It is what you read when you don't have to that determines what you will be when you can't help it.

Oscar Wilde

 
 
 
 
 
Tác giả: Liesl Shurtliff
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Ngô Cẩm Ly
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 32
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 226 / 7
Cập nhật: 2020-01-25 21:18:11 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 9 - Đòn Bẩy Thìa Và Ao Pút-Đinh
ôi mơ thấy bố. Ông đang đứng giữa cánh đồng lúa mì, lướt tay trên những bông lúa êm mượt, giống như bố luôn luôn làm trước đây.
“Nàng thật là đẹp, phải không Jack? Như vàng vậy.”
Khi bố lướt đôi bàn tay trên đám lúa mì, một làn gió hây hẩy lùa qua, những bông lúa lấp lánh sắc vàng trong ánh nắng mặt trời. Không chỉ óng ánh vàng, mà là vàng ròng. Lúa mì đã biến thành vàng thật.
Tôi nhảy tung tăng khắp cánh đồng. Chúng tôi giàu to rồi! Tôi sẽ không bao giờ bị đói nữa!
Mặt đất bắt đầu rung lên. Tôi sững lại và ngước nhìn lên.
Ầm, Ầm, ẦM!
Bầu trời rẽ làm đôi, và một bàn tay khồng lồ thò xuống. Nó nhổ bật từng nắm tay đầy những bông lúa vàng. Sau khi nhổ trụi cả cánh đồng, tên khổng lồ chộp lấy bố.
“Bố ơi!”, tôi gào lên.
“Jack! Hãy chăm sóc mẹ và em gái con, Jack à!”
“Bố!”
Tôi bừng tỉnh, nhưng mặt đất vẫn rung chuyển, và tôi không thể nhìn thấy gì. Tôi va phải một bức tường, và rồi có thứ gì đó giống như một bàn chân đạp thẳng vào bụng tôi. Tôi lại lăn lông lốc thêm lần nữa, cho đến khi đập mạnh vào một bức tường khác.
“Mẹ ơi!”, tôi la lớn. “Bọn khổng lồ đang đến đấy!”
“Đừng lo,” Tom lẩm bẩm trong cơn ngái ngủ. “Chỉ là mẹ Martha thôi mà.”
Tôi thình lình nhớ lại. Tôi đang nằm trong một cái hũ đựng đường, ở một gian bếp khổng lồ, trong một tòa lâu đài khổng lồ giữa một thế giới khổng lồ, nơi mà bọn khổng lồ thực sự đã bắt bố đi.
“Dậy mau! Dậy mau!”, một giọng nói líu lo cất lên. “Một ngày tuyệt đẹp để vắt sữa! Một ngày tuyệt vời để làm pho-mát đây!”
Bà Martha bật mở nắp hũ đường, ánh sáng chói lòa làm lóa mắt tôi. Bà nghiêng cái hũ, tôi với Tom lăn xuống lòng bàn tay bà.
“Chào buổi sáng các cậu bé! Hai con ngủ có ngon không? Các con có đói không? Ăn đi! Ăn đi! Hãy đắp thêm ít thịt vào mấy thân hình nhỏ xíu xương xẩu của các con, rồi tới chuồng vắt sữa thôi!” Bà Martha đặt chúng tôi xuống bàn và đãi chúng tôi ăn món cháo yến mạch với kem. Tom ăn cháo bằng một cái đê khâu, còn tôi húp món cháo của tôi từ một cái vỏ hạt dẻ rỗng.
Trời vẫn còn sáng tinh mơ, tia nắng đầu tiên mới bắt đầu chiếu rọi qua khung cửa sổ, nhưng cũng đủ sáng cho tôi quan sát cả gian bếp lúc này. Đó là một căn phòng khổng lồ, đông đúc và náo nhiệt. Có rất nhiều người hầu gái khổng lồ đứng quấy cháo, nhào bột, rửa bát, cọ sàn và nhóm lửa. Trong chiếc lò sưởi vĩ đại là một cái ấm to đùng màu đen, và trong hai cái lò đang đỏ lửa ở hai bên là vô số ổ bánh, hay nói đúng hơn là hàng núi, hàng núi bánh mì.
