Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Chương 9: Sương Mù
M
ặt trời khuất sau màn mây màu xám thép đã trườn xuống rất thấp trên vịnh Oslo, và cơn gió Nam đang giật gần tới cấp độ bão, như một khúc dạo đầu cho cơn mưa đã được dự báo. Máng nước trên các mái nhà rít lên và các mái hiên di động bay phần phật suốt dọc phố Kirkeveien. Cây cối giờ đây đã trụi sạch lá; như thể những màu sắc cuối cùng đã bị rút mất khỏi thành phố và Oslo chỉ còn lại hai màu trắng và đen. Harry cắm cúi bước ngược chiều gió và cho tay vào túi để giữ chặt lấy áo khoác. Anh nhận thấy cái nút áo cuối đã tuột mất, có lẽ là từ tối hoặc đêm qua, và nó không phải là thứ duy nhất bị mất. Khi định gọi cho Anna để nhờ cô giúp tái hiện lại buổi tối hôm qua thì anh mới phát hiện ra là điện thoại di động của anh cũng đã mất. Và khi gọi cho cô bằng điện thoại cố định, anh nghe thấy một giọng nói lờ mờ nhắc anh nhớ tới một người dẫn chương trình từ ngày xưa. Nó thông báo rằng số máy anh vừa gọi hiện không liên lạc được, nhưng anh có thể để lại số hoặc tin nhắn. Anh chẳng buồn làm vậy.
Harry mau chóng tỉnh rượu và ngạc nhiên khi thấy chẳng khó gì cưỡng lại cơn thèm uống, cưỡng lại nỗi hối thúc đi đoạn đường ngắn tới quán Vinmonopolet hay Schrøder. Thay vào đó, anh đi tắm, mặc quần áo, rồi đi bộ từ phố Sofies qua sân vận động Bislett, qua phố Pilestredet, rồi phố Stenspark và sang đường ở phố Majorstuen. Anh tự hỏi là mình đã uống loại rượu gì. Không thấy những cơn đau bụng tất yếu của một chai whisky có chữ ký của Jim Beam, chỉ có một màn sương bao phủ lên anh và che mờ mọi giác quan của anh, ngay cả những cơn gió dữ dội mới thổi tới cũng không thể xua nó đi.
Hai xe tuần tra cảnh sát có đèn xanh xoay tít đang đỗ bên ngoài chi nhánh ngân hàng Den norske. Harry chìa thẻ căn cước cho một sĩ quan mặc quân phục rồi chui qua dải băng ngăn đường của cảnh sát và đi tới chỗ cửa nơi Weber đang nói chuyện với một thuộc cấp ở bên Krimteknisk, Phòng Giám định Pháp y.
“Chào buổi chiều, ngài thanh tra,” Weber nói, nhấn mạnh vào chữ ‘buổi chiều’. Ông ta nhướn mày khi thấy quầng thâm ở mắt của Harry. “Bắt đầu bị bà xã nện à?”
Harry không kịp nghĩ ra câu gì để đối đáp lại, bèn lấy một điếu thuốc lá trong bao ra. “Ở đây có gì nào?”
“Một gã đeo mặt nạ với một khẩu AG3.”
“Và đã cao chạy xa bay?”
“Bay rất xa.”
“Đã ai nói chuyện với nhân chứng chưa?”
“Có rồi. Hai đồng nghiệp họ Li đang bận rộn ở Sở Cảnh Sát.”
“Đã biết được những chi tiết nào về vụ việc chưa?”
“Tên cướp cho bà trưởng chi nhánh hai mươi lăm giây để mở khóa cây ATM trong lúc hắn gí súng vào đầu một nữ giao dịch viên.”
“Và hắn bắt cô ta phải nói thay mình?”
“Đúng thế. Và khi hắn đi vào ngân hàng, hắn lặp lại chính xác những từ tiếng Anh đó.”
“Cướp đây. Không ai được nhúc nhích!” một giọng nói đột ngột vang lên sau lưng họ, sau đó là một tiếng cười ngắn, đứt quãng. “Anh đến được tốt quá, Hole. Ôi trời, bị trượt chân trong nhà tắm hả?”
Harry một tay châm thuốc, tay kia chìa hộp thuốc cho Ivarsson nhưng ông ta lắc đầu. “Thói quen xấu, anh Hole ạ.”
