Số lần đọc/download: 10096 / 796
Cập nhật: 2021-09-07 19:21:44 +0700
Chương 9(b) - Phần Một - 1906-1923
W
ladek nghe lời bà, trong bụng thầm mong ông chồng bà sẽ cho phép anh được ở lại đây. Anh chậm chạp cởi quần áo và trèo lên giường. Người anh đã sạch sẽ lắm rồi, khăn trải giường cũng rất sạch, đệm rất mềm. Anh bỏ chiếc gối lên sàn nhà. Tất cả những tiện nghi đó đều rất mới lạ nhưng anh đã quá mệt rồi nên nằm ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Mấy tiếng đồng hồ sau, anh bỗng tỉnh dậy vì nghe có tiếng nói to ở trong bếp. Anh không biết là mình đã ngủ được bao lâu. Bên ngoài trời đã tối. Anh bò ra khỏi giường bước đến mở hé cửa và nghe rõ hai người đang nói chuyện trong bếp.
- Bà thật ngốc, - Wladek nghe một giọng hơi gắt. - Bà không hiểu là nếu họ bắt được thì sẽ rắc rối như thế nào ư có thể là bà bị người ta tống vào trại giam đấy.
- Nhưng, Poitr, ông không biết là nó như một con thú bị săn đuổi ấy.
- Thế là bà muốn bản thân chúng ta sẽ như những con thú bị săn đuổi chứ gì, - người đàn ông nói. – Có ai trông thấy nó không?
- Không, không có ai đâu, - người đàn bà nói.
- Thế thì cảm ơn Chúa. Phải cho nó đi ngay trước khi có ai biết là nó ở đây. Chỉ còn cách đó thôi.
- Nhưng đi đâu, Poitr? Nó lạc lõng và không quen biết một ai, - người đàn bà che chở cho Wladek nói. - Mà tôi thì vẫn mong có đứa con trai.
- Tôi không cần biết bà muốn gì hay là nó đi đâu. Nó không phải là trách nhiệm của chúng ta, và chúng ta phải tống nó đi cho nhanh chóng.
- Nhưng, Poitr, tôi nghĩ nó là dòng dõi quý tộc. Hình như bố nó là một Nam tước. Nó có đeo một chiếc vòng bạc ở cổ tay, trên đó có những chữ...
- Như thế lại càng rắc rối. Bà không biết là các nhà lãnh đạo mới đã ra lệnh như thế nào ư? Không Nga hoàng, không vua chúa, không đặc quyền đặc lợi gì hết. Mà chúng ta cũng chẳng cần phải đến trại giam nữa cơ, các nhà cầm quyền có thể bắn chết mình luôn chưa biết chừng.
Chúng ta vẫn mong có đứa con trai, Poitr. Chẳng lẽ chúng ta không dám mạo hiểm chuyện này được ư?
- Bà mạo hiểm được, nhưng tôi thì không. Tôi bảo nó phải đi và đi ngay.
Wadek không cần nghe họ nói gì thêm nữa. Anh nghĩ cách duy nhất để đỡ cho bà ta là người đã có ơn với anh là biến hẳn vào đêm tối. Anh vội mặc quần áo vào và nhìn lại chiếc giường, chỉ mong không phải chờ thêm bốn năm nữa mới lại được nằm một chiếc giường như thế. Anh đang tìm cách mở cứa sổ thì cửa ra vào phòng bỗng bật tung và ông trưởng ga bước vào. Người ông ta nhỏ bé, không cao hơn Wladek nhưng có cái bụng to và cái đầu hói chung quanh chỉ còn ít sợi bạc chải qua loa tưởng như một bộ tóc giả.
Ông ta đeo đôi mắt kính không có gọng khiến dưới mỗi con mắt có nét hằn đỏ trũng xuống. Tay ông ta cầm chiếc đèn nến. ông ta đứng nhìn Wladek. Wladek nhìn lại như thách thức.
- Đi xuống dưới này, - ông ta ra lệnh. Wladek miễn cưỡng theo ông ta xuống bếp. Người đàn bà đang ngồi khóc bên bàn.
- Bây giờ chú bé nghe đây nhé - ông ta nói.
- Tên nó là Wladek, - người đàn bà chen vào.
- Bây giờ chú bé nghe đây, - ông ta nhắc lại. - Anh sẽ gây ra chuyện rắc rối ở đây, vì vậy tôi muốn anh phải đi khỏi chỗ này và đi càng xa càng tốt.
Tôi cho anh biết là tôi sẽ làm như thế này để giúp anh nhé.
Giúp ư? Wladek nhìn ông ta không nói.
- Tôi sẽ cho anh một cái vé tàu. Anh muốn đi đâu?
- Odessa, - Wladek nói. Anh không biết nơi đó là ở đâu và đây đến đó hết bao nhiêu tiền. Anh chỉ biết đó là thành phố thứ hai bác sĩ vẽ trên bản đồ để từ đó mà đi đến tự do.
- Odessa, hừ, nơi sản sinh ra tội ác, thật là một địa chỉ thích hơp đấy, - ông trưởng ga cười khẩy. - Đến đó thì anh chỉ gặp toàn những người như anh và rắc rối thêm mà thôi.
- Thế thì để nó ở lại đây, Piotr. Tôi sẽ chăm nom cho nó, tôi sẽ...
- Không, không bao giờ. Tôi thà mất tiền cho nó còn hơn.
Nhưng làm sao nó đi lọt được? - người đàn bà van nài.
- Tôi sẽ cho nó tấm vé và một giấy thông hành đi làm việc ở Odessa. - Ông ta quay sang Wladek. - Anh lên tàu đó đi rồi, nếu tôi còn trông thấy anh hay nghe nói đến anh ở Moscow, tôi sẽ báo cho người ta bắt và giam anh ở một nhà tù nào gần đây nhất. Rồi người ta sẽ tống anh trở lại cái trại đó ngay, nếu không thì họ cũng bắn anh luôn.
Ông ta nhìn lên chiếc đồng hồ trên bếp: đã mười một giờ năm phút. Ông ta quay sang phía vợ.
- Có chuyến tàu đi Odessa vào mười hai giờ đêm. Tôi sẽ tự đưa nó ra ga. Tôi muốn biết chắc chắn là nó đã rời Moscow rồi. Anh có hành lý gì không?
Wladek vửa sắp trả lời không thì người đàn bà đã nói ngay:
- Có, để tôi đi lấy cho nó.
Wladek với ông trưởng ga nhìn nhau hằn học. Người đàn bà đi một lúc lâu. Chuông đồng hồ đánh lên một tiếng. Hai người vẫn không ai nói gì. Mắt ông trưởng ga không rời khỏi Wladek. Bà vợ ông ta quay lại tay cầm một gói giấy màu nâu có buộc dây cẩn thận. Wladek nhìn gói giấy, định lên tiếng từ chối nhưng thấy trong ánh mắt của bà có cái gì như sợ hãi, nên anh chỉ biết nói:
- Cảm ơn bà.
- Hãy ăn cái này đi đã, - bà ta nói và đẩy bát súp nguội đến chỗ anh.
Anh nghe theo. Mặc dầu bụng anh lúc này vẫn còn đang rất no, nhưng anh cũng ăn bát súp thật nhanh để bà ta khỏi phiền lòng.
- Súc vật - người đàn ông nói.
Wladek ngước nhìn ông ta, mắt đầy căm giận. Anh lấy làm tội nghiệp cho người đàn bà phải sống với một ông chồng như vậy suốt đời.
- Đi thôi, chú bé, - ông trưởng ga nói. - Mau kẻo lỡ tàu thì phiền lắm.
Wladek theo người đàn ông ra khỏi bếp. Anh ngập ngừng một chút khi đi qua chỗ người đàn bà đứng. Anh giơ tay ra và bà ta khẽ nắm lấy tay anh. Không ai nói gì, nhưng có nói cũng không nói được gì. Ông trưởng ga với con người tị nạn ấy vừa đi vừa nấp qua mấy phố tối của Moscow và đến ga. Ông ta lấy một chiếc vé đi một lượt đến Odessa và đưa cho Wladek.
Còn giấy thông hành của tôi đâu? - Wladek hỏi. ông ta rút ở túi trong ra một tấm giấy, ký vội vào đó rồi kín đáo đưa cho Wladek. Ông ta để ý nhìn quanh xem có thể có gì nguy hiểm không. Trong bốn năm qua, Wladek đã từng trông thấy những đôi mắt giống như của ông trưởng ga này nhiều lần rồi. Đó là đôi mắt của một anh hèn.
- Đừng để tôi trông thấy anh hay nghe nói đến anh nữa nhé, - ông trưởng ga nói. Giọng nói thì ra vẻ hách dịch. Trong bốn năm qua, Wladek cũng đã được nghe những giọng nói như thế nhiều lần.
