệm sở, Nolting rời Sài Gòn. Còn Lodge thì có mặt ở Honolulu để Bộ Chỉ huy quân sự Thái Bình Dương cho ông biết về tình hình Nam Việt Nam. Tại Honolulu, Nolting gặp Lodge và hai bên thảo thuận với nhau về những trách nhiệm của ông tân đại sứ. Riêng tôi, nhân danh C.I.A., tôi cũng có mặt ở đấy, tranh thủ dịp này giúp cho Lodge nắm được rõ hơn về những chương trình của chúng tôi và những đóng góp của nó vào nỗ lực chiến tranh. Thì chính trong tình hình đó tin tức đến với chúng tôi vào đêm 21 tháng Tám: Diệm đã cho mở một loạt các cuộc tiến công vào một số chùa chiền ở Nam Việt Nam, bắt bớ khoảng một nghìn bốn trăm người và gây ra một số thương vong, con số chưa xác định rõ là bao nhiêu. Hành động đêm 21 tháng Tám của Diệm trên thực tế đã xoá bỏ tất cả mọi lời hứa hẹn hoà giải với Phật giáo mà ông ta đã cam kết với Nolting vừa đây. Chẳng cần nói người ta cũng có thể hiểu được tâm trạng của Nolting giữa lúc ông ta đang trao đổi bàn bạc với Lodge, là ông ta cảm thấy mình bị Diệm phản bội thế nào, cũng như trước đây, khi bắt đầu cái năm đầy bất hạnh này ông đã thấy mình bị người phó của mình là Trueheart phản bội ra sao. Trueheart, trong khi Nolting đang nghỉ phép, đã lơ là không báo cho ông ngay về cuộc nổi dậy đầu tiên của Phật giáo vào tháng Năm và giữ một thái độ chống Diệm.
Đối với người Mỹ, họ càng cảm thấy mình bị lường gạt bao nhiêu khi họ biết rõ chi tiết về sự việc bấy nhiêu. Thoạt đầu, người ta được tin rằng những người tấn công là quân đội chính quy của Nam Việt Nam, và hành động của họ ở đây là nằm trong khuôn khổ luật hình mà Diệm đã ban bố theo yêu cầu của các tướng lĩnh. Nhưng sự thật thì hoàn toàn ngược lại. Những kẻ tấn công ở đây là người của cảnh sát và của lực lượng đặc biệt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Nhu. Nhu hiển nhiên là đã núp sau cái “vỏ bọc” quân sự mà các tướng lĩnh đã cung cấp cho ông ta, khi họ chấp nhận một sắc lệnh về luật hình để giải quyết vấn đề Phật giáo. Nhu tính toán rằng nếu đến Sài Gòn Lodge chấp nhận sự “nghênh đón” ông ta bằng một “sự đã rồi” này thì những cuộc tranh cãi với ông tân đại sứ Hoa Kỳ về vấn đề Phật giáo sẽ không còn lý do gì để tồn tại nữa. Nhưng Nhu đã quên không tính đến phong cách cũng như tính cách của nhà ngoại giao xuất thân từ Boston. Sau vụ tấn công các chùa chiền, nếu như trước đây Lodge còn có sự dè dặt nào đấy đối với chế độ Diệm, thì giờ đây ông đã chuyển hẳn sang một thái độ chống đối gần như không buồn che giấu đối với nó.
Trong một buổi lễ hội đầu tiên ông được dự, nhìn thấy Diệm ra vẻ trang trọng trong chiếc áo dài truyền thống của các ông quan ngày trước, chứ không mặc bộ đồ âu phục trắng như dưới thời thuộc Pháp, Lodge ngán ngẩm tuyên bố rằng tất cả trò dàn cảnh này của Diệm chỉ càng gợi cho ông ta quang cảnh của một triều đình trung cổ, chứ không phải là một cộng hoà như Hiến pháp quy định. Dựa vào ưu thế có nguồn gốc xuất thân, từ một gia đình danh giá và bản thân là một nhân vật tầm cỡ quốc gia, Lodge là tất cả, ngoại trừ một điều ông ta không phải là một quan chức biết e dè nể sự. Ông cho rằng mình đến Việt Nam là để xem xét tình hình chung và đưa ra những quyết định lớn mà không cần phải quan tâm tới những tiểu tiết của các chương trình. Các bức điện cá nhân ông gửi về Washington thường phản ánh sự xa cách của ông đối với các kết luận tỷ mỷ của toà đại sứ. Tính độc lập của ông đối với cơ quan này đi đôi với tư cách mình là người của Đảng Cộng hoà và độc lập với chính quyền Kennedy. Từ đó đưa đến cái cách vừa cá nhân vừa chẳng đếm xỉa gì mấy đến các thể chế, nó khiến cho các viên chức hay các cơ quan dưới quyền ông phải hoang mang, mất phương hướng.