Bốn cái bàn khổng lồ kê dọc theo căn bếp thành hai hàng. Hai cái được dành để chuẩn bị. Một bàn khác chất la liệt đầy lương thực. Không phải lương thực khổng lồ, mà là lương thực từ thế giới của chúng tôi - nhiều hơn tất cả những gì tôi từng nhìn thấy. Có hàng núi cải bắp, hàng đồi táo lê, hàng xô khổng lồ đậu, cà-rốt, củ cải trắng, củ cải đường. Cơ man lúa mì, lúa mạch chiếm toàn bộ đầu bên kia của cái bàn, chúng được bó lại và xếp thành từng chồng ngăn nắp. Và trên cái bàn thứ tư...
BòooooOOOOOOoooo.
Meeeeeeeeee!
Cục ta cục tác!
...là muôn hình muôn vẻ tác phong điệu bộ của lũ gia súc gia cầm nông trại. Bò, cừu, lợn và gà.
Bên trên cái bàn này treo ba cái kệ. Chúng dường như để kê những cái chuồng chim khổng lồ, ngoại trừ việc những cái nhà cho chim này chính là những ngôi nhà thật ở xứ sở Bên Dưới - nhà gỗ, nhà xây gạch, nhà tranh quét vôi trắng lợp mái rạ với những chiếc ống khói.
Và con người nữa. Có rất nhiều người với kích thước giống như tôi ở trên kệ!
Một người phụ nữ đang quét bụi đất ra ngoài cánh cửa nhà bà ta và cái kệ. Một người khác phơi phóng đồ giặt trên một chiếc giá xếp bát đĩa khổng lồ, và bên dưới bà ta một người đàn ông đang tắm rửa trong một cái ca lớn, tất cả bọn họ đều đang mải mê làm công việc của mình như thể đây là một ngày bình thường trong một thế giới bình thường vậy.
Không thể tin được tôi đã không hề nhận ra bất kỳ thứ gì trong số này ngày hôm qua. Nhưng rõ ràng con người ta không thể trông đợi tìm thấy bò ở trong bếp, hay cả một ngôi làng trên cái kệ!
“Chào buổi sáng, hỡi các bạn tí hon của tôi!”
Bà Martha ngân nga bằng giọng hân hoan. “Hôm nay quả là một ngày đẹp trời, phải không? Có rất nhiều việc phải làm. Trời ạ, tôi không thể hoàn thành chúng nếu không có những người tí hon đáng yêu các bạn. Chúng ta cần thái cà-rốt, gọt vỏ khoai tây, nhặt trứng, vặt lông gà và vắt sữa bò! Tất nhiên, tất cả các bạn sẽ đều có phần, nên hãy làm việc chăm chỉ nhé, những người bạn tí hon của tôi. Nhiều tay thì nhẹ việc mà!” Martha chìa hai bàn tay. Nhiều người hăm hở bước lên lòng bàn tay bà như thể đang bước vào một cỗ xe ngựa. “Xin chào, Sally, Mary, Thelma, Francis, George, Harold, và... ôi tôi quên mất tên cô rồi!”
“Là Maude,” một người phụ nữ đáp.
“Một cái tên khôn ngoan và khéo léo. Cảm ơn cô, Maude.”
Bà Martha đặt hai bàn tay đầy người lên cái bàn gia súc, và thêm vài chuyến nữa tới bàn lương thực, gọi tên từng người. Tôi căng tai lên cố nghe bà gọi “Henry”. Bố có thể ở trên một trong những cái giá đó. Bố có thể đang nằm trong tay bà Martha lúc này.