Anh nhìn lên ông ta, định nói lại, nhưng ông ta đã đi vào bóng đêm mất rồi. Wladek nhìn vào những người đi qua trước mặt anh. Cũng những đôi mắt sợ sệt như nhau cả. Trên đời này không ai được tự do cả sao? Wladek cắp cái gói giấy nâu vào nách, sửa lại mũ trên đầu rồi bước ra chỗ thang chắn. Lần này, anh cảm thấy tự tin hơn. Anh xuất trình giấy thông hành cho người gác và đi qua không có chuyện gì. Anh trèo lên toa tàu. Thế là anh chỉ được thấy Moscow có một lúc ngắn ngủi, Và trong đời anh sẽ chẳng còn bao giờ thấy lại thành phố này nữa. Anh sẽ nhớ mãi lòng tốt của người đàn bà vợ ông trưởng ga ấy. Đồng chí gì nhỉ... Anh cũng không biết đến cả tên bà ta nữa. Wladek ngồi ở toa thường. Odessa gần Moscow hơn nhiều so với Irkutsk. Trên bản đồ của bác sĩ, khoảng cách chỉ bằng ngón tay, vậy mà trên thực tế những 800 dặm. Wladek đang nhìn vào chiếc bản đồ sơ sài ấy thì ở đầu toa cũng đang diễn ra một vụ cờ bạc. Anh giấu bản đồ vào trong áo rồi bắt đầu để ý đến chỗ đánh bạc ấy. Anh thấy một người dù chơi thế nào cũng vẫn thắng, không lần nào bị thua cả. Wladek nhìn kỹ một lúc thì hiểu ra anh chàng kia là một tên bịp bợm.
Anh chuyển sang đứng phía bên kia, đối diện với tên bạc bịp để xem hắn làm ăn thế nào. Nhưng đứng chỗ này khó nhìn nên anh cố chen vào ngồi được bên trong. Anh thi hành một cái mẹo là chờ cho tên bạc bịp giả vờ thua thì anh bỏ tiền vào đó gấp đôi lên cho đến lượt hắn được. Tên bạc bịp không thấy ngay được thủ thuật ấy của anh nên không để ý. Chỉ mãi đến lúc tàu đỗ ở ga sau hắn mới hiểu ra. Wladek đánh được mười bốn rúp. Anh bỏ ra hai rúp mua quả táo và một chén súp nóng. Anh đã kiếm được đủ tiền cho cả chuyến đi xuống đến Odessa. Anh thầm nghĩ nếu cứ tiếp tục chơi kiểu này thì sẽ kiếm thêm được ít tiền nữa. Nghĩ thế, anh quay trở lại sòng bạc và sẵn sàng theo đuổi cái mẹo cũ của mình. Nhưng vừa bước vào đến trong toa, anh đã bị đánh một nhát ngã dúi vào góc. Tay bị bẻ quặt ra sau lưng và đầu bị đập vào thành toa. Máu mũi anh chảy ra. Một mũi dao kề vào sau gáy.
- Mày nghe tao nói không, thằng nhóc?
- Dạ, - Wladek hoảng sợ đáp.
- Mày còn quay lại toa này nữa, tao sẽ cắt cái tai này đi, biết chưa? Tao mà cắt tai thì mày không còn nghe được nữa, biết chưa?
- Vâng ạ, - Wladek nói.
Wladek cảm thấy mũi dao ấn vào sau mang tai rồi máu bắt đầu chảy xuống cổ.
- Tao cảnh cáo cho mày biết thế.
Một cái đầu gối bỗng thúc mạnh vào bụng anh. Wladek nằm lăn ra sàn tàu. Một bàn tay sục vào mấy túi áo của anh, lấy đi mấy rúp anh vừa kiếm được.
- Tiền của tao, - hắn nói.
Máu vẫn còn chảy ở mũi và ở cổ Wladek. Lúc anh mở mắt ra nhìn lên thì không thấy tên bạc bịp đâu nữa. Anh cố đứng dậy nhưng không đứng được, đành cứ ngồi lại trong góc toa một lúc. Đứng dậy được rồi, anh lê bước ra đầu toa đằng kia, tránh xa chỗ tên bạc bịp chừng nào hay chừng đó. Anh chui vào một toa chỉ có đàn bà trẻ con rồi ngủ thiếp đi. Đến ga sau, Wladek không dám xuống tàu. Anh mở gói giấy xem trong đó đựng gì. Hóa ra trong đó có đủ thứ táo bánh mì, lạc, một chiếc sơ mi, một chiếc quần và có cả một đôi giầy nữa. Thật là cả một kho báu. Anh bèn thay ngay những quần áo mới vào người. Ôi, người đàn bà quý hóa quá. Còn ông chồng, sao mà quá đáng thế.
Anh ăn rồi lại ngủ, lại mơ. Cuối cùng, sau năm đêm bốn ngày, đoàn tàu lừ đừ lăn bánh vào ga Odessa. Ở cửa chắn vẫn kiểm soát vé và giấy tờ như cũ. Giấy tờ của anh hợp lệ nên tên lính gác không để ý gì hết. Từ lúc này trở đi, anh phải tự do lấy hết.
Anh vẫn còn 150 rúp giấu trong tay áo. Anh chưa dám tiêu đi đồng nào vào lúc này.
Wladek đi lang thang cả ngày trong thành phố để làm quen với đường xá ở đây, nhưng có nhiều cảnh lạ mắt quá nên anh không nhớ được chỗ nào với chỗ nào.
Toàn những nhà to, cửa hàng lớn, rất nhiều những người đi bán rong trên đường phố, thậm chí có cả một con khỉ ngồi trên đầu gậy của người bán hàng rong nữa. Wladek cứ đi mãi đến lúc anh ra tới bến cảng và trông thấy biển. À ra đây rồi, đúng cái mà Nam tước gọi là biển đây. Wladek đứng lặng nhìn khoảng mênh mông xanh ngắt. Nơi xa kia là tự do, là trốn thoát khỏi nước Nga. Thành phố này hẳn là vừa trải qua trận chiến ghê gớm, vì còn những căn nhà cháy trụi và nhiều chỗ nhếch nhác, rất không hơp với làn gió biển thơm mát đang thổi vào đây. Wladek không biết trong thành phố còn đánh nhau không. Anh không biết hỏi ai được. Mặt trời đã lặn xuống sau những ngôi nhà cao tầng. Anh phải bắt đầu đi tìm một chỗ nào để ngủ đêm. Wladek đi vào một ngõ bên đường cái. Khoác chiếc áo lông dài chấm đất và cắp một gói giấy nâu trong tay, trông anh thật lạc lõng giữa khung cảnh ở đây. Anh không tìm thấy một chỗ nào an toàn được. Lát sau anh ra đến khu đường sắt, thấy có một toa tàu nằm đơn độc một chỗ. Anh ngó nhìn vào bên trong, chỉ thấy tối và yên lặng. Trong toa không có người. Anh quẳng gói giấy lên đó, trèo vào bên trong và chui vào một góc nằm ngủ. Anh vừa đặt mình xuống thì một thân hình đè lên người anh và hai tay ghì chặt lấy cổ họng. Anh hầu như không thở được.
- Mày là ai? - giọng một đứa bé gầm lên. Trong bóng tối, anh đoán tên kia không lớn tuổi hơn mình được
- Wladek Koskiewicz.
- Mày ở đâu đến?
- Moscow. - Lúc đó Wladek đã định nói là Slonim.
- Mày không được ngủ trong toa của tao, dù là mày ở Moscow đến, - tên kia nói.
Xin lỗi, - Wladek nói. - Tôi không biết.- Mày có tiền không? - Hai ngón tay cái của tên kia ấn chặt xuống cổ họng anh.
- Ít thôi, - Wladek nói.
- Bao nhiêu?
- Bẩy rúp.
- Đưa đây .
Wladek thọc tay vào túi áo. Tên kia cũng bỏ một tay ra mò vào túi áo khác. Còn một tay hắn bỏ lỏng. Wladek chợt dồn hết sức vào đầu gối thúc lên hạ bộ của nó một nhát. Tên kia ôm lấy dái lăn ra. Wladek chồm dậy đánh liên hồi. Tự nhiên tình hình thay đổi hẳn. Tên kia không thể địch lại Wladek. Thế là nằm ngủ trong một toa tàu bỏ hoang chẳng khác nào như một khách sạn năm sao so với những căn hầm và trại giam mà anh vừa trải qua.
Wladek chỉ ngừng tay khi tên kia đã chịu nằm bẹp xuống sàn tàu, cựa quậy gì được nữa. Hắn phải van xin Wladek.
- Mày ra tít đầu toa kia mà nằm và cứ ở yên đấy,- Wladek nói. - Mày mà động đậy nữa tao giết.
- Vâng, vâng, - tên kia cố bò di.
