Số lần đọc/download: 0 / 18
Cập nhật: 2020-11-29 02:16:03 +0700
Chương 10
R
oz vòng qua vòng lại trước ngôi nhà đó ba lần mới đủ dũng khí để ra khỏi xe và bước về phía cửa. Cuối cùng, niềm kiêu hãnh đã thôi thúc cô tiến lên. Sự vui thích của Hawksley thách thức cô. Một chiếc mô tô phủ bạt đỏ gọn gàng trên trảng cỏ cạnh hàng rào.
Một phụ nữ nhỏ thó với gương mặt rắn đanh, cau có bước ra mở cửa. Đôi môi mỏng quẹt của bà ta kéo xuống thành một cái bĩu môi bất mãn thường trực trên mặt. “Gì thế?” Bà ta cáu kỉnh hỏi.
“Bà O’Brien phải không ạ?
“Cô nà ai?”
Roz đưa ra một tấm thiếp, “Tên tôi là Rosalind Leigh.”
Tiếng ti vi oang oang trong nhà vọng ra.
Người phụ nữ liếc nhìn tấm danh thiếp nhưng không cầm lấy, “Thế giờ cô muốn gì? Nếu định đòi tiền thuê nhà thì hôm qua tôi đã ra bưu điện chuyển rồi.” Bà ta khoanh hai tay lại trước bộ ngực gầy đét như muốn thách thức Roz dám tranh cãi về thông tin ấy.
“Tôi không phải người của ủy ban, bà O’Brien ạ.” Bỗng nhiên cô có cảm giác người phụ nữ này không biết đọc. Trừ số điện thoại và địa chỉ ra, danh thiếp của Roz chỉ đề tên và nghề nghiệp. Nhà văn, trên đó đã ghi rất rõ. Cô bèn lấy ra một tờ bướm, “Tôi làm cho một công ty truyền hình tư nhân quy mô nhỏ,” cô vui vẻ nói, đầu óc chạy đua với thời gian để nặn ra một cái cớ hợp lý nhưng vẫn đủ hấp dẫn, “Tôi đang tìm kiếm những hoàn cảnh khó khăn, tiêu biểu là những ông bố bà mẹ đơn thân phải cáng đáng cả gia đình đông người. Chúng tôi đặc biệt quan tâm tới những bà mẹ gặp khó khăn trong việc kìm giữ các cậu con trai khỏi gây ra rắc rối. Xã hội sẵn sàng chỉ trích, kết tội họ, nhưng chúng tôi cảm thấy đã đến lúc phải lấy lại công bằng cho họ.” Nhận thấy người đàn bà vẫn đờ mặt ra, cô giải thích, “Chúng tôi muốn trao cho những bà mẹ như thế một cơ hội để trải lòng mình. Có vẻ cuộc sống của họ liên tục bị sách nhiễu và can thiệp bởi những người có thẩm quyền như ủy ban Công tác Xã hội, cảnh sát… Hầu hết các bà mẹ chúng tôi từng trao đổi đều cảm thấy nếu mình được yên thân thì sẽ chẳng có rắc rối nào xảy ra cả.”
Một tia thoáng lóe lên trong mắt bà ta, “Đúng đấy.”
“Bà có sẵn sàng tham gia với chúng tôi không?”
“Để xem đã. Ai cử cô đến đây vậy?”
“Chúng tôi cũng đang thực hiện một số nghiên cứu ở tòa án địa phương,” cô liến thoắng. “Cái tên O’Brien xuất hiện khá thường xuyên.”
“Cũng chẳng có gì đáng sửng sốt. Tôi có được trả công không?”
“Tất nhiên rồi. Tôi cần nói chuyện với bà trong khoảng một giờ để hiểu rõ quan điểm của bà. Và bà sẽ nhận ngay khoản tiền mặt là 50 bảng.” Bà mẹ này sẽ chẳng đời nào chịu đồng ý với mức giá thấp hơn, cô thầm nghĩ, “Và nếu chúng tôi thấy đóng góp của bà xứng đáng và bà đồng ý lên hình, chúng tôi sẽ trả mức giá theo giờ tương đương khi quay phim đến.”
Bà ta mím đôi môi mỏng dính, “Đúng một trăm nà tôi đồng ý niền”.