“Thật thú vị, phải không nào?” Tom lúng búng, vừa nói vừa húp nốt chỗ cháo khỏi cái đê khâu của cậu. “Chúng ta có thể trèo lên những ngọn núi khoai tây và tường pho-mát rồi nhảy lên bánh mì... sẽ vui lắm đấy!”
“Tom, sao cậu không nói cho tớ biết tất cả những người đó đều ở đây?”
“Nói rồi mà! Tớ chả bảo cậu tớ nhìn thấy rất nhiều người hằng ngày còn gì.”
“Nhưng... tớ đã kể với cậu rằng bố tớ bị bắt đi với toàn bộ chỗ lúa mì và cả con bê. Họ không bị mang tới đây sao? Tớ đang nhìn thấy một con bê đứng ở đằng kia kìa!” Tôi nói, chỉ về phía cái bàn gia súc. Tôi cần tìm đường tới chỗ đó, nhưng bất thình lình bà Martha đứng sừng sững trước mặt chúng tôi.
“Các con đây rồi!”, bà nói. “Đến giờ vắt sữa rồi đó.” Bà tóm lấy tôi bằng một tay, và Tom trong tay kia.
Tôi ngọ nguậy và chống cự. “Nhưng con cần phải...”
“Nào, Tim, con không được bắt anh con làm tất cả mọi việc chứ. Chúng ta phải thu hoạch những gì đã gieo trồng - nhưng không phải ở Vương quốc này, không còn thứ gì có thể mọc được ở đây nữa...
Trời đất ơi, ước gì ta cũng có thể trồng được một củ khoai tây. Ta đã thử gieo ít hạt giống vào mùa xuân, cho chúng tưới đẫm nắng ấm và nước mát, nhưng chúng thậm chí còn không chịu nảy mầm!”
Bà Martha mang chúng tôi đến một cái chuồng sơn đỏ đã bong tróc. Nó được đặt ở cuối cái bàn gia súc. Ít nhất thì bà cũng đưa tôi tới nơi tôi muốn. Bà mở then hai cánh cửa bằng những ngón tay khổng lồ, và cả một bầy bò tuôn ra ngoài, luôn miệng kêu ò ò.
“Giờ thì hãy là những cậu bé ngoan và vắt sữa bò đi nhé,” bà Martha nói. “Mà này Tom, con yêu à, đừng có cố tình phun sữa vào Harold hay lũ gà nữa đấy. Con biết việc đó khiến ông ấy bực bội thế nào, lại còn dọa rồ lũ gà mái, mà chúng ta thì cần tận dụng từng quả trứng bé xinh để nấu cho đức vua, chưa kể tới từng giọt sữa nhỏ. Thần linh ơi, đức vua thì dường như chẳng bao giờ ngừng ăn cả. Nếu ông ta chỉ cần ăn vàng mà sống được, thì ta sẽ chẳng bao giờ phải nấu nướng nữa!” Bà Martha rời chúng tôi đi lo bữa sáng cho Đức vua.
“Nhanh lên,” Tom giục. “Vắt sữa nhanh lên còn đấu kiếm.”
“Nhưng bố tớ...”, tôi nhắc cậu, ngó xuống hàng loạt các dãy chuồng.
Tom thở dài đánh sượt. “Thì đi tìm đi, nhưng vẫn phải giúp tớ vắt sữa đấy nhé. Mẹ Martha sẽ rất buồn lòng nếu như việc không xong, mà tớ thì không muốn bà ấy khóc đâu. Chết chìm như chơi.”
“Tớ sẽ quay lại!” Tôi hứa. Có khi còn dắt theo cả bố nữa cũng nên!
Tôi chạy dọc tâm cái bàn, trông nó giống như một con đường dẫn qua một ngôi làng kỳ lạ. Bò và lợn được quây nhốt trong những hàng rào bằng sợi len và kẹp quần áo. Gà qué làm ổ trong những cái chuồng dã chiến làm từ đèn lồng, tách trà và một cái mũ khổng lồ lật ngửa lót đầy rơm rạ. Cái bàn được viền quanh bằng một loại hàng rào làm từ những cây dĩa cắm ngập vào mặt gỗ, ở giữa là những cọc trụ căng lưới thép. Một người đàn ông đang rải cỏ khô bằng một cây dĩa khổng lồ thay cho bồ cào.