Wladek theo dõi thấy hắn đã bò đến đầu toa. Anh ngồi nghe động tĩnh một lúc không thấy gì mới từ từ đặt mình xuống sàn toa và lát sau ngủ thiếp đi.
Lúc anh tỉnh dậy đã thấy mặt trời chiếu qua khe ván của toa tàu. Anh quay người lại và bây giờ mới nhìn thấy rõ tên địch thủ đêm qua. Hắn vẫn nằm co rúm và còn ngủ ở đầu toa đằng kia.
- Lại đây, - Wladek ra lệnh. Tên kia từ từ thức dậy.
- Lại đây, - Wladek nhắc lại, giọng to hơn trước. Tên kia vâng lời ngay. Lần đầu tiên Wladek mới nhìn kỹ được hắn. Hai người chạc tuổi nhau nhưng rõ ràng tên kia cao lớn hơn Wladek một chút, mặt mũi trông trẻ hơn và mớ tóc hắn bù xù.
- Việc đầu tiên là kiếm cái gì ăn đã, - Wladek nói.
- Anh theo tôi, - tên kia nói và nhảy luôn ra ngoài toa. Wladek thất thểu đi theo hắn lên đồi và vào trong thành phố lúc đó đang họp chợ sáng.
Kể từ sau những bữa ăn tuyệt vời ở chỗ Nam tước đến giờ, anh chưa từng thấy ở đâu có nhiều thức ăn như thế. Các thứ hoa quả, rau cỏ, kể cả thứ lạc mà anh thích, chất đầy trên các ngăn hàng. Tên kia cũng có thể thấy Wladek bị ngợp trước cảnh này.
- Bây giờ chúng mình làm thế này nhé, - tên kia nói bằng một giọng tin tưởng. - Tôi sẽ đi vào một góc ngăn hàng ăn cắp một quả cam rồi bỏ chạy. Anh sẽ đứng đó và hét thật to: Bắt lấy thằng ăn cắp? Người trông hàng sẽ đuổi theo tôi, thế là lúc đó anh nhặt ngay lấy mấy quả nhét vào túi. Đừng có lấy nhiều, chỉ đủ ăn một bữa thôi. Xong rồi, anh quay lại chỗ này, hiểu chưa nào?
- Có lẽ thế, - Wladek nói.
- Để xem dân Moscow như anh có làm được chuyện đó không. - Hắn nhìn anh cười khẩy một cái rồi bước ra. Wladek nhìn theo hắn với một vẻ khâm phục. Hắn đàng hoàng đi vào góc một sạp chợ nhấc lấy một quả trên cả một đống cam cao ngất, nói câu gì đó với người bán hàng rồi thủng thẳng bước đi. Hắn nhìn lại Wladek lúc đó đã hoàn toàn quên cả câu nói "Bắt lấy thằng ăn cắp", nhưng người bán hàng ngửng lên trông thấy vội chạy ra đuổi. Mọi người đang chú ý nhìn theo tên kia thì Wladek vơ quàng lấy ba quả cam, một quả táo và một củ khoai nhét cả vào túi áo ngoài. Lúc
Người bán hàng đã sắp đến gần tên kia thì hắn ném quả cam trả lại cho ông ta. Người đó đứng lại vừa nhặt quả cam vừa chửi rủa, giơ nắm đấm lên dọa rồi quay lại quầy hàng phàn nàn với những người khách quanh đó.
Wladek đang có vẻ khoái trá với cảnh vừa rồi thì một bàn tay đã đặt mạnh lên vai. Anh hoảng sợ quay lại tưởng mình bị bắt.
- Anh có vớ được gì không, anh Moscow, hay chỉ đứng đó xem thôi? .
Wladek cười và đưa ra ba quả cam, quả táo với củ khoai. Tên kia cũng cười theo.
- Tên cậu là gì? - Wladek hỏi.
- Stefan.
Stefan này, mình lại làm một lần nữa đi.
- Thôi đi anh Moscow, anh đừng tưởng thế là khôn nhé. Nếu muốn làm nữa thì phải ra đầu chợ đằng kia và phải chờ ít ra một giờ nữa. Tôi đã chuyên làm ở đây rồi, nhưng anh đừng tưởng là thỉnh thoảng không bị bắt đâu.
Hai anh chàng lặng lẽ đi ra đầu chợ đằng kia. Stefan đi với một vẻ rất đàng hoàng khiến Wladek nghĩ bụng giá mình không biết thì đã mất hết với hắn rồi. Họ trà trộn vào chỗ những người mua hàng buổi sáng, và khi Stefan cho rằng đã đến lúc thì họ tái diễn hai lần cảnh đã làm lúc trước. Cả hai người đều rất thỏa mãn, quay trở về toa xe bỏ hoang để hưởng những gì đã ăn cắp được: sáu quả cam, năm quả táo, ba củ khoai, một quả lê, rất nhiều loại lạc với một phần thưởng đặc biệt là quả dưa to. Trước kia Stefan không bao giờ có túi đủ to để cho quả dưa vào đó được Chiếc áo ngoài của Wladek bây giờ mới làm được chuyện ấy.
- Ăn được, - Wladek cắn vào củ khoai và nói.
- Cậu ăn cả vỏ ư? - Stefan ngạc nhiên nói.
- Mình đã ở những chỗ được ăn vỏ khoai đã là sang lắm rồi, - Wladek nói.
Stefan nhìn anh bằng con mắt khâm phục.
- Vấn đề nữa là chúng ta làm thế nào có tiền đây?- Wladek nói.
- Trong một ngày mà cậu muốn có đủ thứ thế ư, hả ông chủ? - Stefan nói. - Nếu cậu định làm ăn to thì phải nhập bọn với đám ở ngoài bến kia, ông Moscow ạ.
- Cậu chỉ cho tớ xem. - Wladek nói.
Họ ăn hết nửa số quả và giấu chỗ còn lại xuống dưới đống rơm ở góc toa xe, rồi Stefan dẫn Wladek xuống bến chỉ cho anh xem rất nhiều tàu đậu dưới đó. Wladek không tin ở mắt mình nữa. Anh đã được nghe Nam tước kể cho biết về những tàu to chạy xuyên qua các biển lớn đem hàng đến cho nước ngoài, nhưng những chiếc tàu anh được thấy tận mắt đây còn to hơn nhiều so với điều anh tưởng tượng, và chúng đậu thành một hàng dài không thể nhìn thấy hết được.
Stefan nói làm anh sực tỉnh.
- Cậu trông thấy chiếc tàu to tướng màu xanh kia không? Nếu muốn làm thì cậu chỉ việc xuống dưới gầm cái ván cầu, nhặt một cái rổ, chất đầy thóc vào đó rồi trèo lên thang và đổ xuống khoang tàu. Cứ bốn chuyến như thế thì cậu được một rúp. Cậu phải đếm cho đúng, không thì cái thằng cầm đầu ấy sẽ bịp và ăn chặn tiền của cậu đấy.
Cả buổi chiều, Stefan và Wladek làm cái việc vác thóc lên thang. Hai người kiếm được hai mươi sáu rúp. Sau một bữa ăn no nê với số lạc, bánh và hàng ăn cắp được, hai người lăn ra ngủ trong cái toa xe lúc trước.
Sáng hôm sau Wladek dậy trước và Stefan thấy anh ngồi xem bản đồ.
- Cái gì thế? - Stefan hỏi.
- Đây là bản vẽ con đường để tớ chạy ra khỏi nước Nga.
- Cậu có thể ở đây và nhập bọn với tớ thì việc gì phải bỏ nước Nga? - Stefan nói. - Chúng mình cùng làm ăn với nhau được chứ!
- Không, tớ phải đi đến Thổ nhĩ kỳ. Đến đó tớ sẽ được là người tự do lần đầu tiên trong đời. Sao cậu không cùng đi với tớ, hả Stefan?
- Tớ chả bao giờ có thể bỏ Odessa được. Đây là nhà tớ. Đường sắt là nơi tớ sống, những người ở đây tớ đã quen biết từ bé đến giờ rồi. Ở đây chẳng hay gì lắm, nhưng có khi ở Thổ nhĩ kỳ còn tệ hơn. Nhưng nếu cậu muốn đi thì tớ sẽ giúp.
- Tớ làm sao biết được tàu nào đi Thổ nhĩ kỳ? - Wladek hỏi.
- Dễ thôi, tớ có thể biết tất cả những tàu nào sắp đi đâu. Tụi mình sẽ hỏi ông Joe Một Răng ở cuối cầu tàu là biết ngay. Nhưng cậu phải trả ông ấy một rúp.
- Chắc hai người lại chia nhau chứ gì?
- Mỗi người một nửa. - Stefan nói. - Cậu học được nhanh đấy, cậu Moscow ạ. - Nói đến đây, hắn liền nhảy ngay ra ngoài toa.