“Đúng thế.” Harry đút bao thuốc lá Camel vào túi áo trong. “Đừng bao giờ mời thuốc lá mà phải đoán trước rằng một quý ông sẽ tự mua cho chính mình. Benjamin Franklin đã nói thế.”
“Vậy ư?” Ivarsson hỏi, phớt lờ Weber đang cười ngoác miệng. “Anh hiểu biết quá, Hole ạ. Có lẽ anh biết là tên cướp lại vừa gây án - đúng như chúng tôi đã nói chứ?”
“Làm sao ông biết được đó chính là hắn?”
“Như có lẽ anh đã nghe nói, vụ cướp lần này giống y đúc vụ cướp xảy ra ở Bogstadveien.”
“Vậy ư?” Harry nói, hít một hơi sâu. “Vậy thì xác chết đâu?”
Ivarsson và Harry nhìn thẳng vào mắt nhau. Hàm răng bò sát lại lấp lánh. Weber vội chen vào: “Người trưởng chi nhánh đã làm rất nhanh. Bà ta đã lấy tiền ra trong vòng hai ba giây.”
“Không có nạn nhân nào bị giết,” Ivarsson nói. “Thất vọng sao?”
“Không,” Harry đáp, phì khói ra đằng mũi. Một cơn gió mạnh ào tới xua tan đám khói. Nhưng đám sương mù trong đầu anh vẫn không chịu tan đi.
○○○
Halvorsen đang nhìn Silvia bèn ngước lên khi thấy cửa mở.
“Cậu pha ngay cho tôi một cốc cà phê đen đặc nhé?” Harry nói rồi ngồi phịch xuống ghế.
“Và xin chào buổi sáng nữa,” Halvorsen nói. “Trông anh kinh quá.”
Harry úp mặt vào lòng bàn tay: “Tôi chẳng nhớ được cái quái gì về chuyện đã xảy ra đêm qua. Tôi không biết mình đã uống phải cái gì, nhưng tôi sẽ không bao giờ để một giọt nào lọt vào miệng nữa.”
Anh nhìn hé qua kẽ tay thì thấy cậu đồng nghiệp trán cau lại với đường hằn rõ sâu, có vẻ lo lắng.
“Bình tĩnh đi, Halvorsen, việc nhỏ thôi mà. Giờ thì tôi tỉnh như sáo rồi.”
“Đã xảy ra chuyện gì?”
Harry cười nhạt. “Đống thức ăn trong dạ dày cho biết là tôi đã ăn tối với một người bạn cũ. Tôi đã gọi điện vài lần để xác nhận điều đó nhưng cô ấy không nghe máy.”
“Cô ấy ư?”
“Đúng, cô ấy.”
“Một cảnh sát không khôn ngoan mấy, hả?” Halvorsen dè dặt hỏi.
“Cậu tập trung pha cà phê đi,” Harry làu bàu. “Chỉ là một cô bồ cũ. Trong sáng thôi.”
“Làm sao anh biết trong khi anh chẳng nhớ được chút gì?”
Harry xoa lòng bàn tay lên cái cằm chưa cạo, ngẫm nghĩ về điều mà Aune đã nói rằng ma túy chỉ có tác dụng tăng thêm những khuynh hướng tiềm tàng. Anh không rõ liệu mình có thấy được an ủi bởi điều đó không. Những chi tiết rời rạc bắt đầu xuất hiện. Một cái váy đen. Anna đã mặc một bộ váy đen. Và anh đang nằm trên cầu thang. Một người đàn bà đỡ anh dậy. Chỉ nhìn thấy một bên mặt. Giống như một bức chân dung mà Anna vẽ.
“Tôi vẫn hay mất trí nhớ tạm thời,” Harry nói. “Lần này cũng không có gì tệ hơn những lần khác cả.”
“Thế còn mắt anh?”
“Có lẽ là va vào tủ bếp khi về đến nhà hoặc đại loại như vậy.”
“Tôi không muốn khiến anh lo lắng, Harry, nhưng trông nó có vẻ nghiêm trọng hơn một cú va vào tủ bếp đấy.”