“Xin thứ lỗi, thưa ông,” tôi nói. “Cháu đang tìm bố cháu. Ông ấy tên là Henry, bị bắt đi bởi người khổng lồ cùng với một con bê mới sinh. Ông có nhìn thấy bố cháu không ạ?”
“Không,” người đàn ông đáp, và tiếp tục rải cỏ khô, hoàn toàn không đếm xỉa gì đến sự rối bời của tôi.
Tôi đi tiếp. Tôi tới một cái chuồng dựng từ những cuốn sách. Ba cuốn làm tường, cuốn thứ tư đặt mở trên đỉnh tạo thành một cái mái chữ A. Thậm chí còn có một người đàn ông vừa vắt sữa vừa ngửa mặt lên đọc cuốn sách trên trần nhà, những chữ cái tròn xoe và to tướng. Nó gợi tôi nhớ đến cuốn sách của bố, đầy những truyện kể về người khổng lồ.
“Xin lỗi, thưa ông,” tôi nói với ông ta. Ông ta rời mắt khỏi cuốn sách trên trần nhà nhưng tay vẫn không ngừng vắt sữa. “Cháu đang tìm bố cháu. Ông ấy tên là Henry, bị bắt đi bởi người khổng lồ cùng với một con bê mới sinh. Ông có nhìn thấy bố cháu không ạ?”
“Có người mới đến bên cái chuồng làm từ hộp đựng bánh mì ấy,” người đàn ông đáp. “Tới đây được một hai tuần rồi. Cũg chẳng nhớ anh ta có con bê hay con lợn nữa.” Một cảm giác khấp khởi hy vọng lâm râm lan tỏa trong lồng ngực tôi.
Tôi ba chân bốn cẳng chạy xuống cuối bàn cho tới khi tìm thấy cái hộp đựng bánh mì. Có một người đàn ông bên trong, nhưng đó không phải bố. Ông này to béo ục ịch, đang ôm một con lợn trong vòng tay và cho nó ăn táo. Người đàn ông ngước mắt lên.
“Xin chàooo! Tới để hất xô cám vào ta đó hả, Jack?”
Tôi nheo mắt. “Bác Horace?” Bác ta đã mọc thêm một bộ râu xồm xoàm, nhưng tôi vẫn nhận ra bác ấy nhờ con lợn Cindy. Tôi mỉm cười. Đó không phải là bố, nhưng việc nhìn thấy ai đó từ quê nhà giống như tìm được một dấu hiệu hay tấm biển chỉ đường, mách bảo bạn biết rằng mình đang đi đúng hướng vậy.
“Bố cháu có ở đây không ạ?”, tôi hỏi.
“Chưa thấy ông ấy, nhưng ta cũng chẳng thấy gì nhiều nhặn bên ngoài cái hộp đựng bánh mì. Toàn lợn là lợn. Ta canh giữ hầu hết lũ lợn trên cái bàn này, cho chúng ăn cám và các thứ, tới khi tất cả bọn chúng đều biến thành món thịt muối cho người khổng lồ.”
Tôi nhăn mặt.
“Ta biết,” Horace đáp. “Nhưng ít nhất thì họ cũng không biến chúng ta thành thịt muối. Và chúng cho ta giữ lại Cindy.”
“Bác có nhớ gì về cái đêm bị bọn khổng lồ bắt đi không ạ? Bác có nhớ bất kỳ điều gì liên quan đến bố cháu không?”