Wladek chạy theo hắn len lỏi giữa những toa tàu. Anh càng thấy bọn chúng đứa nào cũng nhanh nhẹn, chỉ có mình là phải đi cà nhắc thôi. Đến cuối cầu tàu, Stefan dẫn anh vào một căn lều nhỏ có những đống sách phủ đầy bụi và những bảng giờ tàu đã cũ. Wladek không nhìn thấy ai, nhưng bỗng có tiếng nói từ đằng sau đống sách:
Chúng mày muốn gì thế? Tao không có thì giờ đâu nhé.
- Hỏi một tí cho anh bạn tôi đây, Joe. Chuyến tàu sang sắp tới đi Thổ nhĩ kỳ là bao giờ đấy?
- Bỏ tiền ra đã, - một ông già thò đầu từ phía sau đống sách nói. Mặt mũi ông rõ ra một người đã trải qua nhiều nắng gió. Đầu đội mũ lính thủy. Đôi mắt đen nhìn xoáy vào Wladek.
- Ông ấy là người đi biển giỏi lắm nhé, - Stefan nói thầm với Wladek nhưng đủ để Joe nghe thấy.
- Đừng nói lôi thôi, mày. Rúp đâu?
- Ông bạn tôi cầm tiền, - Stefan nói. - Wladek, -cậu đưa đồng rúp cho ông ấy.
Wladek lấy ra đồng tiền. Joe cắn thử vào đồng tiền xem có thật không, rồi đi ra tủ sách rút lấy một bảng giờ tàu màu xanh rất to. Bụi bay tứ tung. Ông ta vừa ho vừa lật mấy trang trong đó, đưa ngón tay sần sùi dò tìm các tên tàu.
- Thứ Năm sau tàu Renaska sẽ đến lấy than, rồi có lẽ đi vào thứ Bảy. Nếu nó lấy được nhanh thì có thể đi vào đêm thứ Sáu để đỡ tiền thuê cảng. Nó sẽ đậu ở cảng mười bảy.
- Cảm ơn ông Một Răng nhé, - Stefan nói. - Để tôi xem có thể dẫn vài ông bạn giàu đến đây được không.
Joe Một Răng giơ nắm đấm lên chửi, còn Stefan với Wladek kéo nhau chạy ra ngoài.
Trong ba ngày sau đó, hai anh chàng lại tiếp tục đi ăn cắp lương thực, khuân vác thuê và lăn ra ngủ. Đến hôm thứ Năm tuần sau đó, chiếc tàu Thổ nhĩ kỳ đến cảng thì Stefan hầu như đã thuyết phục được Wladek ở lại Odessa. Nhưng cuối cùng vì nỗi sợ hãi đối với người Nga ám ảnh Wladek nên anh thấy cuộc sống mới với Stefan dù sao cũng không thể hấp dẫn anh hơn được nữa.
Họ đứng trên cầu tàu nhìn con tàu mới đến đậu ở cảng mười bảy.
- Mình làm thế nào lên tàu được? - Wladek hỏi.
- Dễ thôi, - Stefan nói, - Sáng mai mình sẽ nhập bọn với đám người khuân vác. Tớ sẽ đi sát ngay sau cậu. Chờ lúc nào than đổ gần đầy thì cậu nhảy ùm ngay xuống đó, tìm chỗ trốn, còn tớ thì nhặt cái giỏ của cậu và quay ra phía bên kia.
- Rồi cậu lĩnh luôn cả phần tiền của tớ chứ gì, - Wladek nói.
- Tất nhiên, - Stefan đáp. - Tớ có sáng kiến thế thì phải được thưởng tiền chứ, nếu không thì ai người ta còn tin ở chuyện làm ăn tự do được nữa?
Sáng hôm sau, họ nhập hội với đám khuân vác than. Họ lên lên xuống xuống trên chiếc ván cầu đồ than, nhưng than đổ xuống mãi chỉ thấy lọt thỏm. Cho đến tận chiều tối mà vẫn chưa được nửa khoang. Đêm đó, hai người ngủ thật say. Rồi lại đến sáng hôm sau nữa, họ tiếp tục khuân vác cho đến giữa buổi chiều thì khoang tàu chở than mới gần đầy. Stefan đá vào gót chân Wladek làm hiệu.
- Lần sau nhé, cậu Moscow, - hắn nói. Lên đến đầu ván cầu, Wladek đổ thúng than của mình xuống, bỏ lại cái thúng trên cầu tàu, vịn vào lan can và nhẩy xuống đống than. Stefan nhặt cái thúng của Wladek lên rồi tiếp tục đi sang phía bên kia, vừa đi vừa huýt sáo.
- Tạm biệt anh bạn nhé, - Stefan nói. - Và chúc cậu may mắn với bọn Thổ vô đạo nhé.
Wlađek ép người vào góc khoang tàu và nhìn đống than tiếp tục đổ xuống bên cạnh mình. Bụi than bay mù lên, vào cả mũi mồm, chui cả vào phổi và vào mắt anh. Anh cố gắng chịu đau không dám ho lên, sợ thủy thủ trên tàu nghe thấy. Đúng đến lúc anh thấy không thể nào chịu được cái không khí ngột ngạt, đã định quay lên với Stefan để rồi sau này tìm cách khác mà trốn thì người ta đóng cửa khoang lại. Wladek được thể, ho ran một hồi.
Một lúc sau, anh thấy có cái gì như cắn vào gót chân. Anh rùng mình nhìn xuống xem là cái gì, hóa ra đó là chuột rất to. Anh cầm cục than nén vào con vật khủng khiếp ấy, nhưng nó vừa chạy đi thì con khác, rồi lại con khác nữa kéo đến. Con sau còn mạnh bạo hơn, leo cả lên chân anh. Không biết nó ở đâu ra.
Vừa to, vừa đen sì và rất đang đói ăn. Anh cúi xuống nhìn kỹ. Lần đầu tiên trong đời Wladek thấy chuột có mắt đỏ. Anh vội trèo lên đống than và cố mở cái nắp trên cửa khoang. Ánh nắng rọi vào và lũ chuột chui tọt xuống hầm dưới. Anh định trèo ra ngoài, nhưng con tàu vừa ra khỏi bến cảng. Anh hoảng sợ, lại rút vào trong khoang. Nếu như con tàu này buộc phải quay lại và giao Wladek cho nhà cầm quyền thì anh biết chắc mười mươi là sẽ phải trở về trại giam 201 bọn Bạch Nga mà vĩnh viễn không bao giờ ra khỏi được nữa. Anh đành ở lại với lũ chuột. Anh vừa đậy cái nắp vào là chúng lại kéo đến. Anh phải nhặt than ném liên tiếp vào chúng, nhưng con này vừa đi thì con khác lại xuất hiện. Chốc chốc anh phải hé mở cái nắp cho ánh sáng lọt vào, vì chỉ có ánh sáng mới là đồng minh duy nhất giúp cho anh có thể xua lũ chuột đi được Suốt hai ngày ba đêm Wladek phải vật lộn chiến đấu với lũ chuột, không được một lúc nào ngủ yên với chúng. Cuối cùng khi con tàu đến cảng Constantinople và người ta mở nắp khoang ra thì Wladek đen kịt suốt từ đầu đến chân, còn từ đầu gối xuống đến ngón chân thì đầy những máu. Thủy thủ trên tàu kéo anh ra khỏi đống than. Wladek cố đứng dậy, nhưng rồi lại ngã gục xuống trên boong tàu.
* *
Lúc Wladek tỉnh lại - anh không biết mình ở đâu và sau đó bao lâu - thấy mình nằm trên chiếc giường trong một căn phòng nhỏ, có ba người mặc áo dài trắng đứng chung quanh đang nhìn anh rất kỹ, và họ nói một thứ tiếng gì đó anh chưa từng nghe thấy bao giờ. Trên thế giới này có bao nhiêu thứ ngôn ngữ nhỉ?
Anh nhìn lại mình, vẫn còn đen kịt và đầy những máu me. Anh định ngồi dậy thì một trong ba người mặc áo trắng, nhiều tuổi nhất và có bộ râu dê trên khuôn mặt gầy nhỏ, lại đẩy anh nằm xuống. Ông ta nói với Wladek bằng một thứ tiếng gì lạ lắm. Wladek lắc đầu. Ông ta lại nói tiếng Nga. Anh vẫn lắc đầu. Anh biết là nếu mình trả lời bằng tiếng đó thì lập tức bị đưa về chỗ cũ ngay. Thứ tiếng sau đó ông bác sĩ thử nói là tiếng Đức. Wladek biết rằng mình còn giỏi hơn ông ta về tiếng này.
- Anh nói được tiếng Đức?
- Vâng.
- A, thế ra anh không phải người Nga?
- Không.