Kennedy áp dụng với ông chiến thuật rất quen thuộc chiến thuật bàn tay nhung. Điều cuối cùng mà Kennedy cần vào giai đoạn này của các sự kiện, là sự tổ chức của tay đảng viên cộng hoà mà ông chọn làm con tin này cho các lựa chọn chính trị của ông về Việt Nam. Tôn trọng Lodge sẽ giúp cho Kennedy phòng ngừa được mọi người lời buộc tội sau này là đã “để mất” Việt Nam, cũng như trước đây người ta đã trách Harry Truman và các người bạn dân chủ của ông là đã “để mất” Trung Hoa. Vậy là thông tin giữa Mỹ và Việt Nam phải đi qua nhiều con đường và nhiều cấp khác nhau. Nhưng người nào hoạt động về phương diện quân sự và ở cấp nông thôn thì ủng hộ những chương trình mà chính quyền Diệm đưa ra nhằm tổ chức một hệ thống phòng thủ chống cộng sản xâm lược ở nông thôn. Ở Sài Gòn thì các cơ quan Mỹ cung cấp tiền bạc, vũ khí và các trang bị cần thiết. Một sự đối đầu ngày càng tỏ ra thù địch xuất hiện cùng một lúc ở cấp độ chính trị, một cấp độ rõ ràng là chủ yếu nhất trong khi những quan hệ Mỹ Việt ngày càng trở nên căng thẳng trong mùa hè 1963.
Sự ngờ vực mà tân đại sứ Lodge biểu hiện sau vụ đàn áp ngày 21 tháng Tám đã tác động tới Washington. Kỳ nghỉ cuối tuần sau ngày xảy ra sự kiện, nhiều nhân vật quan trọng đã không có mặt ở thủ đô. Kennedy đang ở Hyannisport ở mũi Cod và ngoại trưởng Dean Rusk thì ở New York, cả bộ trưởng Quốc phòng Mc Namara và Giám đốc C.I.A. Mc Cone đều đi nghỉ mát. Tuy nhiên ở bộ Ngoại giao thì người ta vẫn cảm thấy được không khí của cuộc khủng hoảng ở Nam Việt Nam. Người ta còn biết rằng cuộc tấn công vào các chùa chiền là tác phẩm của vợ chồng Nhu chứ không phải của quân đội. Và như vậy là vợ chồng Nhu đã tung ra một thách thức đối với sự ủng hộ của Mỹ ở Nam Việt Nam. Nếu người ta không có một phản ứng thích hợp thì hoá ra chính phủ Mỹ chỉ gói gọn mình vào vai trò là người ủng hộ mù quáng cho chế độ Diệm, bất kể chế độ đó là gì, thậm chí ngay cả khi những hành động của nó là không thể chấp nhận được đối với công chúng Hoa Kỳ.
Ở Washington, sáng thứ bảy là một sáng rất đặc biệt: điện thoại không ai gọi, các quan chức cao cấp có thể tranh thủ thời gian này để giải quyết nốt những công việc tồn đọng trong tuần và vùi đầu vào những công việc quan trọng khác mà do quá bận, họ đã phải giao quyền giải quyết hàng ngày cho các trợ lí. Và vào buổi sáng hôm ấy, một sáng thứ bảy của tháng Tám, nhóm làm việc gồm Roger Hilsman, Averll Harriman, George Ball và Micheal Forresfal, cố vấn Hội đồng An ninh quốc gia, tất cả đã nhất trí là Hoa Kỳ không thể thụ động chấp nhận sự thách thức của việc làm “sự đã rồi” của Nhu. Họ nghiên cứu báo cáo đầu tiên Lodge gửi về sau khi ông tới Sài Gòn. Lodge nói về phản ứng của các tướng lĩnh chủ chốt và số cộng sự dân sự của Diệm mà theo ý họ thì tốt nhất là nên gạt bỏ vợ chồng Nhu ra khỏi vị trí hiện thời của họ trong chính phủ nếu như cuộc chiến đấu chống cộng sản vẫn tiếp tục.
Bộ tứ, mà chắc chắn Harriman là người cầm đầu, sau đó đã thảo cho Lodge một bức điện - bức điện mà nó sẽ dẫn chính phủ Mỹ tới sai lầm lớn đầu tiên của mình trong chiến tranh Việt Nam: đó là lật đổ chính quyền Diệm. Nội dung chủ yếu của bức điện như sau:
Chính phủ Mỹ không thể dung thứ cho một tình trạng mà quyền hành nằm trong tay Nhu. Cần phải tạo cho Diệm một cơ hội để gạt Nhu và bè đảng của hắn (...) Nếu, mặc dù ông đã cố gắng hết sức, Diệm vẫn không chịu lay chuyển và từ chối, chúng ta lúc đó sẽ phải tính đến khả năng là ngay bản thân Diệm cũng phải ra khỏi chính quyền (...)
Để áp dụng đường lối này, những người cầm đầu chủ chốt quân đội cần phải được thông báo rằng người Mỹ sẽ duy trì chi viện kinh tế và quân sự trong trường hợp Nhu bị gạt ra khỏi chính quyền. Nếu Diệm từ chối thì ngay ông ta cũng sẽ bị Mỹ sẵn sàng gạt bỏ. Trong thời gian mà bộ máy chính quyền trung ương bị ngừng trệ thì Mỹ sẽ tiếp tục chi viện cho quân đội. Cuối cùng, điều cực kỳ cần thiết là Lodge có nhiệm vụ tìm ngay một người có khả năng thay Diệm và soạn ra kế hoạch chi tiết để tiến hành việc thay thế này.