Bác ta gãi gãi đầu. “Không. Chẳng có gì nhiều. Trong đó rất tối tăm, ầm ĩ và chật chội. Hầu như không thể thở được. Một tên khổng lồ cứ cầm khư khư lũ lợn của ta và bảo rằng y muốn giữ một ít để nuôi chơi, nhưng tên kia không cho. Ta thì cứ giữ rịt lấy Cindy cho tới khi mọi chuyện qua đi.”
Con lợn khụt khịt ầm ĩ trong tay Horace, ra chừng gợi ý bác ta cho nó ăn tiếp. Bác ta đút cho con lợn phần còn lại của quả táo, và đưa cho tôi một quả mới.
“Ăn táo không?” Tôi đón lấy quả táo dù không thấy đói. “Có cần chỗ ngủ không? Cháu có thể ở lại với ta trong thùng bánh mì này. Chẳng có gì nhiều nhặn, nhưng chúng ta cũng có đủ những gì mình cần.”
“Cảm ơn bác, nhưng cháu không ở được. Cháu phải đi tìm bố cháu.”
“Thế thì phải cẩn thận đấy. Thiên hạ đồn rằng một số gã khổng lồ thật sự là những con yêu tinh ăn thịt người.”
“Cháu sẽ cẩn thận. Cảm ơn bác về quả táo.”
Tôi rời khỏi Horace và chầm chậm quay trở lại cái chuồng nơi Tom đang vắt sữa.
“Nhanh nào,” Tom nói. “Tớ đã vắt được bốn con rồi đó.”
Tôi cầm một cái xô và chọn một con bò để vắt sữa.
Đối diện với chỗ chúng tôi ngồi, bà Martha và những người hầu còn lại trong bếp đang tất bật chuẩn bị những bữa sáng hoàng gia. Họ dọn lên khay cháo, bánh mì nướng và trà, nhưng duy có một chiếc khay nổi bần bật giữa vô số khay khác. Trước hết, cái khay và tất cả bát đĩa đều được đúc từ vàng mười, ngay cả chiếc thìa xúc đường cũng vậy, và thứ hai, nó chất đống khoảng một trăm quả trứng lòng đào, năm mươi miếng thịt xông khói và một núi hoa quả. Cuối cùng, bà Martha mở khóa một tủ chạn và lấy ra một cái bát thủy tinh đựng đầy những vụn vàng li ti. Bà rắc những mảnh vàng vụn này khắp chỗ thức ăn, giống như người ta rắc vụn đường lên trên một cái bánh vậy.
“Bữa sáng của nhà vua khổng lồ đấy à?”, tôi hỏi.
Tom gật đầu. “Cậu có thể hình dung ra hắn giàu đến mức nào khi có thể ăn cả vàng không?”
Chắc chắn là không.
“Thử đoán xem tên ông ta là gì?”, Tom nói. “Vua Barf đấy!”[1] Nói đoạn nó phá lên cười sằng sặc.
Bà Martha hắng giọng, bất thình lình xuất hiện lù lù trước mặt chúng tôi. “Tên hiệu Hoàng gia của Bệ hạ là Đức vua Bartholomew Archibald Reginald Fife, Tom thân yêu à, tốt hơn hết là con liệu mà giữ mồm giữ miệng. Đức vua không hề nhân từ với những kẻ qua mặt ông ấy đâu, dù chúng nhỏ bé thế nào đi chăng nữa. Lý do ư, tuần trước một cô bé hầu phòng đã kể với ta rằng nó nhìn thấy Đức vua ném thẳng một người tí hon vào trong lò sưởi!”
Tôi nuốt nước bọt. Tôi có một viễn cảnh tồi tệ về việc bố bị ném vào ngọn lửa. “Đến cả Đức vua cũng giữ người tí hon ạ?”, tôi hỏi.
“Sao cơ, ta nghĩ thế, phải, mặc dù ta không rõ là nhằm mục đích gì. Chính Bệ hạ đã cung cấp cho ta tất cả những giúp việc tí hon này - tất cả, ngoại trừ con và Tom - nhưng nhìn chung tất cả người tí hon được điều động đều theo ý chỉ của Bệ hạ.”