- Vậy anh làm gì ở Nga?
- Tôi trốn.
- À ra thế. - ông ta quay lại nói với những người kia bằng thứ tiếng của mình, rồi ba người đi ra ngoài.
Một cô y tá bước vào lau sạch người cho Wladek, mặc cho anh kêu đau. Cô ta buộc thuốc vào chân cho anh, rồi bỏ anh nằm đó ngủ tiếp. Lần thứ hai Wladek tỉnh dậy thấy chỉ có mỗi mình anh trong phòng. Anh nhìn lên trần nhà trắng toát, suy nghĩ xem sẽ làm gì.
Anh vẫn không biết được mình đang ở xứ nào. Anh trèo lên bệ cửa sổ nhìn ra ngoài. Anh thấy có một cái chợ, không khác gì lắm với chợ Ở Odessa, chỉ trừ có những nguời ở đây mặc áo dài trắng và da dẻ họ thẫm hơn. Họ cũng đội những chiếc mũ có nhiều màu, trông giống những chậu hoa con ở trên đầu, còn chân thì đi dép.
Đàn bà thì mặc toàn đồ đen, cả đến mặt họ cũng che kín chỉ chừa hai con mắt cũng đen. Wladek nhìn họ đi lại tấp nập trong chợ, nhìn các bà mua bán, và anh cảm thấy có lẽ ở xứ nào thì cũng chỉ là như vậy thôi.
Lát sau anh nhìn thấy bên cạnh cửa sổ có chiếc thang đỏ bằng sắt gắn vào tường và xuống đến tận đất. Anh bước xuống và khẽ ra mở cửa, ngó nhìn hành lang bên ngoài. Mọi người đi đi lại lại nhưng không ai để ý gì đến anh. Anh lại khẽ đóng cửa vào, tìm ra mấy thứ đồ vật của anh trong ngăn tủ ở góc phòng rồi vội mặc quần áo vào. Quần áo của anh vẫn còn bám đầy than, cọ sát vào da thịt anh lúc này đã được rửa ráy sạch sẽ. Anh quay trở ra cửa sổ. Cánh cửa sổ mở rất dễ. Anh bám lấy thang vịn chữa cháy nhảy ra ngoài cửa sổ rồi theo cái thang sắt xuống đến đất.
Điều đầu tiên là anh thấy nóng, nóng hết sức. Anh chỉ muốn mình đừng khoác cái áo lông nặng nề này nữa.
Xuống đến đất, Wladek đã định chạy ngay, nhưng đôi chân anh còn yếu và rất đau nên chỉ có thể đi được chậm. Anh ước gì mình thoát được cái cảnh cà nhắc này. Anh không quay lại nhìn bệnh viện nữa mà đi lẫn vào đám đông trong chợ.
Wladek nhìn vào những thứ bầy trên quầy hàng mà thèm. Anh định mua một quả cam và ít lạc. Anh lần tìm trong áo, nhớ là tiền còn giấu ở trong tay áo.
Nhưng anh không thấy gì, và cả đến chiếc vòng bạc cũng không còn nữa. Ra những người mặc áo trắng trong bệnh viện đã lấy mất của anh rồi. Anh định quay lại bệnh viện đòi cái di sản ấy những nghĩ bụng phải ăn một cái gì đã, rồi có đi đâu mới đi được. Có lẽ trong túi còn tiền. Anh sục tay vào các túi bỗng thấy cả ba tờ bạc và một ít tiền đồng. Cả tấm bản đồ của bác sĩ và chiếc vòng bạc cũng còn trong đó.
Wladek vui mừng hết sức. Anh đeo lại chiếc vòng bạc vào tay và kéo nó lên tận trên khuỷu tay. Wladek chọn lấy một quả cam to nhất với một gói lạc. Người bán hàng nói cái gì đó anh không hiểu.
Wladek nghĩ cách dễ dàng nhất để ông ta hiểu được là đưa ra tờ bạc 50 rúp. Người bán hàng nhìn vào tờ giấy bạc, cười và giơ hai tay lên trời.
- Lạy Thánh Allah? - ông ta kêu lên, giằng lấy gói lạc và cam trong tay Wladek rồi giơ ngón tay trỏ xua anh đi. Wladek buồn rầu bước ra ngoài. Anh nghĩ là có lẽ tiếng nói khác thì phải dùng thứ tiền khác. Ở Nga thì nghèo, còn ở đây thì anh không có một xu nào. Có lẽ anh phải ăn cắp một quả cam thôi, Nếu sắp bị bắt thì vứt trả lại cho người bán hàng. Wladek đi ra đầu chợ đằng kia như kiểu Stafan đã làm, nhưng anh không bắt chước được kiểu đi đàng hoàng và tin tưởng như Stefan. Anh chọn quầy hàng cuối cùng, và liếc nhìn thấy không có ai trông hàng, anh vội nhặt một quả cam rồi bỏ chạy. Bỗng có tiếng ồn ào phía sau. Anh tưởng như có đến nửa thành phố này đang đuổi theo mình.
Một người to lớn nhẩy đến túm lấy Wladek vật xuống đất. Sáu bảy người nữa nắm lấy anh kéo trở lại quầy hàng. Một đám đông xúm lại chung quanh. Một viên cảnh sát đứng đó chờ. Người ta làm biên bản. Người bán hàng với viên cảnh sát to tiếng với nhau. Viên cảnh sát quay sang quát tháo với Wladek, nhưng anh chẳng hiểu ông ta nói gì. Viên cảnh sát nhún vai rồi nắm lấy tai Wladek dẫn đi. Những người chung quanh đó nhìn anh quát mắng. Một số người còn nhổ vào mặt anh. Về đến trạm cảnh sát, Wladek bị tống xuống một gian xà lim chật hẹp trong đó đã có sẵn vài ba chục những tên lưu manh ăn cắp mà anh không biết ai vào ai nữa. Wladek không nói năng gì với chúng, và bọn chúng cũng có vẻ không muốn nói gì với anh.
Anh ngồi dựa lưng vào tường, co rúm người lại, im lặng và khiếp sợ. Họ để anh ngồi đó một ngày một đêm không cho ăn uống gì. Ngửi mùi hôi thối trong xà lim khiến anh nôn mửa hết không còn gì trong bụng.
Anh không thể ngờ rằng lại có một ngày mà ngay cả đến những căn hầm Ở Slonim cũng còn yên ấm dễ chịu hơn.
Sáng hôm sau có hai người lính gác đến kéo Wladek ra khỏi nhà hầm để ra bên ngoài cùng xếp hàng với nhiều tù nhân khác. Họ bị buộc vào với nhau bằng một sợi dây thừng vòng quanh ngực rồi đưa ra phố. Một đám đông người đã đứng chờ sẵn ở đây. Họ reo hò khi thấy tù nhân được dẫn ra. Rồi họ kéo theo đoàn tù ra chợ, vừa vỗ tay vừa hét. Wladek không hiểu tại sao họ làm như vậy. Ra đến chợ, tất cả dừng lại Tên tù đầu tiên được cởi tróỉ và dẫn ra giữa chợ:
Ở đây đã có hàng trăm người đứng chung quanh, và ai cũng hò hét rầm trời
Wladek nhìn quang cảnh mà không thể tưởng tượng được. Khi tên tù đầu tiên ra đến quảng trường, hắn bị tên lính gác đánh cho quỳ xuống rồi bàn tay phải của hắn bị buộc lên một cục gỗ to. Một người khác to lớn giơ cao lưỡi kiếm lên khỏi đầu và chặt xuống cổ tay tên tù đó. Người kia chỉ chặt vào đúng mấy đầu ngón tay. Tên tù hét lên đau đớn. Người kia lại giơ cao lưỡi kiếm lên. Lần này chặt vào đúng cổ tay, nhưng bàn tay chưa đứt hẳn, còn lủng lẳng ở cánh tay tên tù và máu tuôn xuống mặt đất. Lưỡi kiếm lại giơ lên lần thứ ba và lần này thì bàn tay của tên tù rụng hẳn xuống đất. Đám người chung quanh rồ lên tán thưởng. Tên tù được cởi dây trói và lăn ra đó, ngất đi. Một tên lính gác đến kéo hắn ra ngoài, vứt dưới chân đám người đứng đó. Một người đàn bà khóc lóc, - Wladek đoán đó là vợ anh ta - và vội lấy một mảnh vải ra buộc cho cầm máu. Tên tù thứ hai đã chết luôn sau nhát kiếm thứ tư. Tên đao phủ to lớn kia không quan tâm đến chuyện ai sống ai chết.
Hắn chỉ vội vã làm nhiệm vụ của hắn. Hắn được trả lương để chuyên chặt tay những người khác.