Roz lắc đầu. 50 bảng đã làm cô rỗng túi rồi, “Xin lỗi, đó là mức quy định. Tôi không được phép trả thêm.” Cô nhún vai, “Thôi xin phép vì đã làm phiền bà. Cảm ơn bà, thưa bà O’Brien. Tôi vẫn còn ba gia đình nữa trong danh sách. Tôi tin chắc một trong số họ sẽ nắm lấy cơ hội đứng lên đòi lại công bằng và nhận được một số tiền xứng đáng với công sức bỏ ra.” Cô quay đi, “Hãy nhớ đón xem chương trình nhé,” cô gọi với qua vai, “Chắc bà sẽ thấy vài người hàng xóm của mình trên đó đấy.”
“Đừng vội thế chứ, tôi đã nói không đâu? Nhưng họa nà thằng ngu mới không thử mặc cả thêm. Vào đi. Mà cô vừa bảo tên mình nà gì ấy nhỉ?”
“Rosalind Leigh”. Cô theo bà ta vào phòng khách và ngồi xuống ghế trong lúc người đàn bà nhỏ thó tắt ti vi và bâng quơ phủi đám bụi không hề tồn tại ở đó. “Căn phòng đẹp quá,” Roz cẩn thận tránh lộ ra vẻ ngạc nhiên trong giọng nói. Bộ ba chiếc ghế bành bằng da mịn màu đỏ vang quây xung quanh tấm thảm Trung Hoa màu hồng và xám nhạt.
“Đều nà đồ mua về cả đấy,” bà mẹ vội nói.
Trong khoảnh khắc, cô hoàn toàn không nghi ngờ gì. Nếu cảnh sát dành khá nhiều thời gian ở nhà bà ta như Hawksley đã ám chỉ, hẳn bà ta sẽ không đời nào dám trưng ra những món đồ trộm cướp. Cô lấy máy ghi âm, “Bà không phiền nếu tôi ghi âm lại cuộc trao đổi này chứ? Nó sẽ rất hữu ích cho nhân viên phụ trách âm thanh của chúng tôi khi cần chỉnh lại để dựng phim, nhưng nếu việc sử dụng micro khiến bà không thoải mái thì tôi sẵn lòng ghi chép bằng tay.”
“Cứ theo ý cô đi,” bà ta ngồi xuống sofa. “Tôi không sợ micro. Chúng tôi thường hát karaoke ở nhà hàng xóm. Cô sẽ đưa ra câu hỏi hay thế nào?”
“Có vẻ làm vậy sẽ thuận tiện cho cả hai đấy nhi? Trước hết, tôi muốn hỏi bà chuyển đến ngôi nhà này từ khi nào?”
“À, dãy nhà này đã được xây dựng từ cách đây hai mươi năm rồi, khoảng đó, và chúng tôi nà gia đình đầu tiên chuyển đến. Nhà tôi có sáu người, tính cả chồng tôi, nhưng một thời gian ngắn sau thì não bị tóm và đến nay vẫn bặt vô âm tín. Não khốn đó đã bỏ đi khi được thả.”
“Vậy là bà có bốn người con?”
“Bốn đứa ở nhà, năm đứa đem cho nàm con nuôi. Chính quyền cứ thích can dự vào chuyện của người khác, như cô đã nói đấy. Họ tách những đứa nhỏ tội nghiệp khỏi mẹ chúng nà tôi đây. Thật khiến người ta phát ốm. Chúng cần mẹ đẻ, chứ đâu có phải mấy bà mẹ nuôi chỉ nhận chúng vì tiền.” Bà ta vòng tay ôm lấy mình, “Nhưng tôi nuôn đón chúng trở về. Chúng nuôn xuất hiện trước cửa nhà, đều như vắt chanh, dù có bị đưa đi bao nhiêu nần chăng nữa. Chính quyền tìm đủ mọi cách để chia rẽ mẹ con chúng tôi, thậm chí còn dọa dẫm rằng sẽ chỉ cho tôi ở căn hộ một phòng ngủ.” Bà ta khịt mũi, “Quấy rối, như cô nói đấy. Tôi nhớ một nần…”
Chẳng cần ai thúc giục, bà ta vẫn lan man kể câu chuyện đời mình với sự trôi chảy đáng ngạc nhiên trong gần bốn mươi lăm phút đồng hồ. Roz hoàn toàn bị cuốn hút. Có lẽ cô phải lược bỏ ít nhất 50% những gì mình được nghe, cơ bản là vì bà mẹ cứ vô thức nhắc đi nhắc lại rằng lũ con trai bà ta đã từng và luôn luôn là nạn nhân vô tội trong tay cảnh sát. Ngay cả những người khờ dại cả tin nhất cũng khó lòng tiêu hóa được thông tin ấy. Tuy thế, giọng điệu kiên cường mỏi lần nhắc đến gia đình mình của bà ta khiến Roz hoài nghi liệu bà ta có thực sự nhẫn tâm như Lily kết tội. Chắc chắn bà ta tự khắc họa mình là một nạn nhân khốn khổ bị hoàn cảnh xô đẩy, mặc dù Roz không thể biết chính xác bà ta thực sự tin như thế hay chỉ đang nói những điều Roz muốn nghe. Cô kết luận, bà mẹ này thông minh hơn rất nhiều so với tưởng tượng của cô.