“Ừm,” Harry nói, đón lấy cốc cà phê bằng cả hai tay. “Trông tôi có phiền muộn gì lắm không? Những lần tôi say đến mức đánh lộn ai thì đó cũng là những người tôi không ưa ngay trong lúc tỉnh táo.”
“Mà tiện thể, Møller gửi lời nhắn cho anh đấy. Ông ấy bảo tôi nhắn anh là ổn rồi, nhưng không nói là cái gì ổn.”
Harry đảo ngụm cà phê trong miệng rồi mới nuốt xuống. “Rồi cậu sẽ biết thôi, Halvorsen, rồi cậu sẽ biết.”
○○○
Vụ cướp ngân hàng được nhóm điều tra mổ xẻ tại buổi họp chỉ thị ở Sở Cảnh sát chiều hôm đó. Didrik Gudmundson báo cáo rằng từ lúc chuông báo động kêu tới lúc cảnh sát đến nơi là ba phút, nhưng lúc đó tên cướp đã chạy xa khỏi hiện trường. Ngoài việc lập tức huy động xe tuần tra phong tỏa và chặn hết các phố lân cận; trong vòng mười phút sau đó, họ đã lập hàng rào chặn bắt trên những tuyến đường giao thông chính: đường E18 gần khu ngoại ô Fornebu, đường Ring 3 gần sân vận động Ulleval, đường Trondheimsveien gần bệnh viện Aker, đường Griniveien ở khu ngoại ô Bærum và ngã tư gần quảng trường Carl Berners. “Tôi ước gì chúng ta có thể gọi đây là một hàng rào thép, nhưng các anh cũng biết vấn đề nhân sự của chúng ta hiện nay rồi đấy.”
Toril Li đã thẩm vấn một nhân chứng báo rằng đã nhìn thấy một người đàn ông đội mũ trùm đầu nhảy vào ghế hành khách của một chiếc xe Opel Ascona màu trắng chờ sẵn trên đường Majorstuveien. Chiếc xe lập tức vòng sang trái đi thẳng qua đường Jacob AAlis. Magnus Rian nói có một nhân chứng khác đã thấy một chiếc xe trắng, có lẽ là một chiếc Opel, lái vào một ga ra ở Vindern và ngay sau đó một chiếc Volvo màu xanh phóng ra khỏi đó. Ivarsson nghiên cứu tấm bản đồ treo trên cái bảng trắng.
“Nghe cũng có lý. Ola, phát báo động cả cho những chiếc Volvo màu xanh nữa. Weber?”
“Những sợi vải dệt,” Weber nói. “Hai sợi vương phía sau quầy giao dịch mà hắn nhảy qua và một ở cạnh cửa ra vào.”
“Có thế chứ!” Ivarsson đấm tay vào không khí. Ông ta bắt đầu khệnh khạng đi vòng quanh bàn phía sau lưng họ khiến Harry thấy cực kỳ khó chịu. “Vậy là chúng ta chỉ việc tìm ra vài ứng viên. Chúng ta sẽ tung đoạn băng về vụ cướp đó lên mạng ngay khi Beate biên tập xong.”
“Làm thế có khôn ngoan không?” Harry hỏi, nhún đẩy cái ghế của anh ra phía sau chạm vào tường để chặn đường Ivarsson.
Sếp Đơn vị Chống Cướp nhìn anh ngạc nhiên. “Khôn ngoan ư? Chính xác thì chúng ta sẽ không phản đối bất cứ ai gọi tới để cung cấp tên của kẻ trong cuốn băng.”
Ola xen vào. “Ông có nhớ lần một bà mẹ gọi tới bảo bà vừa thấy con trai mình trong một video vụ cướp trên mạng không? Nhưng hóa ra hắn đã bị tống vào tù vì một vụ cướp khác?”
Mọi người cười rộ. Ivarsson cười mỉm. “Chúng ta sẽ không bao giờ gạt bỏ nhân chứng mới, anh Hole ạ.”
“Hoặc là một kẻ bắt chước mới?” Harry vòng hai tay ra sau đầu.
“Một kẻ bắt chước ư? Thôi nào, kiềm chế chút đi, Hole.”