Wladek nhìn ra chung quanh mà khiếp sợ đến nghẹt thở. Giá như còn cái gì trong bụng thì anh cũng đến nôn ra hết. Anh quay ra các phía xem có ai cứu giúp hoặc có cách gì trốn được. Không ai nói cho anh biết là theo luật của Hồi giáo, nếu định chạy trốn thì sẽ bị chặt chân. Trong các khuôn mặt đứng trong đám đông, anh nhìn ra một người ăn mặc bộ đồ sẫm như kiểu Châu âu. Người đó đứng cách Wladek chỉ độ vài chục mét và rõ ràng là ông ta nhìn cảnh này với một thái độ kinh tởm. Nhưng ông ta không nhìn về phía Wladek, cũng không nghe tiếng anh gào lên kêu cứu mỗi khi có nhát kiếm hạ xuống. Không biết ông ta là người Pháp, hay Đức, hay Anh, hoặc có thể là Ba-lan nữa? Wladek không biết ông ta là người nước nào nhưng hẳn phải có lý do gì mới đứng xem cái cảnh rùng rợn này. Wladek vẫn cứ nhìn về phía ông ta, chỉ mong ông ta quay ra nhìn về phía mình. Nhưng không, ông ta vẫn nhìn đi chỗ khác. Wladek còn một bên tay không bị trói giơ lên vẫy nhưng ông ta không để ý Họ cởi trói người thứ hai đứng trước Wladek và kéo anh ta đi. Lưỡi kiếm lại vung lên đám đông lại reo hò. Người đàn ông mặc bộ đồ sẫm quay mặt đi không dám nhìn. Wladek lại giơ tay vẫy ông ta lần nữa. Ông ta nhìn Wladek rồi quay sang nói với người bên cạnh mà Wladek từ nãy không để ý thấy. Lúc này tên lính gác đang giằng co với một tù nhân đứng trước Wladek. Anh ta đặt bàn tay tù nhân xuống dưới sạp. Lưỡi kiếm vung lên và chỉ một nhát là bàn tay đó rụng. Đám đông thấy thế thất vọng. Wladek lại quay lại nhìn mấy người châu Âu kia. Lúc này cả hai người đó đều nhìn anh. Anh muốn họ bước đến, nhưng họ chỉ đứng đó nhìn.
Tên lính gác bước đến, vứt chiếc áo 50 rúp của Wladek xuống đất, mở khóa và xắn tay áo của anh lên. Hắn lôi Wladek đi nhưng anh cố giẫy giụa. Anh không đủ sức cưỡng lại tên lính. Ra đến gần cục gỗ, hắn đá vào khoeo chân cho anh quỳ xuống đất. Sợi dây da lại được quấn vào cổ tay anh. Anh không còn biết làm gì nữa, chỉ nhắm mắt lại trong khi tên đao phủ giơ cao lưỡi kiếm lên trên đầu hắn. Anh hồi hộp chờ đợi nhát kiếm hạ xuống, nhưng tự nhiên thấy trong đám đông im lặng hẳn đi, và chiếc vòng bạc của Nam tước từ trên khuỷu tay anh rơi tụt xuống lăn trên cục gỗ. Đám người chung quanh im lặng nhìn chiếc vòng bạc di sản kia óng ánh dưới nắng. Tên đao phủ ngừng lại, bỏ kiếm xuống và ngắm nghía chiếc vòng bạc. Wladek mở mắt ra. Tên lính đứng đó định lồng chiếc vòng bạc trở lại cổ tay Wladek, nhưng còn vướng sợi dây da nên không kéo lên được. Một người mặc quân phục ở đâu vội chạy đến bên tên đao phủ. Anh ta cũng nhìn vào chiếc vòng bạc với những chữ viết trên đó rồi chạy đến một người khác, có lẽ là cấp chỉ huy, vì người đó cũng đang chầm chậm bước đến chỗ Wladek. Thanh kiếm vẫn nằm trên mặt đất. Đám đông lại bắt đầu gào hét. Tên lính thứ hai cũng định kéo chiếc vòng bạc lên nhưng không được vì muốn thế thì hắn phải cởi sợi dây da mới được. Hắn quát mấy tiếng vào mặt Wladek, nhưng anh không hiểu gì và chỉ đáp lại bằng tiếng Ba-lan:
- Tôi không nói được tiếng của ông.
Tên sĩ quan tỏ vẻ ngạc nhiên, giơ hai tay lên trời và hét ìên một tiếng:
- Allah?
Wladek nghĩ có lẽ đó cũng giống như câu "Lạy Chúa". Tên sĩ quan bước đến chỗ hai người mặc bộ đồ Châu âu đứng trong đám đông và hoa tay múa chân một lúc. Wladek thầm cầu nguyện. Trong hoàn cảnh này, người ta cầu nguyện bất cứ thần linh nào, dù đó là thánh Allah hay là Đức mẹ đồng trinh. Hai người Châu Âu nhìn về phía Wladek và Wladek cũng gật đầu rối rít. Một trong hai người đó bước theo tên sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ đến chỗ anh. Người đó quỳ một chân xuống bên cạnh Wladek, nhìn chiếc vòng bạc rồi nhìn anh rất kỹ. Wladek chờ đợi. Anh có thể nói chuyện được bằng năm thứ tiếng, và anh thầm mong ông ta sẽ nói một trong năm thứ tiếng ấy. Khi nghe thấy người Âu Châu đó quay sang nói với tên sĩ quan kia bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ thì anh thất vọng. Đám đông lúc này đang rít lên và ném những quả thối vào phía trong. Tên sĩ quan kia gật đầu rồi người Âu Châu quay sang nhìn Wladek.
- Anh nói được tiếng Anh không?
Wladek thở dài nhẹ người.
- Thưa ông có. Tôi nói được. Tôi là công dân Ba-lan.
- Tại sao anh có được chiếc vòng bạc ấy?
Nó là của cha tôi, thưa ông. Cha tôi chết trong nhà tù của người Đức ở Ba lan, còn tôi thì bị bắt và tống giam vào một trại tù ở Nga. Tôi đã trốn được và đến đây bằng tàu thủy. Đã nhiều ngày nay tôi không được ăn uống gì. Khi người bán hàng không chịu bán cho tôi quả cam bằng tiền rúp, tôi phải lấy một quả vì tôi đói quá rồi.
Người Anh từ từ đứng dậy, quay sang phía tên sĩ quan và nói với một giọng cứng rắn. Tên sĩ quan lại nói với tên đao phủ. Tên đao phủ ngập ngừng một chút, nhưng tên sĩ quan gắt lên hắn mới cúi xuống miễn cưỡng tháo sợi dây da. Wladek lại nôn ọe.
- Đi theo tôi, - người Anh nói, - Đi mau lên, kẻo họ thay đổi ý kiến. Wladek vẫn còn hoang mang chưa hiểu, vội vớ lấy chiếc áo rồi đi theo ông ta. Đám đông đứng ngoài la ó kêu hét và ném theo các thứ họ có sẵn trong tay. Tên đao phủ nhanh chóng đặt bàn tay một tù nhân khác lên cục gỗ, rồi bằng nhát kiếm đầu hắn chỉ chặt đi một ngón tay cái thôi. Hình như chỉ có cách đó mới làm yên được đám đông.
Người Anh lách qua được đám đông nhốn nháo ra đến ngoài quảng trường, và người bạn cùng đi với ông ta cũng ra theo.
- Chuyện gì thế, Edward?
- Chú bé này nói là người Ba-lan và trốn khỏi nước Nga. Tôi nói với tên sĩ quan trong kia bảo nó là người Anh, vì vậy nó thuộc thẩm quyền của chúng ta.
Bây giờ hãy đưa nó về sứ quán rồi tìm hiểu xem nó có nói thật hay không.
Wladek chạy theo giữa hai người rảo bước qua chợ và đi vào phố Bẩy ông Vua. Anh vẫn còn nghe loáng thoáng tiếng người trong đám đông mỗi khi lưỡi kiếm của tên đao phủ hạ xuống lại reo hò tán thưởng.
Hai người Anh đi qua một cái cổng cuốn vào một mảnh sân rải sỏi và đến trước một ngôi nhà lớn quét sơn màu xám. Họ bảo Wladek đi theo. Trên cửa có tấm biển đề ĐẠI SỨ QUÁN ANH. Bước vào trong nhà rồi, Wladek mới cảm thấy an toàn. Anh đi theo sau hai người qua một dãy hành lang dài trên tường có treo những bức tranh vẽ lính và thủy thủ ăn mặc rất lạ. Ở cuối hành lang là bức chân dung một người già trong bộ quân phục màu xanh của Hải quân và trên ngực đeo rất nhiều huân chương. Bộ râu của người đó khiến Wladek nhớ đến Nam tước. Một người lính ở đâu bước ra chào.