Reeng! Một tiếng chuông vang lên.
“Ôi trời! Giờ thì Đức vua đang ra lệnh đòi bữa sáng đấy!” Martha rắc thêm một thìa đầy vàng nữa lên bữa sáng của Đức vua trước khi nó được vội vã mang đi.
Có thể nào Vua Barf đang giữ bố? Dù sao thì bà Martha cũng nói rằng ông ta chính là người quyết định nơi tất cả sẽ tới. Điều đó có nghĩa rằng ắt hẳn ông ta đã từng gặp bố và cất bố đi đâu đó. Rõ ràng nơi đó không phải nhà bếp.
“Ngẩng đầu lên!” Tom gọi. Cậu ta phun một tia sữa trúng vào mắt tôi. “Xuyên tâm!”
Sữa chảy ròng ròng trên mặt, nhưng tôi tiếp tục làm việc, vờ như không thèm quan tâm. Thế rồi, thừa lúc cu cậu không để ý, tôi phun sữa vào nó, và bỗng nhiên hai đứa tôi bị lôi vào một trận đọ sữa vô tiền khoáng hậu, khiến hầu như chẳng còn chút sữa nào vào trong xô nữa.
Hoàn toàn bỏ bê mấy con bò, Tom vớ lấy một cây dĩa khổng lồ. “Hãy đấu thương như các dũng sĩ nào!”, nó nói, giơ cao cây dĩa như một chiếc thương.
Tôi sục sạo trong chuồng cho đến khi tìm được một cây dĩa dựng tựa vào một kiện cỏ khô. Tôi vật lộn mãi mới nâng được nó lên. Nặng thế!
“Tấn công!” Tom gào lên, và chạy bổ về phía tôi.
“Ta sẽ hạ ngươi, quân gian ác!” Tôi lao đầu về phía trước trong một điệu chạy nước kiệu vụng về. Hai cây dĩa đụng vào nhau đánh keng một cái khi hai đứa chúng tôi chạy qua. Tom xô tôi ngã bổ chửng, tí nữa thì xiên thẳng vào bụng tôi. Tôi lăn tròn trên mặt đất.
“Cậu không sao chứ?” Tom hỏi.
Tôi nhe răng cười. “Đánh lại đê!”
Chúng tôi chạm dĩa leng keng hết lần này đến lần khác, cho đến khi tâm trí tôi lang thang nhớ lại về những lần bố và tôi cùng chơi trò đấu kiếm. Bố sẽ đóng vai khổng lồ hoặc kẻ ác, còn tôi sẽ là người hùng. Chúng tôi có những màn giả chết thú vị khi tôi “đâm” bố, còn bố thì rên rỉ, nấc nghẹn, ngã xuống mặt đất quằn quại rồi nằm thẳng cẳng. Tôi đợi một lúc, rồi trườn lên người bố gọi thầm, “Bố ơi?” nhưng bố vẫn nằm im lìm, và tôi lại chọc bố thêm vài cái nữa. Bố vẫn không nhúc nhích. Cuối cùng tôi sẽ cúi khom người xuống kiểm tra nhịp tim, hơi thở bố, và đúng lúc này bố gầm lên, chộp lấy tôi và tung tôi cao thật cao lên không trung. Thế rồi bố sẽ cù tôi khiến tôi cười như điên dại cho đến khi bụng quặn đau. Nghĩ đến đây, lồng ngực tôi còn nhói đau hơn nữa.
Tôi đặt chiếc thương dĩa của mình xuống. Ánh nắng mặt trời đã di chuyển khỏi những khung cửa sổ, đồng nghĩa với việc trời đã gần trưa. Tôi quan sát việc chuẩn bị bữa trưa. Một người hầu gái khổng lồ đang rắc muối và tiêu vào nồi súp đang sôi lăn tăn. Một người khác đang đặt bánh mì và pho-mát lên một cái khay, còn bà Martha thì lấy một chiếc bánh pút-đinh khỏi lò và đặt nó lên bàn cho nguội.