Do tính chất nghiêm trọng của nó, việc trình bày đường lối này không thể đánh đi bằng điện cũng như không thể xin trước được sự đồng ý hay tranh thủ được ý kiến của các cộng sự chủ chốt của tổng thống và bản thân tổng thống. Một thứ bảy mùa hè quả không phải là một ngày đáng mơ ước để triệu tập họ tới họp trong khi nếu đó là một ngày bình thường trong tuần thì việc đó là hoàn toàn tự nhiên. Nhưng Washington đã có những biện pháp khẩn cấp cho những trường hợp trên. Mỗi cố vấn cấp cao đều có một người phó hoặc một sĩ quan có tư cách thường xuyên là có quyền được bật đèn xanh của cơ quan mình để gửi đi một bức điện cho người có trách nhiệm nếu người ta không có điều kiện để tìm gặp được người đó. Trong buổi sáng thứ bảy hôm ấy, người dễ gặp nhất lại là tổng thống mà với ông, người ta có thể tiếp xúc ở chỗ nào mà ông có mặt và người ta dễ dàng được ông đồng ý. Với những người khác thì tôi không biết thế nào, ngoại trừ Dean Rusk thì ông ta sử dụng đường dây trực tiếp của phái đoàn Mỹ ở Liên Hiệp quốc và do đó ông có thể đọc được toàn văn bức điện. Với tướng Maxwell Taylor lúc đó đang ở khách sạn, người ta liên lạc được với ông ta qua điện thoại và đọc cho ông nghe một bản tóm tắt. Với Mc Namara và Mc Cone, người ta không liên lạc được trực tiếp, nhưng thứ trưởng Quốc phòng Roswell Gilpatric và Richard Helms đã nhận thay cho hai ông. Song mặc dù là nghiêm chỉnh về phương diện kỹ thuật, các biện pháp phối hợp trên dẫu sao cũng đã gây ra một số trục trặc, trong các cơ quan và rõ ràng là những người có trách nhiệm chủ chốt đã không có điều kiện để thảo luận một cách nghiêm chỉnh về nội dung bức điện, trước khi đưa ra một quyết định chính trị quan trọng.
Sáng hôm sau, khi các cơ quan nhận được bản sao bức điện ngày 24 tháng Tám, các viên chức có liên quan nhiều nhất đến vấn đề Việt Nam đều hiểu là chính phủ vừa có một quyết định cực kỳ quan trọng về vấn đề này và các cấp trên của họ cần phải sơ bộ biết ngay. Là một trong các cộng sự chính của Mc Cone về vấn đề Việt Nam và chưa biết nội dung bức điện đã được chuyển cho Helms, tôi liên lạc với Cone để báo cho ông. Mc Cone đã hoàn toàn nắm được quan điểm của tôi. Diệm có thể là một con người khó tính, nhưng dù sao ông vẫn là người lãnh đạo tốt nhất và duy nhất mà Việt Nam hiện có. Chấp nhận quan điểm đó nên Mc Cone thường ủng hộ tôi. Ông biết rằng mọi hành động trực tiếp chống Diệm sẽ làm nguy hại cho lợi ích của Mỹ ở một Nam Việt Nam tự do.
Theo yêu cầu, ngay ngày hôm ấy tôi đến gặp ông tại khu nhà nghỉ rất đẹp của ông, bay bằng một chuyên cơ nhỏ của Nhà Trắng mà Mc George Bundy bố trí cho tôi. Ông vô cùng bực tức khi tôi cho ông xem bức điện, và nói rõ thêm là không một ai trong hàng ngũ các giám đốc cơ quan được hỏi ý kiến trước khi bức điện được gửi đi. Tuy nhiên ông vẫn cố giữ vẻ bình thản như thường ngày, nhưng là một thứ bình thản lạnh lùng băng giá. Thế là hết những ngày nghỉ ngắn ngủi của ông. “Tối nay tôi sẽ trở về Washington với anh”, ông nói.
Maxwell Taylor cũng phản ứng với thái độ gần như thế. Ông gửi cho tướng Harkins ở Sài Gòn một bức điện, nói rằng người ta sẽ xem xét lại đường lối hành động mà bức điện thông báo.
Thứ hai, các người có trách nhiệm chủ chốt đến gặp tổng thống để dự một cuộc họp mang tính chất điển hình của những cuộc họp theo phong cách Kennedy, tức là khoảng hai, ba chục người hoặc ngồi xung quanh một chiếc bàn, hoặc ngồi quay lưng vào tường. Đi một vòng quanh bàn, Kennedy cắt đứt luồng suy nghĩ của mọi người khi không hỏi có ai muốn thay đổi gì về nội dung bức điện. Không ai có ý kiến. Thật khó mà nói thẳng với tổng thống là ông ta đã sai lầm khi chấp nhận một điều gì đó, trong khi chính mình lại chưa thể đưa ra được một ý kiến nào hay hơn. Nhưng hôm sau, khi có mặt ở Washington để nhận sự bổ nhiệm mới và dự một cuộc họp khác của Nhà Trắng, Nolting đã lên tiếng. Ông nói với tổng thống là chúng ta không nên đánh khi chúng ta chưa biết đánh vào đâu và trong khi chờ đợi, chúng ta cần phải xác định lại cách xử sự cho Nam Việt Nam.