Cuối cùng, cô đành cắt ngang, “Được rồi, bà O’Brien, để xem tôi hiểu đúng ý bà không nhé. Bà có hai người con gái, cả hai đều đang làm mẹ đơn thân giống như bà, và đều được chính quyền cấp nhà. Bà có bảy người con trai. Ba người hiện tại đang ở tù, một người đang sống cùng bạn gái, và ba người còn lại đang sống ở đây. Con trai cả là Peter, 36 tuổi, và con út là Gary, 25.” Cô huýt sáo, “Có gì đó không đúng. Chín đứa con trong vòng mười một năm.”
“Hai nần sinh đôi ở giữa. Mỗi nần đều một trai một gái. Chẳng dễ dàng gì.”
Quá cực nhọc là đằng khác, Roz nghĩ thầm. “Bà có muốn có nhiều con như vậy không?” Cô tò mò hỏi, “Tôi chẳng thể nào nghĩ ra điều gì tồi tệ hơn việc sinh tới chín đứa con.”
“Cũng chẳng nàm khác được, cô gái ạ. Thời đó chưa có nạo phá thai.”
“Sao bà không sử dụng biện pháp tránh thai?”
Trước ánh mắt ngạc nhiên của cô, bà ta đỏ mặt. “Chẳng thể sử dụng nổi ấy chứ,” bà ta vội nói. “Não già đã cố dùng cái cao su một nần nhưng không thích và từ đó chẳng bao giờ dùng nữa. Não già chết tiệt. Não chẳng quan tâm tôi có dính bầu hay không.”
Roz định hỏi tại sao bà ta không dùng các biện pháp khác thì chợt hiểu ra nguyên nhân. Nếu bà ta không biết đọc, và lại quá xấu hổ không dám hỏi ai về cách sử dụng, thì những biện pháp ấy cũng thành vô dụng. Lạy Chúa lòng lành, cô nghĩ thầm, chỉ một chút giáo dục thôi cũng đủ giúp vận mệnh của đất nước này đi lên nhờ cứu rỗi được một gia đình. “Đàn ông là thế mà,” cô khẽ nói, “Tôi thấy một chiếc mô tô bên ngoài. Có phải xe của con trai bà không?”
“Xe mua đấy,” người đàn bà cố kiềm chế nhưng vẫn tỏ rõ sự bực bội. “Xe của Gary. Cái xe điên rồ, cả nó cũng thế. Hồi trước cả ba thằng đều có mấy cái xe như thế, giờ chỉ còn mình Gary. Mấy đứa đang nàm cho một công ty vận chuyển thì nũ cớm khốn nạn bỗng nhúng tay vào và chúng bị thôi việc. Thật bất công, đơn giản vậy thôi. Nàm sao người ta có thể yên ổn nàm việc được nếu cảnh sát cứ vẫy vẫy hồ sơ tiền án trước mặt ông chủ của chúng chứ? Tất nhiên, chúng cũng mất nuôn mấy chiếc xe. Chúng mua trả góp và chẳng thể nào tiếp tục cáng đáng được nữa.”
Roz thông cảm hỏi han, “Lúc đó là khi nào? Gần đây à?”