- Ông cai Smithers, ông nhận lấy chú bé này, cho nó đi tắm. Rồi cho nó ăn ở trong bếp. Bao giờ nó ăn xong và đỡ cái mùi hôi thối thì ông kiếm cho nó vài cái quần áo mới rồi dẫn nó lên chỗ tôi nhé.
- Thưa vâng, - ông cai nói và lại giơ tay chào.
- Cậu bé, đi theo tôi. - ông ta bước đi và Wladek ngoan ngoãn theo sau. Anh phải chạy mới theo kịp bước chân ông ta được. Ông ta đưa anh xuống tầng hầm sứ quán và dẫn vào một căn phòng nhỏ, có cửa sổ bé tí. Ông ta bảo anh cởi quần áo ra rồi chờ đó. Lát sau ông ta quay lại với mấy chiếc quần áo mới, nhưng thấy Wladek vẫn mặc nguyên quần áo và ngồi ở cạnh giường xoay xoay chiếc vòng bạc quanh cổ tay.
- Nhanh lên cậu bé. Đây không phải chỗ dưỡng bệnh nhé.
- Xin lỗi ngài ạ. - Wladek nói.
- Đừng gọi tôi là ngài. Tôi là ông Cai Smithers. Gọi tôi là Cai thôi. _
- Dạ, tôi là Wladek Kogkiewicz. Ông gọi tôi là Wladek. -
- Này, đừng có đùa. Trong quân đội Anh đã có khối người đùa rồi, không cần phải có thêm cậu vào đấy nữa.
Wladek không hiểu ông ta nói gì. Anh vội cởi quần áo.
- Theo tôi nhanh lên. Wladek lại được tắm một lần tắm tuyệt vời với xà phòng và nước nóng. Wladek nghĩ đến người đàn bà Nga đã che chở cho anh. Suýt nữa thì anh đã trở thành con trai bà ta, nếu như không có chồng bà ta.
Và lại một bộ quần áo mới nữa. Lạ, nhưng sạch sẽ thơm tho. Không biết nó là của con ai thế nhỉ. Nhưng kia, ông ấy đã đến rồi kìa.
Ông cai Smithers dẫn Wladek vào bếp và giao anh cho một bà làm bếp to béo có bộ mặt hồng hào, một bộ mặt dễ thương nhất kể từ khi anh rời đất Ba lan đến giờ. Bà ta khiến anh nhớ đến mẹ nuôi nhưng không biết bây giờ bà đã ra sao ở Trại 201 rồi.
- Chào chú, - bà ta tươi cười nói, - Tên chú là gì nào? .
Wladek xưng tên.
- Này chú, tôi sẽ cho chú ăn một bữa đàng hoàng của người Anh, chứ những cái món Thồ Nhĩ Kỳ ở đây là không ăn được đâu. Bắt đầu bằng súp nóng với thịt bò. Trước khi đi gặp ông Prendergast, thì chú phải chén cho đã vào chứ. - bà ta cười - Chú nhớ là đừng có sợ ông ấy nghe không. Mặc dầu ông ấy là người Anh, nhưng ông ấy cũng khá tốt bụng đấy.
- Thế bà không phải người Anh ư? - Wladek ngạc nhiên hỏi.
- Trời ơi, không đâu chú ạ. Tôi là người Xcốt-len. Khác lắm chứ. Người Xcốt-len chúng tôi ghét người Anh hơn cả bọn Đức ghét người Anh nữa kia, - bà ta vừa nói vừa cười. Bà ta đặt xuống trước mặt Wladek một đĩa súp nóng có rất nhiều thịt và rau trong đó.
Anh đã hoàn toàn quên mất rằng thức ăn có thể thơm và ngon như vậy. Anh ăn từ từ, trong bụng chỉ sợ rằng có thể còn rất lâu nữa mới lại được ăn như thế này.
Ông Cai lạỉ xuất hiện.
- Cậu bé ăn no chưa?
- Dạ, no rồi, cảm ơn ông lắm.
Ông Cai nhìn Wladek với vẻ nghi hoặc, nhưng thấy Wladek không có vẻ đùa, bèn nói:
- Tốt. Thôi, bây giờ đi thôi. Phải lên trình diện với ông Prendergast cho sớm.
Ông Cai đã đi khuất sau cửa bếp nhưng Wladek còn nán lại nhìn bà bếp. Anh rất không thích chia tay với người nào mới gặp, nhất là người đó lại tốt với mình.
Thôi chú đi đi, chúc chú gặp may nhé. - Cảm ơn bà, - Wladek nói. Thức ăn của bà là ngon nhất. Tôi sẽ nhớ mãi.
Bà bếp nhìn anh mỉm cười. Anh lại phải nhẩy cà nhắc để chạy theo ông cai có những bước đi rất dài.
Ông ta dừng lại bất ngờ trước một khung cửa khiến Wladek suýt đâm sầm vào. Này, cậu bé cẩn thận đấy, phải nhìn chứ. Ông ta đưa tay lên gõ vào cửa.
- Vào - một giọng nói bên trong vẳng ra. Ông cai mở cửa và chào.
- Cậu bé Ba lan, thưa ngài. Đã tắm rửa ăn uống tử tế rồi.
- Cảm ơn ông Cai. Có lẽ nhờ ông nói giùm với ông Grant bảo ông cùng đến đây cho.
Edwart Prendergast ngồi phía sau bàn giấy nhìn lên. Ông ta ra hiệu cho Wladek ngồi xuống. Ông không nói gì và lại tiếp tục xem giấy tờ. Wladek ngồi nhìn ông ta rồi lại nhìn lên những bức chân dung trên tường. Lại thấy những ông tướng và đô đốc và cả ông có râu anh đã thấy lúc trước, nhưng trong tranh này ông ta mặc quần áo ka-ki của quân đội. Vài phút sau, một người Anh khác mà anh nhớ là đã thấy ở ngoài chợ bước vào phòng.
- Cảm ơn anh cùng đến, Harry. Mời anh ngồi. - Ông Prendergast quay sang Wladek. - Nào, chú bé, bây giờ chú nói lại từ đầu đi xem nào. Chú phải nói đúng sự thật, không được nói quá, hiểu không?
- Thưa ông vâng.
Wladek bắt đầu câu chuyện từ những ngày sống ở Ba lan. Anh phải dừng lại một đôi chỗ để tìm cho đúng những từ tiếng Anh. Cứ xem nét mặt hai người Anh này, Wladek cũng thấy là lúc đầu họ tỏ ra không tin. Thỉnh thoảng họ ngắt lời và hỏi anh vài câu hỏi, rồi nhìn nhau gật đầu sau khi anh trả lời. Sau một giờ nói chuyện, những điều Wladek kể mới đi đến chỗ lúc này anh đang ngồi trong cơ quan lãnh sự của Nữ hoàng Anh tại Thổ Nhĩ Kỳ.
- Harry ạ, - ông phó lãnh sự nói, - tôi nghĩ bổn phận chúng ta là phải báo ngay cho đoàn Ba-lan biết rồi trao chú Koskiewicz này lại cho họ. Tôi thấy trong trường hợp này thì dứt khoát đó là trách nhiệm của họ.
- Đồng ý, - người có tên là Harry nói. - Chú bé này, hôm nay chỉ một suýt nữa là chú chết ở ngoài chợ. Cái luật Hồi giáo đã cũ này, người ta gọi là Sher, quy định hễ ai ăn cắp là phải chặt một tay, về lý thuyết mà nói, đã bị chính thức bãi bỏ từ lâu rồi. Thực ra, trong bộ luật hình Ottoman thì xử như thế là phạm tội ác rồi. Tuy nhiên, trên thực tế thì bọn man rợ vẫn tiếp tục thực hiện điều đó. - ông ta nhún vai.
- Tại sao họ không chặt tay tôi? - Wladek hỏi và ôm lấy cổ tay.
- Tôi bảo họ là muốn chặt tay tất cả những người Hồi giáo thì tuỳ, nhưng không được chặt tay người Anh, - Edward Prendergast nói.
- Ôi tạ ơn Chúa, - Wladek nói.
- Tạ ơn Edward Prendergast chứ, ông phó lãnh sự nói và bây giờ ông ta mới mỉm cười. - Đêm nay chú có thể nghỉ lại đây, rồi mai chúng tôi sẽ đưa sang đoàn đại diện bên đó. Người Ba lan không có sứ quán ở Constantinople, - ông ta nói bằng một giọng hơi khinh thường, - nhưng ông bạn đồng sự của tôi bên đó là một người tốt, vì là người ngoại quốc. - Ông ta bấm chuông gọi, và ông cai xuất hiện ngay.
- Ngài gọi gì ạ.
- Ông Cai, ông đưa chú bé Koskiewicz này về phòng. Sáng mai cho chú ấy ăn sáng rồi chín giờ đúng đưa đến chỗ tôi .
- Vâng. Đi lối này, cậu bé, mau lên.