Ý kiến của Nolting đã khai mào cho George Ball tiên đoán rằng chúng tôi sẽ không thể thắng được trong chiến tranh Việt Nam. Còn Averell Harriman, người đã hơn một lần thù địch với chế độ Diệm, đã công kích Nolting với một sự cuồng nhiệt gần như là ác ý. Ông nói rằng chính sách ủng hộ Diệm của Nolting ngay từ đầu đã tỏ ra sai lầm (thế mà đó lại đúng là đường lối của chính quyền Kennedy). Ông kịch liệt chê trách Nolting đã hoàn toàn thất bại trong quan hệ đối với Diệm - qua đó mà ngụ ý rằng ý kiến của Nolting là không đáng để tổng thống xem xét. Tôi rất căm phẫn khi thấy Harriman đối xử một cách thô bạo như thế đối với một quan chức đáng nể trọng như Nolting, nhưng mặt khác tôi cũng phải công nhận đó mới thực sự là Harriman, một Harriman hoàn toàn tận tụy với lợi ích của tổng thống và đất nước, mà vì nó ông có thể đè bẹp bất kỳ ai chống đối. Rõ ràng là cả Mc Namara, bộ trưởng Quốc phòng, cả Maxwell Taylor, Tổng Tham mưu trưởng liên quân và cả Mc Cone giám đốc C.I.A., không ai đồng tình với ý kiến của Harriman song họ đều không bày tỏ sự bất đồng của họ trong một diễn đàn gần như công khai này. Những người dự họp, số ngồi sát tường trong đó có tôi, cũng không một ai tham gia vào cuộc tranh luận.
Giữ một thái độ có vẻ như báo hiệu về cách những tháng tới đây sẽ giải quyết công việc này như thế nào, tổng thống Kennedy chưa đưa ra một lập trường rõ rệt. Ông không phát biểu rõ về ý nghĩa đường lối của ông. Đơn giản ông chỉ đồng ý điện cho Lodge và Harkins để yêu cầu họ là theo họ, liệu những vụ rối loạn chính trị có thể tràn ra khỏi thành phố và lây lan sang vùng nông thôn không, và liệu điều đó có thể tác động tới nỗ lực chiến tranh không. Ông hy vọng làm như vậy, ông sẽ có được những câu trả lời giúp ông xác định được đường lối sau này cần noi theo. Tôi có cảm giác là trong việc chống Diệm, Kennedy không phải không hài lòng khi để cho Lodge được rộng đường muốn đi xa tới đâu thì đi, bởi ông biết rằng cái nhãn mác cộng hoà của ông đại sứ sẽ che chở cho tổng thống chống lại mọi sự chỉ trích sau này có thể xảy ra, bất kể là kết quả của công việc ra sao.
Lodge sốt sắng, nhiệt tình hưởng ứng đường lối mà bức điện ngày 24 tháng Tám nêu ra. Nhưng ông cho rằng sẽ là hão huyền khi cho Diệm một cơ hội để gạt Nhu, bởi “thực tế là chẳng có cơ may” nào để Diệm sẽ làm việc đó. Ông đề nghị nên quan hệ trực tiếp với các tướng lĩnh không thông qua Diệm và để cho họ tự quyết định về việc có nên “giữ” Diệm nhưng không có vợ chồng Nhu. Rất lạ lùng là ông nói thêm rằng mai ông sẽ trình uỷ nhiệm thư đại sứ lên tổng thống, mà không thấy nêu rằng việc đó là ngược đời.
Ở Sài Gòn, Lodge triệu tập các cố vấn của ông và quyết định phải báo cho các tướng lĩnh nhưng không để lộ ra là “có sự can thiệp chính thức của Mỹ” - một sự thận trọng phù hợp với ảo tưởng phổ biến lúc bấy giờ là muốn rằng mọi người không thể gán các hoạt động của C.I.A cho chính phủ Mỹ! Có một sự phân cách rõ rệt giữa hai thái độ của chúng tôi, một là của Mc Cone và tôi, những người phản đối mọi can thiệp chống Diệm, và một của Lodge, người sẽ sử dụng người của chúng tôi để thực hiện một nhiệm vụ mà chúng tôi phản đối. Nhưng mặt khác, C.I.A. lại không phải là người có quyền được đưa ra những quyết định chính trị mà trong các hoạt động bí mật của nó C.I.A phải thực hiện nghiêm chỉnh những quyết định của tổng thống, và trong trường hợp này, tổng thống đã gạt bóng cho Lodge. C.I.A. đã phải đương đầu quá đủ với những lời buộc tội - nhiều cái đã được đưa ra công khai - rằng cơ quan này là một “chính phủ vô hình”. Cho nên chúng tôi muốn vấn đề phải được rõ ràng: đường lối chính sách C.I.A. phải tuân theo không phải là của chúng tôi, mà là của tổng thống và các cố vấn của ông. Năm 1961 chính quyền Kennedy đã nhấn mạnh vấn đề này trong một bức thư gửi cho tất cả các đại sứ Mỹ ở các nước, nhắc rằng trong khi làm nhiệm vụ, về mặt lựa chọn chính trị, họ cần phải xác định rõ sự lựa chọn ấy cho tất cả các hoạt động của C.I.A.