“Năm có bão to. Tôi nhớ núc đó đang mất điện thì mấy thằng bé về nhà và nói chúng đã bị sa thải. Và chúng tôi còn duy nhất một cây nến.” Bà ta mím chặt môi, “Một buổi tối tệ hại khủng khiếp, thế đấy. Tuyệt vọng.”
Roz giữ biểu cảm trung lập nhất có thể. Rốt cuộc, Lily đã đúng, và Hawksley đã sai sao?
“Bão năm 1987,” cô nói. “Những trận đầu tiên.”
“Đúng nà như thế. Và hai năm sau nại có bão. Nần thứ hai mất điện cả tuần trời, và chúng tôi chẳng được đền bù gì dù phải chịu cảnh khổ sở. Tôi đã cố đòi, nhưng nũ khốn ấy bảo nếu tôi không trà số tiền còn nợ thì họ sẽ cắt nuôn các khoản viện trợ, thức ăn và mọi thứ.”
“Phía cảnh sát có đưa ra lý do khi các con trai bà bị đuổi việc không?” Roz hỏi.
“Ha!” Bà mẹ khịt mũi, “Họ chẳng bao giờ đưa ra ní do cho bất cứ điều gì hết. Chỉ nà đối xử tàn nhẫn, bất công, thế thôi.”
“Họ làm việc cho công ty vận chuyển có lâu không?”
Đôi mắt già nua của bà mẹ nhìn cô đầy nghi ngờ, “Cô có vẻ quan tâm đến chúng quá nhỉ.”
Roz mỉm cười ngây thơ, “Chỉ đơn giản bởi việc đó chứng tỏ ba người con của bà đã cố gắng làm lại cuộc đời và gây dựng sự nghiệp cho mình. Chương trình sẽ rất thú vị nếu chúng tôi có thể cho khán giả thấy họ không thể nắm lấy cơ hội vì sự quấy rối của cảnh sát. Họ làm cho một công ty địa phương à?”
“Ở Southampton,” khóe miệng bà ta trễ xuống thành hình móng ngựa. “Cái tên nghe thật ngớ ngẩn. Wens-Fargo* gì đó. Nhưng não chủ nà một tên cao bồi tởm nợm nên có nẽ cái tên ấy cũng chẳng ngớ ngẩn nắm.”
Roz cố nén cười, “Công ty ấy vẫn đang hoạt động chứ?”
“Nần cuối cùng tôi nghe nhắc đến thì vẫn hoạt động. Thế đấy, đã hết một giờ rồi.”
“Cảm ơn, bà O’Brien.” Roz vỗ nhẹ vào máy ghi âm, “Nếu nhà sản xuất thích câu chuyện của bà thì có thể tôi sẽ quay lại và hỏi thêm các cậu con trai. Như vậy có được không?”
“Tôi chẳng thấy có gì không được cả. Đời nào chúng từ chối 50 bảng cơ chứ.” Bà mẹ giơ tay.
Làm ra vẻ nghiêm túc, Roz móc ví lấy hai tờ 20 bảng và một tờ 10 bảng, đặt vào lòng bàn tay nhăn nheo đang chìa ra trước mặt. Rồi cô bắt đầu thu dọn đồ đạc của mình.
“Tôi nghe nói khu Dawlington khá nổi tiếng.” Cô gợi chuyện.
“Thế sao?”
“Tôi nghe kể Olive Martin đã giết mẹ và em gái mình chỉ cách đây nửa dặm xuôi theo đường này.”
“À, ờ,” bà mẹ nói cụt lủn rồi đứng lên. “Một con bé nạ nùng. Tôi từng biết con bé đó khá rõ. Tôi chuyên dọn dẹp cho gia đình Martin khi nó và em gái còn bé. Nó chết mê chết mệt Gary nhà này. Cứ coi thằng bé như búp bê của nó mỗi nần tôi dẫn thằng bé đi cùng. Chúng nó chỉ cách nhau ba tuổi nhưng trông con bé nớn gấp đôi thằng con trai bé bỏng gầy còm của tôi vậy. Một con bé nạ nùng.”
Roz vờ như bận rộn sắp xếp đồ đạc vào cặp táp, “Lúc nghe tin về vụ án mạng hẳn bà đã choáng váng lắm. Nếu bà biết rõ về gia đình đó như vậy.”