Tôi cần phải đi tìm bố, và tìm ra Đức vua là cơ hội duy nhất của tôi. Tôi phải mặt đối mặt - hoặc là mặt đối chân với ông ta. Tôi sẽ yêu cầu ông ta trả bố cho tôi. Nếu không thì...!
“Tom, liệu có cách nào nhảy sang bàn khác được không? Cái bàn bà Martha đang đứng kia kìa?”
“Đương nhiên là có, chỉ cần một cái thìa thôi.”
“Thìa á?”
“Cậu sẽ ngạc nhiên khi biết những điều ta có thể làm được với một cái thìa đấy.” Tom biến mất và một phút sau quay trở lại, kéo lê một cái thìa súp. Cậu ta đặt cái thìa xuống và xoa xoa hai bàn tay vào nhau. “Đứng lên cán thìa kia đi.”
“Làm thế nào mà một cái thìa lại có thể giúp tớ sang bàn bên được? Nó biết bay à?”
Tom mỉm cười. “Kiểu kiểu thế. Lên đi!”
Tôi miễn cưỡng bước lên đầu mút của cán thìa, không biết chắc mình nên trông đợi điều gì.
“Tuyệt vời. Giờ thì đợi một phút.” Tom trèo lên mấy kiện cỏ khô, lên tận trên nóc chuồng. Nó gọi với xuống chỗ tôi. “Khuỵu gối xuống nào! Một! Hai...”
Tôi đột nhiên nhận ra cu cậu định làm gì. “Tom, tớ không...” Nhưng đã quá muộn.
“Ba!” Tom nhảy khỏi nóc nhà kho và hạ cánh xuống đầu kia của chiếc thìa. Tôi văng tuốt lên không.
“Rắn rết cóc nháaaaaaaaai!” Tôi bay vụt qua suốt chiều dài cái bàn, tay chân khua khoắng tán loạn, rồi đáp xuống đỉnh của một núi khoai tây. Tôi lăn lông lốc cùng với một cơn lũ khoai tây.
Tom đu qua bếp để nhập bọn với tôi bằng một sợi dây thừng buộc vào một trong những chiếc đèn chùm. “Thật là tuyệt vời! Giá cậu nhìn thấy cậu bay cao thế nào.”
“Cậu chỉ việc chỉ cho tớ sợi dây thừng thôi mà?” Tôi gầm gừ.
“Thế thì còn gì vui nữa?” Tom lộ vẻ bối rối. “Chưa có người tí hon nào từng được chu du theo kiểu đòn bẩy này đâu! Cậu phải cảm thấy vinh hạnh chứ.”
Tôi cười toét miệng. Phải công nhận việc này thật sự rất thú vị. Cũng phải công nhận luôn rằng tôi thích Tom biết bao. Có thể nó không thấm thía được nỗi lòng của người mất cha, nhưng cu cậu chính xác là mẫu bạn mà tôi hằng ao ước khi còn ở nhà, một người cũng thích những cuộc phiêu lưu vĩ đại, và có đôi chút tinh quái.
Tom kiếm được một chiếc thìa khác và kéo lê nó đến vị trí cạnh một tảng pho-mát khổng lồ.
“Lại đây nào! Giờ đến lượt tớ! Cậu có thể nhảy xuống từ tảng pho mát này!” Thế là tôi cũng có cơ hội cho Tom bắn tung lên không trung một lần. Nếu tôi có thể ném nó bay vèo đến nơi nào đó tận bên kia căn phòng, nó sẽ không thể ngăn tôi lẻn vào khay đồ ăn trưa của đức vua. Tôi trèo lên tảng pho-mát, nó kêu lên lép nhép theo mỗi nhịp tôi đặt và rút tay chân. Lên được tới đỉnh thì tôi đã bị phủ kín trong lớp phô-mai dính nhoét, nồng nặc. Mong rằng bà Martha không nhìn thấy tôi, nếu không bà sẽ bắt tôi tắm thêm lần nữa mất.