Chính vì vậy mà John Richardson, phụ trách cơ quan C.I.A. ở Sài Gòn, chấp hành đúng những chỉ thị dứt khoát và rõ ràng của tôi, đã phái người của ông đến liên lạc với những nhân mối mà họ đã công phu cấy được trong quân đội Nam Việt Nam, để nghiên cứu xem khả năng cũng như bằng cách thức nào để tổ chức một cuộc đảo chính mà Lodge cho rằng nó đã được Washington tán thành.
Các tướng lĩnh phản ứng một cách hết sức thận trọng, thậm chí không còn nghi ngờ nữa, bởi biết Richardson có quan hệ mật thiết với Nhu và sợ những ý kiến của họ sẽ được nhắc lại. Tuy luôn luôn tin tưởng tình bạn trung thực của các sĩ quan C.I.A. này, một tình bạn từng được thử thách qua nhiều năm, nhưng điều đó cũng không ngăn cản họ sợ bị lộ. Hơn nữa họ cũng chưa được xem xét kỹ kế hoạch để bảo đảm chắc chắn thành công. Vì thế tướng Tôn Thất Đính, người bạn của chúng tôi, vẫn chưa được họ hoan nghênh trong các cuộc họp của họ. (Tướng Đính, người đã được chúng tôi ủng hộ trong chương trình xây dựng các đội thám báo miền núi, hiện đang kiểm soát nhiều đơn vị ở vùng Sài Gòn nên người ta không thể không cần đến ông trong cuộc tấn công vào dinh).
Trong những ngày tiếp theo, giữa toà đại sứ ở Sài Gòn với Washington là những bức điện được đánh đi đánh lại một cách dồn dập, phản ánh những cuộc chuyện trò với các tướng lĩnh Việt Nam, những buổi tranh luận ở Nhà Trắng, những mưu mẹo tỷ mỷ nhằm làm bớt căng thẳng với chế độ Diệm, với những người biểu tình Phật giáo, và với những phóng viên Mỹ, những người lúc nào cũng chỉ rình đưa trực tiếp những tin giật gân lên báo cho công chúng Mỹ. Bất chấp những nghi ngờ và những câu hỏi đi hỏi lại của Washington, thường được nêu dưới dạng là “yêu cầu làm rõ thêm” về một số khía cạnh mới của tình hình, Lodge vẫn kiên quyết giữ vững lập trường: “Chúng tôi đang đi vào một tiến trình không thể đảo ngược được: đó là lật đổ chính quyền Diệm”. Lập trường ấy dù sao cũng có luộc ưu điểm: đó là nó quá thành thực, một sự thành thực mà Washington thấy cần phải che giấu bớt lại, bằng cách phải làm thế nào để cuộc đảo chính - nếu như có đảo chính - thì nó sẽ phải là “tác phẩm” của các tướng lĩnh Sài Gòn, chứ không phải là của Mỹ.
Cũng như những cuộc tranh cãi sau này về vấn đề Việt Nam, có một chỗ rõ ràng là không ổn, là thiếu sót trong những cuộc trao đổi thư tín ấy, đó là vấn đề “lấy ai” và “lấy cái gì” để thay đổi Diệm và chế độ Diệm? Tất cả mọi chú ý chỉ có tập trung vào sự cần thiết phải gạt bỏ Diệm và về những chi tiết của kế hoạch lật đổ Diệm, cứ làm như thể giải quyết được vấn đề này thì rồi mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết hết, chẳng hạn như rồi đây sẽ xử trí với Diệm và gia đình Diệm thế nào? Và sau này sẽ làm thế nào để đẩy mạnh được nỗ lực chiến tranh một cách có hiệu quả? Chỉ có một lần người ta nói gần nói xa đến số phận Diệm và gia đình Diệm. Đó là khi được báo cáo, tướng Minh “lớn”, trong một câu nói tình cờ, đã ám chỉ đến khả năng sát hại Diệm, Mc Cone bảo tôi gửi cho C.I.A. ở Sài Gòn một bức điện có tính chất nghiêm khắc. Lucien Conein, bạn lâu ngày của tôi và là người trung gian chính của chúng tôi với các tướng chủ chốt của Sài Gòn, cần phải nói một cách rõ ràng, không lập lờ gì hết với tướng Minh là Mỹ không muốn nghe bất kỳ một ý kiến nào đại loại như thế. Từ đó không bao giờ Minh đề cập đến vấn đề này nữa.
Chính John Richardson, khi tóm tắt kết quả của tuần lễ dồn dập điện đi điện về ấy, đã báo với tôi rằng “cú đánh đã bị phá sản”. Các tướng lĩnh tự xét thấy họ chưa có đủ sự nhất trí và chưa có đủ lực lượng để tiến hành đảo chính thành công.