“Tôi cũng chẳng suy nghĩ gì mấy. Tôi chỉ ở đó sáu tháng. Chưa bao giờ ưa bà mẹ. Bà ta chỉ nhận tôi vào để làm bộ làm tịch thôi, sau đó lại đuổi tôi ngay khi phát hiện ra chồng tôi đi tù.”
“Còn Olive thì thế nào? Có gây sự và đánh Gary không?”
Bà mẹ cười khùng khục, “Hay cho thằng bé mặc váy yếm của em gái nó. Chúa ơi, trông thằng bé núc đó thật kinh khủng. Như tôi nói rồi đấy, nó nâng niu thằng bé hệt như một con búp bê.”
Roz đóng khóa trên cặp táp rồi đứng dậy, “Bà có ngạc nhiên không khi cô ta trở thành một kẻ sát nhân?”
“Cũng chẳng ngạc nhiên nắm. Người ta vẫn thường hành xử nạ nùng mà.” Bà ta tiễn Roz ra cửa trước và chống nạnh đứng đó đợi cô rời đi.
“Đó sẽ là phần mở đầu ấn tượng cho chương trình này,” Roz lơ đãng nói. “Như vậy Gary đã từng được coi là búp bê của một nữ sát nhân nổi tiếng. Cậu ấy có nhớ cô ta không?”
Người đàn bà lại cười khùng khục, “Tất nhiên nà nhớ. Thằng bé từng nàm bồ câu đưa thư cho con bé đó và người tình trong mộng của nó, phải không nhỉ? Khi cô ta còn nàm việc cho Phòng Y tế và An ninh Xã hội.”
Roz lái thẳng đến trạm điện thoại gần nhất. Nếu cô cố nhử bà O’Brien nói ra thông tin về địa chỉ của Gary, bà ta sẽ không muốn hoặc không thể tiết lộ thêm, có khi còn lập tức đóng sầm cửa lại trước mặt cô cũng nên. Roz gọi đến tổng đài và hỏi về văn phòng Wells- Fargo ở Southampton, rồi dùng 50 xu cuối cùng để gọi đến số điện thoại cô vừa được cung cấp. Một giọng phụ nữ buồn tẻ ở đầu dây bên kia cho cô biết địa chỉ công ty và chỉ dẫn đường đến đó, rồi chốt lại, “Chúng tôi sẽ đóng cửa sau bốn mươi phút nữa.”
Nhờ việc đỗ xe vào vạch kẻ đôi màu vàng và phớt lờ viễn cảnh phải nhận một vé phạt đỗ xe sai quy định, Roz đã tới được văn phòng Wells-Fargo sớm mười phút trước giờ đóng cửa. Nơi này khá tồi tàn, phải đi qua lối vào giữa hai cửa hàng và bước lên một cầu thang không trải thảm. Hai khóm mai địa thảo còi cọc và tấm lịch Pirelly đã cũ xỉn là những điểm nhấn duy nhất trên nền tường màu vàng. Chủ nhân của giọng nói tẻ ngắt lúc nãy là một phụ nữ trạc ngũ tuần và trông vẻ ngoài cũng tẻ ngắt như vậy. Có lẽ bà ta đang mòn mỏi đếm ngược từng giây từng phút cho đến kì nghỉ cuối tuần.
“Chúng tôi thường không có nhiều khách hàng đến đây lắm,” bà ta vừa nói vừa giũa móng tay. “Ý tôi là nếu họ có thể mang kiện hàng đến tận đây thì chẳng thà họ tự chuyển chúng đi cho rồi.” Đó là một lời buộc tội, như thể bà ta cảm thấy Roz đang làm lãng phí thời gian của công ty. Bà ta ngừng việc giũa móng và chìa một tay ra, “Hàng gì thế và chuyển đi đâu?”
“Tôi không phải khách hàng,” Roz nói. “Tôi là một nhà văn và tôi hi vọng bà sẽ cung cấp một vài thông tin giúp tôi hoàn thiện cuốn sách mình đang viết.” Nét phấn khích hiển hiện trên khuôn mặt người phụ nữ. Roz kéo một chiếc ghế ra phía trước và ngồi xuống, “Bà đã làm việc ở đây bao lâu rồi?”
“Cũng lâu rồi. Sách về thể loại gì thế?”