“Ừm. Nếu hôm nay tôi mà đi cướp ngân hàng thì rõ ràng là tôi sẽ bắt chước tên cướp ngân hàng đang bị lùng sục gắt gao nhất ở Na Uy vào lúc này và chuyển hướng nghi ngờ về phía hắn. Toàn bộ chi tiết về vụ cướp trên phố Bogstadveien đều đã được đăng trên mạng cả.”
Ivarsson lắc đầu. “Tôi e là một tên cướp ngân hàng bình thường ngày nay không phức tạp đến thế đâu, anh Hole ạ. Có ai khác muốn giải thích cho Đội Hình sự nghe về dấu hiệu phân biệt đặc thù của một tên cướp ngân hàng đã có thâm niên không? Không ư? Ừm, hắn luôn - với sự chính xác kinh khủng - lặp lại những gì hắn đã làm trong những lần trót lọt trước đó. Chỉ khi nào thất bại - tức là không lấy được tiền hay bị bắt - thì hắn mới thay đổi cách thức.”
“Điều đó chứng minh cho giả định của ông, nhưng nó không loại trừ giả định của tôi,” Harry nói.
Ivarsson nhìn khắp lượt mọi người quanh bàn như muốn cầu viện. “Tốt thôi, anh Hole. Anh sẽ có cơ hội để kiểm tra giả định của mình. Thật ra, tôi đã quyết định thử nghiệm một cách tiếp cận mới. Cơ bản là một nhóm nhỏ sẽ làm việc độc lập, nhưng song hành, cùng với nhóm điều tra này. Ý tưởng này do FBI khởi xướng và nhằm mục đích tránh đi vào lối mòn, chỉ có một quan điểm trong một vụ án, vốn thường xuyên xảy ra với những nhóm cảnh sát lớn khi, do hữu ý hay vô tình, hình thành một sự nhất trí về những đặc điểm chính của cuộc điều tra. Nhóm nhỏ này có thể đưa ra một điểm mới vì họ làm việc độc lập và không chịu ảnh hưởng của nhóm lớn. Phương pháp này tỏ ra có hiệu quả trong những vụ án hóc búa. Tôi chắc chắn rằng hầu hết chúng ta ở đây đều đồng ý rằng thanh tra Harry Hole có sẵn những năng lực để là một thành viên của nhóm này.”
Tiếng cười hinh hích lan ra. Ivarsson dừng lại phía sau ghế của Beate. “Beat, cô sẽ tham gia cùng với Harry.”
Beate đỏ mặt. Ivarsson đặt tay lên vai cô như cha với con. “Nếu có gì không ổn, cô chỉ cần báo cáo lại.”
“Chắc chắn rồi,” Harry đáp thay.
○○○
Harry đang định mở cửa trước tòa chung cư của mình thì đổi ý và quay lại mười mét tới chỗ cửa hàng tạp hóa nhỏ nơi Ali đang bê những thùng rau quả từ vỉa hè vào.
“Chào anh, Harry! Đã đỡ chưa?” Ali cười toe toét và Harry nhắm mắt lại một giây. Đúng như anh đã sợ.
“Anh đã giúp tôi phải không, Ali?”
“Chỉ đưa anh lên phòng thôi. Khi mở cửa phòng xong thì anh bảo anh có thể tự lo.”
“Tôi đã về nhà bằng gì? Đi bộ hay là…”
“Taxi. Anh nợ tôi một trăm hai mươi krone.”
Harry rên lên và theo Ali vào cửa hàng. “Tôi xin lỗi, Ali. Thật lòng đấy. Anh kể vắn tắt lại cho tôi nghe, bỏ bớt những chi tiết đáng xấu hổ đi, được không?”
“Anh và người lái xe cãi nhau ngoài đường. Mà phòng ngủ của chúng tôi thì nằm ở hướng đó.” Anh ta nói thêm với nụ cười dễ mến: “Có cái cửa sổ ở đó thật kinh khủng.”
“Lúc đó là tầm nào?”
“Giữa đêm.”
“Anh thức dậy lúc năm giờ, Ali. Tôi không biết những người như anh nói giữa đêm là mấy giờ.”
“Mười một rưỡi. Ít ra là vậy.”
