Số lần đọc/download: 1468 / 15
Cập nhật: 2014-12-04 12:39:03 +0700
Chương 10
T
rong dãy phòng tang tóc, ba cái xác vẫn còn đó. Các nhân viên của phòng pháp chứng đã hoàn tất công việc.
Jack và Rebecca bước đến bên lỗ thông hơi của một hệ thống sưởi - một ô hình chữ nhật khoảng hai mươi trên ba mươi mét, gần sát trần. Jack kéo chiếc ghế lại để quan sát ô lưới.
Anh nói:
- Ở đầu ống có một vòng đệm. Mép lưới được vít vào vòng đệm và ống.
- Đúng vậy. Tôi thấy có hai con vít - Rebecca nói.
- Chỉ có hai con vít thôi, nhưng nếu muốn ra khỏi ống, ít nhất ta phải tháo một con để có thể xê xịch tấm lưới.
- Và chuột thì đâu đến nỗi thông minh để làm chuyện đó nhỉ?
- Hơn nữa, chuột không thể dùng răng hay chân để vặn con vít này.
Rồi, cố lay chuyển tấm lưới nhưng không được, Jack nói:
- Gắn khá chắc đó!
- Ta thử kiểm tra những miệng ống khác xem sao ...
Họ lần lượt kiểm tra các miệng ống sưởi: hai trong phòng khách, một trong phòng ngủ và một trong phòng tắm. Tất cả các tấm lưới đều được gắn rất chặt.
Jack nói:
- Chẳng có người nào hay vật nào có thể xâm nhập vào đây qua qua đường ống sưởi hết. Dù cho tôi có muốn tin rằng bọn chuột có thể phá tung lưới thép để vào thì tôi cũng không thể chấp nhận giả thuyết cho rằng chúng có thể gắn lưới lại sau khi rút đi được! không một giống thú nào có thể tinh khôn như thế!
- Dĩ nhiên. Giả thuyết đó xem ra thật nực cười!
- Vậy thì ... - Jack ướm lời.
Rebecca thở dài:
- Vậy thì ... phải chăng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên đến lạ lùng nếu những nạn nhân ở đây đã bị cắn chết trong khoảng thời gian ngắn sau khi Wicke nghe thấy tiếng chuột trong các bức tường?
- Tôi không thích những chuyện “trùng hợp” đó xíu nào.
- Tôi cũng vậy!
- Thông thường, những điều trùng hợp sẽ đưa đến một kết quả khác.
- Đúng như vậy!
- Nhưng giả thuyết về sự trùng hợp là điều dễ chấp nhận nhất. Trừ phi ...
- Trừ phi thế nào? - Rebecca hỏi.
- Trừ phi cô nhấp nhận có ma thuật của đạo Vaudou ...
- Không, tôi không chấp nhận chuyện đó!
- ... và có bọn quỷ dữ len lỏi giữa những bức tường ...
- Thôi mà Jack, đừng có ở đó mà nói chuyện tào lao nữa!
- ... để xuất hiện, giết chóc, rồi chui vào tường và biến mất.
- Tôi không nghe anh nói nữa đâu!
Jack mỉm cười:
- Chỉ đùa một chút thôi mà!
- Theo tôi nghĩ, có lẽ anh cho rằng anh không tin vào những chuyện quái đản đó, nhưng trong thâm tâm, anh đã phần nào ...
- Chất chứa một tâm lý phóng khoáng.
- Nếu anh cứ dứt khoát đùa bỡn với chuyện đó ...
- Tôi dứt khoát!
- Thì có thể nó sẽ là chuyện có thật.
- Tôi có thể chứng tỏ mình là người có tâm trí phóng khoáng ...
- Đúng.
- Nhưng ít ra, tôi không phải là người ngoan cố!
- Tôi cũng vậy.
- Cũng không phải là người cứng nhắc.
- Tôi cũng vậy.
- Cũng chẳng phải là người khiếp sợ.
- Anh muốn ám chỉ điều gì?
- Cô hiểu rõ mà.
- Anh muốn nói tôi là người khiếp sợ?
- Bộ không phải sao Rebecca?
- Tôi sợ gì chứ?
- Đêm qua, có một điều ...
- Chớ có ngu ngốc!
- Vậy thì, ta hãy nói chuyện đó đi!
- Bây giờ không phải là lúc nói chuyện đó!
Jack nhìn đồng hồ:
- Mười một giờ hai mươi. Chúng ta sắp ngưng công việc để ăn trưa và, như cô đã hứa, chúng ta sẽ nói đến chuyện đó trong bữa ăn nhé.