Roz chăm chú nhìn bà ta, “Bà có nhớ Olive Martin không? Cô ta đã sát hại mẹ và em gái ở Dawlington sáu năm trước.” Qua ánh mắt, Roz nhận thấy bà ta đã ngay lập tức nhớ ra. “Tôi đang viết một cuốn sách về cô ta.”
Người phụ nữ lại tiếp tục giũa móng mà không nói gì cả.
“Bà có biết cô ta không?”
“Chúa ơi, không.”
“Bà không biết gì về cô ta sao? Trước vụ án mạng cũng thế sao? Tôi nghe kể một trong số các nhân viên vận chuyển của công ty này đã giúp giao thư cho cô ta.” Đó là sự thật. Rắc rối duy nhất là cô không biết liệu Gary có làm việc cho Wells-Fargo vào thời điểm đó hay không.
Cánh cửa thông với văn phòng bên trong bật mở và một người đàn ông hùng hổ bước ra. Ông ta nhìn Roz, “Có phải cô gái này muốn gặp tôi không, Marnie?” Mấy ngón tay của ông ta vô thức vuốt lên vuốt xuống chiếc cà vạt, giống như đang chơi kèn clarinet.
Chiếc giũa móng tay biến mất khỏi tầm mắt, “Không, thưa ông Wheelan. Cô ấy là một người quen của tôi. Ghé qua xem tôi có thời gian đi uống nước cùng cô ấy trước khi về nhà không ấy mà.” Bà ta trân trối nhìn Roz, đôi mắt cầu khẩn sự trợ giúp, với biểu cảm toát lên vẻ thân quen kì lạ như thể hai người vừa chia sẻ một bí mật.
Roz mỉm cười hòa nhã và nhìn vào đồng hồ đeo tay, “Cũng gần 6 giờ rồi. Nửa tiếng chắc không muộn quá đâu nhỉ?”
Người đàn ông xua xua tay.
“Vậy hai người đi đi, tối nay tôi khóa cửa cho.” Ông ta dừng ở lối đi, trán nhăn lại vẻ lo lắng, “Cô không quên cử ai đó chuyển món hàng của Hasler đấy chú?”
“Không, thưa ông Wheelan. Eddy đã đi từ hai giờ trước rồi.”
“Tốt, tốt. Chúc cuối tuần vui vẻ. Thế còn đơn hàng của Prestwick?”
“Xong hết rồi, thưa ông Wheelan. Không còn vấn đề gì tồn đọng cả.” Marnie nhướng mát nhìn lên trời khi ông ta đóng cánh cửa lại sau lưng. “Ông ta làm tôi phát điên. Lúc nào cũng nhặng xị hết cả lên. Đi nào, nhanh lên, trước khi ông ta đổi ý. Tối thứ Sáu lúc nào cũng tệ hại nhất.” Bà ta lon ton bước qua cửa và bắt đầu xuống cầu thang, “Ông ta ghét cuối tuần, ông ta nghĩ nghỉ hai ngày liên tục không có đơn hàng sẽ khiến việc làm ăn đình trệ. Ông ta mắc chứng hoang tưởng. Bắt tôi phải làm việc vào sáng thứ Bảy cả năm ngoái cho đến khi nhận ra ngồi đó cũng chẳng ích gì vì không có văn phòng đối tác nào mở cửa vào thứ Bảy cả.” Bà ta đi qua cánh cửa cuối cùng và bước ra vỉa hè, “Xem nào, chúng ta có thể quên vụ nước non đi. Tôi muốn được về nhà đúng giờ một lần trong đời.” Bà ta nhìn Roz, chờ đợi phản ứng của cô.
Roz nhún vai, “Tốt thôi. Tôi sẽ đi nói chuyện với ông Wheelan về Olive Martin. Có vẻ ông ta không bận gì cả.”
Marnie bồn chồn gõ chân xuống đường, “Cô sẽ khiến tôi bị đuổi việc mất.”
“Vậy thì bà hãy nói chuyện với tôi đi.”
Người phụ nữ mất một lúc lâu để cân nhắc, “Tôi sẽ nói với cô những gì tôi biết, miễn là cô phải giữ bí mật. Thống nhất như vậy được không? Cũng chẳng giúp được nhiều đâu, có khi cô chẳng dùng đến thông tin ấy cũng nên.”