Harry hứa chuyện đó sẽ không bao giờ lặp lại nữa. Ali gật đầu lia lịa theo kiểu người ta vẫn hay gật khi nghe những chuyện mà họ đã thuộc lòng. Harry hỏi làm thế nào để cảm ơn anh ta cho xứng thì Ali bảo Harry có thể cho anh ta thuê lại cái kho không sử dụng của anh. Harry bảo anh sẽ nghĩ thêm về chuyện đó và trả tiền taxi cho Ali, mua một chai Coca, một túi mì ống và thịt viên.
“Thế là hết nợ nhé,” Harry nói.
Alie lắc đầu. “Còn lệ phí hằng quý nữa,” vị chủ tịch kiêm thủ quỹ và Ngài Sửa chữa của ban quản lý chung cư nói.
“Ôi, chết tiệt, tôi quên mất đấy.”
“Eriksen.” Ali mỉm cười.
“Đó là ai?”
“Một người viết thư cho tôi hỏi mùa hè năm ngoái. Ông ta hỏi tôi số tài khoản để trả tiền cho tháng Năm và tháng Sáu năm 1972. Ông ta cho rằng đó là lý do khiến ông ta mất ngủ suốt ba mươi năm qua. Tôi viết lại, trả lời rằng không ai ở tòa nhà này còn nhớ nổi ông ấy nên ông ấy không cần phải trả nữa.” Ali trỏ một ngón tay vào Harry. “Nhưng tôi không định làm thế với anh đâu.”
Harry giơ cả hai tay lên đầu hàng: “Mai tôi sẽ chuyển tiền cho anh.”
Việc đầu tiên Harry làm khi về tới căn hộ của mình là gọi lại vào số của Anna. Lại vẫn cái giọng trả lời tự động lần trước. Nhưng anh vừa mới trút túi mì ống và thịt viên vào chảo thì nghe thấy tiếng điện thoại réo át cả tiếng xèo xèo. Anh bèn chạy ra sảnh vồ lấy điện thoại.
“A lô!” anh nói như hét.
“Chào anh,” giọng phụ nữ quen thuộc cất lên phía đầu dây bên kia, có vẻ hơi giật mình.
“À, là em.”
“Vâng, thế anh nghĩ là ai?”
Harry nhắm nghiền hai mắt. “Công việc ấy mà. Vừa có một vụ cướp nữa.” Những lời nói đó có vị đắng như mật và cay như ớt. Cơn đau âm ỉ phía sau mắt lại tái phát.
“Em đã cố gọi vào di động cho anh,” Rakel nói.
“Anh bị mất điện thoại.”
“Mất ư?”
“Để quên đâu đó, hoặc là bị móc trộm. Anh cũng chẳng biết nữa, Rakel ạ.”
“Có chuyện gì trục trặc à, Harry?”
“Trục trặc á?”
“Nghe giọng anh có vẻ… căng thẳng.”
“Anh…”
“Ừm, sao?”
Harry hít vào. “Vụ xét xử thế nào rồi?”
Harry đang nghe nhưng không thể sắp xếp các từ theo trật tự thành câu có nghĩa. Anh nghe lõm bõm được mấy cụm từ “tình trạng tài chính”, “tốt nhất cho đứa trẻ” và “phân xử” và phỏng đoán là không có mấy tin tức mới. Cuộc gặp tiếp theo với luật sư đã bị hoãn đến thứ Sáu; Oleg vẫn ổn, nhưng đã chán ở khách sạn.
“Bảo với nó là anh đang mong hai mẹ con về đây,” anh nói.
Khi họ cúp máy, Harry đứng đó tự hỏi liệu anh có nên gọi lại không. Nhưng để làm gì? Để nói với cô rằng anh đã được một cô bồ cũ mời đến ăn tối mà anh lại chẳng hề nhớ chuyện gì đã xảy ra sao? Harry đặt tay lên chiếc điện thoại để bàn, nhưng chuông báo cháy trong bếp bỗng kêu rinh lên. Và khi anh vừa nhấc cái chảo xuống khỏi ngăn bên của bếp rồi mở toang cửa sổ ra thì điện thoại lại réo. Sau này, ngẫm lại Harry thấy rằng giá Bjarne Møller không gọi cho anh tối hôm đó thì mọi chuyện đã khác đi rất nhiều.