Wladek đi theo ông cai. Anh không kịp cảm ơn hai người Anh đã cứu cho bàn tay của anh, có lẽ cứu cả mạng sống của anh nữa. Trở về căn phòng nhỏ có chiếc giường sạch sẽ chẳng khác gì như anh là khách danh dự ở đây, anh cởi quần áo ra, vứt chiếc gối xuống sàn rồi lăn ra ngủ một mạch cho đến tận sáng hôm sau khi mặt trời chiếu vào qua khung cửa sổ nhỏ tí.
Dậy rửa mặt, cậu bé, mau lên.
Đó là ông cai, mặc bộ quân phục trắng bong và là thẳng tắp, như ông ta không nằm giường bao giờ.
Trong khoảnh khắc bừng tỉnh dậy, Wladek tưởng như mình đang còn trong Trại 201, vì tiếng đập bằng chiếc gậy của ông cai vào khung giường sắt giống như tiếng gõ của thanh sắt tam giác mà Wladek vẫn nghe quen trong trại. Anh trườn ra khỏi giường và vơ lấy quần áo.
- Đi rửa đã, cậu bé, đi rửa đã. Chúng ta không nên đề cho ông Prendergast sáng sớm ra phải ngửi cái mùi của cậu, phải thế không nào?
Wladek không biết là mình phải rửa ráy như thế nào nữa, vì anh thấy đã sạch lắm rồi. Ông cai chăm chú nhìn anh.
- Chân cậu làm sao thế?
- Không sao, không sao, - Wladek nói và quay mặt đi chỗ khác.
- Thôi được, ba phút sau tôi trở lại. Ba phút đấy, nghe không? Phải sửa soạn cho xong đấy. Wladek rửa tay rửa mặt thật nhanh rồi mặc quần áo. Anh ngồi ở đầu giường ôm chiếc áo lông cừu chờ ông cai đến đưa anh đi gặp ông phó lãnh sự.
Ông Prendergast tỏ vẻ ôn hòa hơn hôm qua rất nhiều.
- Chào chú Koskiewicz.
- Dạ thưa chào ông.
- Chú ăn sáng ngon không?
- Dạ tôi không ăn sáng, thưa ông?
- Tại sao không? - ông phó lãnh sự nói và quay sang nhìn ông cai.
- Ngủ quá giờ, thưa ngài. Nếu ăn sẽ đến muộn.
- Ồ thế thì phải làm thế nào chứ nhỉ. Ông cai, nhờ ông nói với bà Henderson đem cho một quả táo hay cái gì đó.
- Vâng, thưa ngài.
Wladek cùng ông phó lãnh sự chậm chạp bước theo hành lang đi ra phía cửa sứ quán, rồi đi tiếp qua sân rải sỏi ra một chiếc xe đỗ bên ngoài. Đó là chiếc xe Austin, một trong những xe hiếm có ở Thổ Nhĩ Kỳ và cũng là lần đầu tiên Wladek được ngồi trên một chiếc xe riêng. Anh lấy làm tiếc phải rời sứ quán Anh. Đây là nơi an toàn đầu tiên mà từ bao nhiên năm nay anh mới cảm thấy được. Anh không biết là suốt đời mình còn có dịp nào được ngủ một đêm nữa trên chiếc giường như ở đó nữa không. Ông cai chạy xuống ngồi vào tay lái. Ông đưa cho Wladek một quả táo với vài tấm bánh còn nóng.
- Cậu ăn đi và đừng để vãi trong xe nhé. Bà bếp gởi lời chào cậu đấy.
Chiếc xe từ từ chạy qua những phố đông đúc và nóng nực. Tốc độ như người đi bộ. Người Thổ Nhĩ Kỳ luôn luôn cho rằng chẳng có gì có thể đi nhanh hơn một con lạc đà, vì vậy họ cũng không tránh đường cho chiếc xe Austin đi lên làm gì. Xe mở tất cả các cửa kính mà Wladek vẫn thấy nóng đến ngạt thở, nhưng ông Prendergast thì vẫn cứ tỉnh như không, không hề tỏ ra khó chịu gì. Wlađek chúi người vào sau xe, sợ có ai đã chứng kiến sự việc hôm trước và nhận ra anh trong xe có thể lại hô hoán lên chăng. Chiếc xe Austin nhỏ và sơn đen đỗ lại trước một ngôi nhà nhỏ đã cũ có biển đề LÃNH SỰ QUÁN BA-LAN. Wladek cảm thấy xúc động pha lẫn với thất vọng.
Cả ba người bước xuống xe.
- Hạt táo đâu, cậu bé, - ông cai hỏi.
- Tôi ăn rồi.
Ông cai cười rồi gõ cửa. Một người đàn ông nhỏ bé, tóc đen, cằm vuông và có vẻ thân mật ra mở cửa. Ông ta mặc áo sơ-mi ngắn tay, người sạm đen, rõ ràng là do cái nắng Thổ Nhĩ Kỳ. Ông ta nói tiếng Ba Lan.
Đây là những tiếng mẹ đẻ đầu tiên Wladek được nghe thấy kể từ hôm rời trại giam đến nay. Wladek nhanh chóng trả lời ngay và giải thích tại sao anh đến đây. Ông ta quay sang ông phó lãnh sự Anh.
- Xin mời ông đi lối này, ông Prendergast, - ông ta nói tiếng Anh rất thạo. - ông đích thân đưa cậu bé đến đây, thật là quý hóa quá.
Họ trao đổi với nhau vài câu ngoại giao lịch sự rồi ông Prendergast và ông cai ra về. Wladek nhìn theo họ, cố nghĩ ra xem có câu tiếng Anh nào nói đầy đủ hơn chữ "Cảm ơn" không. Ông Prendergast thân mật xoa lên đầu Wladek. Ông ra theo ông Cai rồi nháy mắt nói với Wladek.
- Chúc chú may mắn nhé. Chúa phù hộ cho chú được hưởng may mắn đấy.
Ông lãnh sự Ba lan tự giới thiệu mình với Wladek là Pawel Zaleski. Wladek lại một lần nữa kể lại câu chuyện của mình và anh thấy mô tả bằng tiếng Ba Lan dễ hơn tiếng Anh nhiều. Pawel Zaleski yên lặng nghe anh nói, và lắc đầu buồn bã.
- Tội nghiệp chú quá, - ông khẽ nói. - Chú còn trẻ thế mà đã phải chịu đựng quá nhiều cái đau khổ của đất nước ta. Bây giờ phải làm gì cho chú đây?
- Tôi phải trở về Ba lan để đòi lại cái lâu đài của tôi - Wladek nói.
- Ba Lan ư - Pawel Zaleski nói. - Đó là đâu? - Mảnh đất chú đã sống ấy hiện nay còn đang tranh chấp, và chiến sự còn đang nổ ra giữa người Ba Lan với người Nga. Tướng Pilsudski còn đang làm mọi cách để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc chúng ta. Nhưng nếu chúng ta lạc quan thì sẽ là điên rồ. Ở Ba Lan bây giờ chẳng còn mấy chút gì cho chú đâu.
Không, điều tốt nhất cho chú bây giờ là bắt đầu một cuộc sống mới hoặc ở Anh hoặc ở Mỹ.
Nhưng tôi không muốn đi sang Anh hay sang Mỹ. Tôi là người Ba lan.
- Chú vẫn cứ là Ba lah, Wladek ạ. Dù chú quyết định sống ở đâu thì cũng chẳng ai lấy đi được cái danh nghĩa đó của chú. Nhưng chú phải thực tế đối với cuộc sống của mình, mà cuộc sống ấy bây giờ mới chỉ là bắt đầu thôi.
Wladek cúi đầu thất vọng. Anh đã phải trải qua tất cả những điều trên đây để rồi bây giờ được nghe nói là sẽ chẳng bao giờ trở lại với quê cha đất tổ nữa hay sao? Anh cố nín không khóc.
Pawel Zaleski quàng tay ôm lấy vai anh. Chú đừng bao giờ quên rằng chú là một trong những người may mắn đã có thể trốn thoát và sống sót được. Chú chỉ cần nhớ đến ông bạn bác sĩ Dubien để thấy rằng cuộc sống có thể như thế nào.
Wladek không nói gì.
- Bây giờ chú phải gạt bỏ tất cả những chuyện quá khứ lại phía sau, vả chỉ nên nghĩ đến tương lai thôi. Có thể, trong đời chú, một ngày kia lại trông thấy đất nước Ba Lan đứng dậy, mà điều đó thì ai cũng mong muốn lắm.
Wladek vẫn im lặng, không nói gì.
- Nhưng thôi, chú không cần phải có ngay một quyết định gì, - ông lãnh sự thân mật nói. - Chú có thể ở lại đây muốn bao lâu cũng được, rồi sẽ tính đến tương lai của chú sau.