“Được thôi,” Roz đáp.
“Chúng ta vừa đi vừa nói chuyện. Nhà ga ở hướng này. Nếu chúng ta nhanh chân thì tôi có thể bắt kịp chuyến tàu lúc 6 rưỡi.”
Roz túm lấy tay bà ta, “Xe của tôi ở đằng này. Tôi sẽ đưa bà đi.” Cô kéo Marnie qua đường và mở cửa bên ghế phụ, rồi qua bên ghế lái và nổ máy, “Được. Bắt đầu thôi.”
“Tôi có biết cô ta, hoặc ít nhất, tôi biết một người tên Olive Martin. Tôi không dám chắc có phải là cùng một người không bởi tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô ta, nhưng miêu tả khá khớp với những thông tin tôi đọc trên báo. Tôi luôn cho rằng đó là cùng một người.”
“Ai là người mô tả cho bà biết?” Roz hỏi, rẽ vào đường lớn. “Đặt câu hỏi sẽ chẳng ích gì đâu,” Marnie nói ngay, “Chỉ mất thời gian thôi. Cứ để tự tôi kể.” Bà ta sắp xếp lại những suy nghĩ trong đầu, “Như tôi đã nói đấy, chúng tôi hiếm khi gặp khách hàng. Đôi khi các giám đốc văn phòng trực tiếp đến để kiểm tra xem chúng tôi làm việc thế nào, nhưng bình thường, mọi giao dịch đều được thực hiện qua điện thoại. Vài khách hàng muốn chuyển thứ này thứ kia, họ gọi cho chúng tôi và chúng tôi cử một người giao hàng đến cho họ, chỉ đơn giản vậy thôi. Chà, vào một buổi trưa, khi Wheelan ra ngoài ăn sandwich, người đàn ông đó đi vào văn phòng. Ông ta có một lá thư muốn giao vào chiều cùng ngày cho cô Olive Martin. Ông ta sẵn sàng trả thêm tiền nếu người giao hàng chịu chờ ở ngoài trong giờ làm việc và lặng lẽ giao thư khi cô ta rời cơ quan. Ông ta nhấn mạnh rằng không được đưa thư vào văn phòng của cô gái kia và nói rằng ông ta tin tôi hiểu lý do tại sao.”
Roz buột miệng hỏi, “Vậy bà có hiểu không?”
“Tôi đoán hai người đang có mối quan hệ bí mật và không muốn người khác nghi ngờ. Dù sao thì, ông ta đưa tôi tờ 20 bảng cho một lá thư. Ông ta mô tả cặn kẽ về Olive Martin, chính xác đến cả trang phục cô ta mặc hôm đó. Chà, tôi nghĩ đây là dịp may hiếm có. Lão già Wheelan luôn keo kiệt về vấn đề lương thưởng dù việc kinh doanh có tốt đến đâu, nên tôi bỏ túi luôn chỗ tiền và không ghi lại giao dịch. Tôi gọi một trong số những người giao hàng của chúng tôi sống ở Dawlington và bảo cậu ta tiện ghé qua chỗ Olive trên đường về nhà, cũng coi như làm thêm. Như thế cậu ta sẽ nhận được 10 bảng trong khi chẳng phải làm gì cả và tôi giữ 10 bảng còn lại.” Bà ta đưa tay ra hiệu, “Cô rẽ phải ở đèn đỏ tiếp theo rồi lại rẽ phải ở chỗ vòng xuyến.”
Roz làm theo chỉ dẫn, “Có phải Gary O’Brien không?”
Marnie gật đầu, “Tôi đoán thằng bé đã nói cho cô biết.”
“Gần như thế,” Roz tránh trả lời trực tiếp. “Gary đã bao giờ gặp người đàn ông kia chưa?”