Tom đang đứng trong lòng cái thìa, đầu gối khom xuống và chờ đợi.
“Đếm tới ba nhé!” Tom hét lên, nhe răng cười như thể chuẩn bị đón nhận điều ước lớn nhất trong đời.
“Một, hai, ba!” Tôi nhảy và hạ cánh xuống đầu mút của cán thìa. Tom bay bổng lên.
“Wheeeeeee!”, thằng bé reo lên hân hoan.
Còn tôi, nhớp nháp và trơn trượt vì pho-mát, tuột khỏi cái thìa và lộn nhào ra tận rìa cái bàn. Tôi vung vẩy đôi tay, suýt nữa thì ngã, nhưng may mắn bám được vào sợi dây thừng của Tom. An toàn rồi.
Reeng! Chuông rung lên.
“Bữa trưa!” Bà Martha ngân nga.
Nhà bếp lại trở nên náo động. Một người hầu gái băng qua ngay trên đường đi của tôi và vướng tay vào sợi dây thừng, vì vậy tôi bị đu đưa một cách dữ dội qua cái bàn. Tôi nhảy lên một ổ bánh mì, nảy nảy vài lần trên bề mặt mềm xốp trước khi văng ra và rơi đánh tõm vào thứ gì đó âm ấm, ẩm ướt và mềm nhão. Tôi liếm láp những mẩu vụn dính quanh miệng. Dù tôi vừa đáp xuống thứ gì đi chăng nữa, nó cũng thật ngon lành.
“Đừng quên món bánh pút-đinh của Đức vua đấy!” Martha nhấc cái đĩa.
Bánh pút-đinh của nhà vua...
“Gượm đã!”, tôi la lên. “Bà Martha! Con đang ở đây! Con là Jack... ý con là Tim đây! Con đang ở trong cái bánh pút-đinh!” Tôi gào thét và khua khoắng đôi tay, nhưng bà không nhìn cũng chẳng nghe thấy tôi, nhà bếp quá ồn ào. Bà mau mắn trao cái đĩa cho một người hầu, và nó nhanh chóng được bê đi.
Tôi cố gắng thoát khỏi món pút-đinh, nhưng nó giống như việc bơi qua một vũng bùn dày và đặc sệt - một chuyện bất khả thi.
Người hầu nọ nhanh nhẹn bước đi dọc theo một hành lang được thắp sáng mờ mờ, rẽ vào một khúc quanh và bước vào một phòng ăn khổng lồ với trần nhà hình vòm cao vời vợi lên tận trời, treo những bức tranh vẽ các quý ông và công nương với kích thước khổng lồ. Một chiếc bàn ăn dài vô tận chất đầy bát đĩa và ly tách bằng vàng ròng, cao lương mỹ vị bốc hơi nghi ngút, những ngọn nến bập bùng cháy lừng lững như những thân cây.
Người hầu đặt chiếc bánh pút-đinh xuống trước mặt một người khổng lồ. Lão ta có gương mặt hồng hào phì nộn, đôi mắt tròn sẫm màu sáng lóng lánh và khuôn miệng lúc nào cũng nhếch lên nhạo báng. Cái mũi hếch ngược khiến lão ta nom đặc biệt giống một con lợn. Phục sức của lão ta toàn vàng: áo bào vàng, xích vàng, nhẫn vàng, và hai chiếc vương miện vàng chồng lên nhau cao ngất trên đỉnh đầu.
Không thể lẫn đi đâu được. Đây chính là Đức vua khổng lồ. Vua Barf. Và tôi đang ngụp lặn trong bữa trưa của lão.
Jack - Cây Đậu Thần Jack - Cây Đậu Thần - Liesl Shurtliff Jack - Cây Đậu Thần