Nếu âm mưu đảo chính tạm lắng ở Sài Gòn thì ở Washington nó lại không phải thế. Hai phe đối địch vẫn căng thẳng với nhau: bộ Ngoại giao và các quan chức ở Nhà Trắng thì vẫn chủ trương gạt bỏ Diệm, còn Lầu Năm góc và C.I.A. thì khuyên nên thận trọng. Phải đương đầu với sự đối lập sâu sắc giữa hai phe, tổng thống tỏ ra do dự. Một lần nữa, quyết định lại được hoãn lại bởi người ta muốn có một sự đánh giá mới, và lần này thì việc đánh giá ấy sẽ do đại diện hai phe cùng thực hiện. Chính vì vậy mà Joseph Mendenhall được phép đi cùng với đô đốc Victor Krulak. Joseph Mendenhall là một viên chức cao cấp bộ Ngoại giao và khi còn làm việc dưới quyền Durbrow ở Việt Nam, ông đã nhiều lần gửi điện về nước yêu cầu phải có những “cải cách” chính trị cần thiết cho sự tiến bộ của Việt Nam. Còn đô đốc Victor Krulak thì cho rằng cuộc chiến đấu ở nông thôn còn quan trọng hơn những mưu mô chính trị của Sài Gòn. Cả hai người cùng sang ở Việt Nam một tuần và khi trở về, họ phải làm rõ tình hình ở đấy cho tổng thống Kennedy.
Ở Việt Nam, họ đã đi tìm và thấy những gì họ muốn thấy, Krulak đi về các tỉnh và kể rằng quân đội vẫn làm công việc của họ, không bị những rối loạn chính trị ở thành thị gây phiền toái và cuộc chiến đấu chống cộng sản vẫn tiếp tục. Mendenhall thì đi thăm các đô thị, gặp số quen biết cũ và kết luận rằng chính phủ sẽ sụp đổ, nội chiến tôn giáo sẽ xảy ra và người ta không thể chống cộng sản với chế độ Diệm. Nghe hai ông báo cáo lại tình hình mà ý kiến ngược nhau đến thế, tổng thống phải thốt lên: “Có đúng là cả hai ông đều đến thăm cùng một đất nước không?”.
Câu nói trên quả là dí dỏm nhưng nó lẩn tránh cái cốt lõi của vấn đề: có phải chăng là mỗi ông, cùng đến thăm Việt Nam và ai cũng báo cáo chính xác những gì mình thấy, trên thực tế là đã phản ánh mỗi người một khía cạnh khác nhau của cùng một tình hình? Cho nên sự lựa chọn để đi đến một quyết định không chỉ căn cứ vào phản ánh của một bên này hoặc một bên kia. Mà vấn đề là phải xem xem nước Việt Nam nào là phù hợp hơn với lợi ích của nước Mỹ và do đó nước Việt Nam nào cần phải được hưởng sự ủng hộ của Mỹ để đạt mục tiêu của nó.
Đương nhiên cả hai bản tường trình trên đều được đưa ra xem xét dưới ánh sáng của việc cần thiết phải đẩy mạnh nỗ lực chiến tranh. Nhưng nó không tránh khỏi bị phụ thuộc vào mạng lưới của những dính líu chính trị mà những rắc rối này sẽ tác động đến chính quyền Kennedy dù cho Kennedy có đưa ra những quyết định ra sao. Người được tự do nhất trong công việc này là Cabot Lodge. Đã dứt khoát loại bỏ Diệm, Lodge có thể tác động đến chính quyền dân chủ theo chiều hướng ấy mà không gây hại gì cho bản thân ông cũng như cho đảng cộng hoà của ông, bởi chính chính quyền dân chủ mới là người phải gánh chịu trách nhiệm về quyết định ấy và phải chịu đựng những hậu quả do quyết định ấy gây ra. Các bức điện của Lodge nhấn mạnh cần phải ngừng viện trợ phi quân sự cho chính quyền Diệm, tức là làm cái cách mà Mỹ thường dùng để thể hiện sự bất bình của mình.
Cuối cùng Lodge đã đạt được điều ông muốn. Washington đã cắt bỏ chương trình nhập khẩu thương mại, là cái cung cấp tại chỗ những khoản vốn dùng để đài thọ cho quỹ nhà nước của chính quyền Diệm. Việt này xảy ra ngày 2 tháng Chín, khi tổng thống Kennedy tuyên bố với Walter Cronkite trên một kênh truyền hình quốc gia rằng chính quyền Việt Nam “đã mất sự liên hệ với dân chúng”, song “sau một vài thay đổi về đường lối và có thể cả nhân sự” thì chắc chắn chính quyền ấy sẽ có khả năng lấy lại được sự tín nhiệm của dân chúng.
Một cách cố chấp, Lodge chờ Diệm phải “đến với ông ta”, mang theo những nhượng bộ đáp ứng những thay đổi về chính sách và về những chương trình nhà nước mà Mỹ đòi hỏi. Một phần do sĩ diện quốc gia, và một phần cho rằng làm thế thì sẽ chỉ càng làm ông yếu thế trong cuộc đấu tranh trong nước, Diệm kiên quyết không đi trước một bước.