“Không, chỉ Olive gặp thôi. Hóa ra Gary đã biết cô ta từ trước. Olive đã từng chăm sóc cậu ta khi còn nhỏ hay gì đó. Thế nên, chẳng mấy khó khăn để nhận ra cô ta và giao thư đúng địa chỉ, dù tôi rất lo cậu ta sẽ làm hỏng chuyện, vì Gary hậu đậu kinh khủng. Cho tôi xuống ở đây được rồi.” Bà ta liếc nhìn đồng hồ đeo tay trong lúc Roz bẻ lái vào chỗ dừng. “Tuyệt vời! Được rồi, kết quả là phi vụ trót lọt và gã đàn ông của Olive bắt đầu nhờ đến chúng tôi thường xuyên. Chúng tôi đã giao tất cả mười lá thư trong vòng sáu tháng trước vụ án mạng. Tôi nghĩ hẳn ông ta cũng nhận ra chúng tôi lén lút làm việc ngoài lề, bời ông ta luôn đến vào giờ ăn trưa sau khi Wheelan ra ngoài. Hẳn ông ta đợi Wheelan đi khỏi rồi mới vào.” Bà ta nhún vai, “Việc thư từ qua lại kết thúc cùng với vụ án và chúng tôi không bao giờ nhìn thấy ông ta nữa. Đó là tất cả những gì tôi có thể kể với cô. Gary vô cùng lo lẳng sau khi Olive bị bắt và nói rằng chúng tôi phải kín miệng nếu không sẽ bị cảnh sát hành đến chết mất. Chà, tôi cũng chẳng muốn nói ra đâu, không phải vì cảnh sát mà vì Wheelan. Ông ta sẽ giận sôi máu nếu phát hiện chúng tôi lén lút đút túi sau lưng mình.”
“Nhưng chẳng phải cảnh sát đã xuất hiện khoảng một tháng sau đó để cảnh báo ông Wheelan về anh em nhà O’Brien hay sao?”
Marnie có vẻ ngạc nhiên, “Ai bảo cô thế?”
“Mẹ của Gary.”
“Lần đầu tiên nghe nói đấy. Theo tôi được biết thì chỉ là họ thấy chán thôi. Gary không đến nỗi tệ lắm vì cậu ta yêu chiếc mô tô của mình nhưng hai gã còn lại là những kẻ lười biếng và ghét lao động nhất mà tôi từng gặp. Cuối cùng, họ nghỉ làm nhiều quá đến nỗi Wheelan đuổi việc họ. Đó là quyết định duy nhất của ông ta mà tôi đồng tình. Chúa ơi, không thể tin tưởng được bọn họ.” Bà ta lại xem đồng hồ, “Nói thật lòng, tôi thấy ngạc nhiên khi Gary chuyển thư cho Olive chu đáo như thế. Tôi đã băn khoăn liệu có phải cậu ta có cảm tình với cô gái không.” Bà ta mở cửa xe, “Tôi phải đi đây.”
“Chờ đã,” Roz kiên quyết gọi. “Người đàn ông đó là ai?”
“Không biết. Chúng tôi chỉ nhận tiền mặt và ông ta chưa bao giờ nói tên.”
“Trông ông ta thế nào?”
“Tôi sẽ trễ tàu mất.”
Roz nghiêng người sang đóng cửa lại, “Bà còn mười phút và nếu bà không mô tả cụ thể cho tôi nghe về người đàn ông, tôi sẽ đi thẳng về văn phòng của bà, sau đó tiết lộ mọi chuyện cho Wheelan đấy.”
Marnie nhún vai hờn dỗi, “Khi đó, ông ta chừng hơn năm mươi, đủ già để làm bố Olive nếu tuổi cô ta đúng như lời ông ta mô tả. Trông cũng ưa nhìn, kiểu hơi giả tạo, tinh tươm và chải chuốt. Ông ta nói giọng khá chuẩn, nghiện thuốc, và luôn mặc com lê cà vạt. Cao trên mét tám và tóc vàng. Rất kiệm lời, luôn đợi chúng tôi lên tiếng trước, không bao giờ mỉm cười, không bao giờ tỏ ra vui vẻ. Tôi nhớ đôi mắt ông ta bởi vì chúng không giống màu tóc. Chúng có màu nâu đậm. chỉ thế thôi,” bà ta quả quyết. “Tôi không biết gì thêm về ông ta và tôi cũng chẳng biết gì về cô ta hết.”
“Nếu nhìn ảnh thì bà sẽ nhận ra ông ta chứ?”
“Có lẽ. Cô biết ông ta à?”
Roz gõ mấy ngón tay trên vô lăng, “Nghe thật vô lý nhưng có vẻ người đó chính là bố cô ta.”