“Tôi biết là cậu vừa hết ca trực,” Møller nói, “Nhưng chúng ta đang hơi thiếu nhân sự, người ta vừa phát hiện ra một người phụ nữ chết trong căn hộ của mình. Có vẻ như cô ta dùng súng tự sát. Cậu ghé qua đây xem thế nào được không?”
“Tất nhiên rồi, thưa sếp. Hôm nay tôi nợ sếp mà. Mà nhân thể, Ivarsson đã nói ý tưởng điều tra song song là của ông ta đấy.”
“Thế cậu sẽ làm gì nếu cậu là sếp mà lại nhận một mệnh lệnh từ trên xuống như thế?”
“Mới nghĩ đến chuyện tôi là sếp đã thấy kỳ dị rồi, sếp ạ. Vậy tôi tới chỗ căn hộ đó thế nào?”
“Cứ ở nhà đi. Tôi sẽ qua đón cậu.”
Hai mươi phút sau, tiếng chuông chói tai hiếm khi nghe thấy làm Harry giật bắn người. Giọng nói lanh lảnh và bị méo tiếng do hệ thống điện thoại nội bộ báo rằng taxi đã tới, nhưng Harry vẫn cảm thấy rợn tóc gáy. Khi đi xuống cầu thang và thấy chiếc xe Toyota MR2 thể thao màu đỏ, gầm thấp, những nghi ngờ của anh đã được xác định chắc chắn.
“Chào anh, Hole.” Giọng nói đó phát ra từ cửa kính chiếc xe để mở, nhưng nó sát với mặt đường nhựa đến mức Harry không thể nhìn thấy người đang nói. Harry mở cửa xe và được đón chào bằng tiếng bass tưng bừng, tiếng organ giả tạo như là kẹo mật màu xanh và một giọng nam cao quen thuộc. “Trông anh gợi tình bỏ mẹ!”
Phải vất vả lắm Harry mới nhét mình ngồi vừa cái ghế đơn bé tí.
“Đêm nay có hai chúng ta,” thanh tra Tom Waaler nói, mở cái hàm kiểu Đức ra và để lộ một hàng răng không tì vết đầy ấn tượng nằm giữa khuôn mặt rám nắng. Nhưng cặp mắt xanh thì vẫn lạnh lùng như băng Bắc Cực. Có nhiều người ở Sở Cảnh sát không ưa Harry, nhưng theo anh được biết chỉ có một người thật sự đem lòng thù ghét anh. Harry biết, trong mắt Waaler, anh là một đại diện không xứng đáng của lực lượng cảnh sát, và vì thế là một sự sỉ nhục cá nhân.
Có vài lần, Harry đã nói thẳng rằng anh không chia sẻ quan điểm phát xít ngầm của Waaler và các đồng nghiệp khác về người đồng tính, cộng sản, những kẻ lừa đảo để lĩnh trợ cấp thất nghiệp, dân Pakistan, dân Tàu, dân mọi đen, dân Di gan, và dân Nam Âu, còn Waaler thì lại gọi Harry là một “gã phóng viên nhạc rock say xỉn”. Tuy nhiên, Harry ngờ rằng lý do thật sự khiến anh ta căm ghét anh là vì anh nghiện rượu. Tom Waaler không tha thứ cho sự yếu đuối. Harry cho rằng đó là lý do tại sao anh ta dành nhiều thời gian đến thế ở phòng tập thể hình để tập đá cao chân, đấm bao cát và có một loạt bạn cùng tập quyền Anh.
Trong căng tin, Harry đã nghe lỏm thấy một sĩ quan trẻ, giọng có vẻ ngưỡng mộ, miêu tả Waaler đã bẻ gãy cả hai tay một thằng choai choai biết võ karate trong một băng nhóm người Việt ở gần nhà ga trung tâm Oslo.
Căn cứ vào quan điểm của Waaler về màu da, Harry thấy thật ngược đời khi người đồng nghiệp của anh lại dành nhiều thời gian trong phòng tắm nắng, nhưng có lẽ một người hay đùa đã nói đúng: Waaler thật ra không phải là một người phân biệt chủng tộc. Anh ta thích đánh bọn phát xít mới cũng ngang với thích đánh đám da đen.