Có phần bị bức xúc vì thiếu thông tin và vì những hậu quả tai hại có thể nảy sinh, nếu như hai chính phủ Mỹ và Việt Nam thậm chí đã không thể cùng ngồi để nói chuyện với nhau về những bất đồng, tôi thảo một kiến nghị gửi cho Mc Cone trong đó nhấn mạnh đến sự cần thiết phải hoà giải hai bên. Thậm chí tôi còn đề nghị cho tôi sang Việt Nam để giải quyết việc này, dĩ nhiên là dưới quyền đại sứ Lodge. Trong một cuộc họp giữa những người đối địch dưới tầng hầm Nhà Trắng (không có mặt tổng thống), Mc Cone cho lưu hành kiến nghị của tôi. Nhiều người nhún vai, cho rằng nó là bất khả thi. Lại một lần nữa, chính quyền Kennedy lẩn tránh không đưa ra một quyết định cụ thể nào, mà chỉ cho ý kiến là cần phải có những thông tin bổ sung, hy vọng một cách hão huyền những thông tin bổ sung ấy sẽ giúp cho mình gỡ được những rắc rối mà mình phải đương đầu.
Và do đó, hơn một lần nữa, người ta lại đưa bộ trưởng Mc Namara và tướng Taylor cùng bộ sậu những đại diện các cơ quan cùng đi trong có tôi là đại diện cho C.I.A, vào trong một chiếc phản lực KC-135 mà cửa sổ tròn cũng chẳng có. Nơi xuất phát: căn cứ quân sự Andrews ở ngoại ô Washington, quá cảnh: Anchorage ở Alaska, và nơi đến: sân bay Tân Sơn Nhất, gần Sài Gòn. vẫn theo cách thức muôn thuở là vừa đặt chân tới nơi, chúng tôi đã bị chìm ngụp trong một loạt những cuộc họp thông tin hay hội thảo được tổ chức trong những căn phòng ngột ngạt, mà tới dự có các quan chức Mỹ và Việt Nam, để cùng nhau xác định rõ những gì đã xảy ra “tại chỗ”.
Một trở ngại bất chợt và không chờ đợi đã ngáng trở những nỗ lực để thu thập tình hình với cố vấn Nhu và tổng thống Diệm, đại sứ Lodge cho tôi biết là tôi không nên gặp họ. Ông không muốn hai anh em họ Ngô tưởng có thể nhờ tôi mà tránh né được lập trường ông đã xác định, tức là ông đang chờ họ đến gặp ông với những nhượng bộ mà ông thấy là cần thiết. Cá nhân tôi, tôi rất công phẫn vì sự ngăn cấm đó, khi mà tôi đã phải đi cả nửa vòng thế giới để tới đây, nhưng tôi đâu có quyền lựa chọn. Tôi cần phải chịu khuất phục. Lodge là đại sứ và tôi biết Washington đang chờ đợi gì ở ông. Khi tôi nói lại chuyện này với Mc Namara, ông ta cũng phật ý vì sự cấm đoán đó, nhưng tôi cũng hiểu ông không thể vì thế mà có chuyện tranh cãi với Lodge. Tuy nhiên tôi cũng hiểu nếu tôi gặp những người Việt Nam khác mà không đến gặp Nhu (hoặc Diệm, nếu ông ta muốn, vì trước đây tôi chưa bao giờ xin gặp ông ta) thì điều đó sẽ dễ bị hiểu là một ý định cố tình của người Mỹ trong việc chống lại hai anh em ông ta. Vì thế tốt nhất là tôi chẳng nên đến gặp bất kỳ một ai. Tôi không muốn mình trở thành sứ giả cho một thông điệp theo cái kiểu đại loại như thế.
Tôi đành bằng lòng, coi như để tìm hiểu tình hình, với việc nghe ý kiến của những nhân viên C.I.A. ở Sài Gòn về thái độ cũng như cách xử sự và những lo ngại của những người mà họ tiếp xúc, như các quan chức chính phủ, những người chống đối và các chỉ huy quân sự...
Không khí thành phố và những tiếp xúc tôi vẫn còn giữ cho tôi biết là Diệm, Nhu đã đạt được mục tiêu của họ khi họ cho tấn công các chùa chiền: đó là loại bỏ sự thách thức của giới Phật giáo đối với chính quyền. Nghĩa là lặp lại những thành công như hồi 1955, họ đã loại bỏ được sự chống đối của các giáo phái. Thời kỳ đó, tuy chưa có những yếu tố để so sánh, như sau này ở Iran có sự xuất hiện của giáo chủ Khomeini (Khômêni) với chủ trương giữ nguyên vẹn chính sách ngu dân của ông, nhưng tôi đã ngờ ngợ rằng giáo lý trừu tượng của Phật giáo đã ẩn chứa trong mình nó một cái gì đó tương tự như thế và tôi cho rằng nó sẽ chẳng mang lại điều gì đó tốt đẹp cho tương lai của một nước Việt Nam hiện đại. Trái lại tôi nghĩ là tình hình thực tế hiện nay cho phép Diệm, Nhu có thể tiếp tục chiến tranh và chương trình ấp chiến lược, nhưng với điều kiện là phải chịu đựng được những phản ứng của Mỹ đối với việc đàn áp Phật giáo của chính quyền Diệm.
Trở về Mỹ vẫn trên chiếc KC-135 không cửa sổ ấy, dưới sự hướng dẫn của Mc Namara và êkíp của ông, chúng tôi thảo báo cáo để trình lên tổng thống. Từ những bản thảo của chúng tôi, giống như mấy tháng trước người ta lại thấy tái hiện các cách nhìn trái ngược nhau - mà người ta có thể ví như cách nhìn sự vật của một người mắc chứng tâm thần phân lập - về tình hình Việt Nam. Chiến tranh ở nông thôn tiến triển thuận lợi, thực tế rất thuận lợi đến nỗi người ta có thể đọc thấy trong phần kết luận của báo cáo kiến nghị là Mỹ “có thể cho về nước đại bộ phận số nhân viên quân sự” vào cuối năm 1965. Nhưng ở một chỗ khác trong báo cáo, người ta lại thấy có ý kiến nên cắt bỏ nhiều chương trình viện trợ Mỹ “để làm cho Diệm hiểu rằng chúng ta phản đối chương trình chính trị của ông ta”, trong khi đó thì vẫn nói rõ là: “Mọi ý đồ để tích cực khuyến khích một sự thay đổi chính phủ là không nên đề ra”.
Chính nhờ câu cuối cùng này mà tôi tán thành bản báo cáo trên tổng thể. Tuy nhiên trong một nỗ lực gần nhu tuyệt vọng, tôi đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải thiết lập một mối liên lạc thực sự với dinh tổng thống bằng cách nêu một chi tiết đã được báo cáo chính thức chấp nhận. Trong khi báo cáo nêu cần phải duy trì với chính phủ Việt Nam những quan hệ có tính chất thuần tuý “theo đúng thủ tục”, thì tôi viết một kiến nghị cá nhân gợi ý rằng những quan hệ hạn chế đó nên được bổ sung bằng những quan hệ cá nhân và không chính thức, mà ở đấy sự thuyết phục có khi lại mang đến những hiệu quả cao.
Cái làm tôi lo ngại thực sự, đó là các thế lực chính trị và nạn quan liêu đang tác động đến chính sách của chúng tôi đối với Việt Nam. Lodge, người theo đuổi một báo thù cá nhân đối với chế độ Diệm lại thoát ra khỏi sự kiểm soát của chính quyền dân chủ. Ông chủ yếu thông tin với người này hay người kia bằng cách để lộ tin cho các nhà báo cũng chống đối chính quyền Diệm. Các chương trình của C.I.A. và của A.I.D. thì bị trói buộc vào những quyết định của ông, trong khi các chương trình và các tiếp xúc quân sự thì vẫn cứ tồn tại không hề gặp một trở ngại. Chính sách Mỹ trở nên mâu thuẫn ở ngay điểm cốt lõi của nó. Chúng tôi cần phải tiếp tục ủng hộ nỗ lực chiến tranh ở Việt Nam, nhưng cùng lúc ấy chúng tôi lại phải chấp nhận một thái độ dửng dưng, thậm chí thù địch, đối với chính quyền đang làm cuộc chiến tranh ấy. Điểm cốt lõi của mâu thuẫn ấy là ở tính tự phụ của người Mỹ chúng tôi, những người cho rằng chúng tôi còn hiểu hơn Diệm là cần phải áp dụng những biện pháp và những chương trình nào để đánh bại được cộng sản.
Các nhà báo Mỹ đóng ở Sài Gòn cũng tham gia tích cực vào việc chuẩn bị cho cỗ xe phù thuỷ ấy. Quan tâm để bài của mình được chạy những hàng tít lớn trên trang báo hay được xuất hiện trên truyền hình vào những buổi phát tin tối, họ thuật lại tình hình bằng cách khai thác tối đa những khía cạnh bi kịch nhất, giật gân nhất. Tình hình nghiêm trọng của cuộc đối đầu giữa phật tử và quốc gia đã cung cấp cho họ một bản tin ngoạn mục và thay thế cho cuộc đấu tranh cũng không kém phần căng thẳng trong nội bộ chính phủ Mỹ giữa hai phe ủng hộ hay gạt bỏ Diệm. Một vài nhà báo cũng thành thực thừa nhận họ muốn gạt bỏ Diệm, vì họ phản đối chế độ quan lại của ông ta và theo họ ông ta không có một tương lai chính trị nào, nhưng tất cả họ, theo đúng truyền thống ưu việt của báo chí, là họ sẵn sàng phủi tay trước mọi hậu quả có thể xảy ra.
Cuối cùng, những kết luận của Mendenhall, cho rằng những vụ rối loạn chính trị trong các đô thị sẽ làm cho Nam Việt Nam sụp đổ trước kẻ thù, đã được chấp nhận, còn những kết luận của Krulak mà theo ông chiến tranh vẫn được tiến hành trôi chảy thì bị gạt bỏ.
Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ - William Colby Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