Trên tất cả những hiểu biết thông thường, có vài vấn đề không ai hiểu đúng nghĩa, nhưng dù sao một số người vẫn có trực giác nào đó. Đã hơn một năm kể từ khi Sverre Olsen - người duy nhất có thể nói với họ tại sao Ellen Gjelten bị giết - được tìm thấy nằm trên giường với một khẩu súng vẫn còn ấm trong tay và một viên đạn từ khẩu Smith & Wesson của Waaler xuyên vào giữa hai mắt.
“Cẩn thận đấy, Waaler.”
“Xin lỗi, anh bảo gì?”
Harry với tay ra và vặn nhỏ những tiếng rên rỉ của cuộc làm tình. “Tối nay có băng.”
Động cơ xe chạy vo vo như máy khâu, nhưng âm thanh đó dễ khiến người ta nhầm lẫn; khi chiếc xe tăng tốc, Harry mới thực sự cảm thấy cái lưng ghế cứng đến mức nào. Họ phóng như bay lên ngọn đồi cạnh công viên Stenpark dọc theo đường Suhms.
“Chúng ta đi đâu thế?” Harry hỏi.
“Đây,” Waaler đáp, quay ngoắt sang bên trái ngay trước mũi một chiếc xe đang chạy tới. Cửa kính xe vẫn để mở và Harry có thể nghe thấy tiếng lá ẩm ướt dính vào lốp xe.
“Mừng anh trở lại Đội Hình sự,” Harry nói. “Chẳng phải là người ta muốn anh ở Cục An ninh sao?”
“Tái cơ cấu,” Waaler nói. “Vả lại ngài Giám đốc Sở và Møller muốn tôi quay lại đây. Tôi đã làm được một số việc khá hữu ích ở Đội Hình sự, nếu anh còn nhớ.”
“Làm sao tôi quên được.”
“Người ta vẫn hay nói nhiều về những hậu quả lâu dài của việc nghiện rượu mà.”
Harry vừa mới tì cánh tay lên bảng đồng hồ thì xe đột ngột phanh gấp khiến anh ngã chúi về phía kính chắn gió. Ngăn chứa đồ lặt vặt bật mở và có gì đó nặng trịch rơi trúng đầu gối Harry rồi rớt xuống sàn xe.
“Cái quái gì thế?” anh rên lên.
“Một khẩu Jericho 941, loại súng được phát cho cảnh sát Israel,” Waaler nói, tắt máy. “Chưa nạp đạn. Cứ để nó ở đấy. Chúng ta tới nơi rồi.”
“Đây á?” Harry sửng sốt hỏi và cúi xuống để nhìn tòa chung cư sơn vàng trước mặt.
“Sao lại không?” Waaler nói, đã bước một chân ra khỏi xe.
Harry cảm thấy tim bắt đầu đánh trống. Khi anh quờ tìm tay cầm của xe với cả trăm ý nghĩ đang nhảy nhót trong đầu, chỉ một ý nghĩ nằm lại được: lẽ ra anh phải gọi lại cho Rakel.
Sương mù lại trở lại. Nó thấm qua các con phố, qua những kẽ hở quanh những ô cửa sổ đóng kín phía sau những cái cây trên đại lộ, qua cánh cửa màu xanh mở ra sau khi họ nghe thấy tiếng Weber xẵng giọng quát vào điện thoại nội bộ, và qua những lỗ khóa trên những cánh cửa họ đi qua khi lên lầu. Nó giống như một cái chăn bông len quấn quanh Harry, và khi họ vào tới bên trong căn hộ, Harry có cảm giác như đang bước trên mây. Mọi vật quanh anh - con người, những giọng nói, tiếng rè rè của bộ đàm, ánh sáng của đèn flash máy ảnh - đều khoác một vẻ mờ ảo như trong mơ, một vỏ bọc của sự tách biệt vì đây không phải, không thể, là thật. Nhưng, đứng trước chiếc giường nơi người chết nằm với khẩu súng trong tay phải và một cái lỗ đen ngòm trên thái dương, anh lại thấy mình không thể nhìn vào vệt máu trên gối hay vào đôi mắt trống rỗng, oán trách của cô. Thay vì thế, anh nhìn chằm chằm vào đầu giường, vào con ngựa với cái đầu bị cắn đứt, hy vọng màn sương sẽ sớm rút đi để anh tỉnh dậy.