- Nếu chúng ta đủ thời gian để ăn trưa, như tôi đã nói.
- Chúng ta có thời gian rảnh mà!
- Tôi không nghĩ thế! Còn bao nhiêu việc phải làm đây này!
o O o
Ra khỏi nhà bằng cửa sau, Lavelle đứng gần bồn cỏ đã ngả sang màu nâu vì giá rét. Y nhìn các bông tuyết bay bay trong gió. Đây là lần đầu tiên y thật sự trông thấy tuyết bởi từ ba mươi năm nay, y chỉ sống ở Haiti, Saint - Domingue, Jamaica và một vài đảo trong vùng Caribean.
Trước đây y tưởng rằng với một người quen sống ở vùng nhiệt đới thì mùa đông ở New York hẳn phải khắc nghiệt, buồn bã lắm. Vậy mà, mùa đông ở đây đã mang lại cho y nhiều điều thích thú và một tâm trạng tích cực.
Nhằm thực hiện được mục tiêu, y đã phát hiện trong thành phố này nhiều nguồn dự trữ cung cấp cho y sức mạnh: một sức mạnh cực kỳ hữu ích của cái ác. Ở nơi đây, cái ác nở rộ khắp nơi, từ vùng ngoại ô cho đến trung tâm New York. Dĩ nhiên, tại vùng Caribean, nơi y từng sinh sống và hành nghề Boko - thầy cúng đạo Vaudou chuyên về ma thuật - từ năm hai mươi hai tuổi, thì đối với y cái ác cũng không thiếu. Nhưng chính tại New York này, nơi có quá đông người chen chúc trong một không gian chật hẹp, nơi mỗi tuần xảy ra ít nhất hai mươi vụ trọng án; nơi hiếp dâm, cướp của, lường gạt, trộm cắp và đủ chuyện khùng điên khác diễn ra như cơm bữa, là thành phố mà những người như Lavelle ngửi thấy trong không khí cái mùi của cái ác đang bao trùm. Mỗi hành vi xấu xa của con người lại giải phóng những luồng âm khí gây nguy hại và củng cố sức mạnh tàn phá của cái ác. Có thể nói, đó là những dòng sông vô hình, phi vật chất. Nhưng sức mạnh của chúng là có thật và có thể gây chết người.
Tuy nhiên, cũng có những dòng sông mang tính chất khác đang cùng chảy trong thành phố này, đó là những luồng sinh khí được bồi đắp bởi những sinh năng phát ra từ cái thiện. Đó là những dòng sông của hy vọng, tình nghĩa, can đảm, bác ái, phẩm cách, tình bạn và sự trung thực.
Một Hougan - thầy cúng của đạo Vaudou dùng phép thuật để trị bệnh và cầu xin ơn phước cho mọi người - là người biết sử dụng cái sinh năng tích cực đó. Nhưng Lavelle không phải là Hougan, mà là một Boko. Y đã chôn kín đời mình trong ma thuật và bừa chú gây hại, theo những nghi thức của Congo và Pétro.
Mặc dù đã dài hơi sánh vai cùng cái ác, nhưng Lavelle trông chẳng có vẻ gì là âm u, buồn bã và chán nản cả. Trái lại là đằng khác, y có vẻ hạnh phúc, sung sướng. Đứng sau nhà, y mỉm cười thích thú khi nhìn những bông tuyết bay bay. Y cảm thấy mạnh mẽ, thư thái và hài lòng với chính mình.
Lavelle cao một mét chín mươi, nhưng với chiếc quần ống hẹp và chiếc áo khoác dài casơmia, trong y còn cao hơn. Tuy với tấm thân gầy đét, nhưng trong y lại toát ra một ấn tượng quyền lực và vững tin với khuôn mặt thanh tú tựa diễn viên da đen nổi tiếng Sydney Poitier. Y có làn da đen sậm, những bông tuyết tan trên mặt y, bám vào đôi lông mày và phủ giá lên mái tóc xoăn.
Sau khi đã chán chê nhìn tuyết, Lavelle đi vào nhà kho kế bên nhà để xe, mở cửa rồi bước vào.
Y cảm thấy ngột ngạt. Tuy nhà kho không có hệ thống sưởi nhưng ở đây lại nóng đến khó thở. Chưa kịp đóng cửa lại, Lavelle đã cởi ngay áo khoác trị giá chín trăm đô ra, để dễ thở hơn.
Không khí ở đây sực nức mùi lưu huỳnh, một cái mùi khó chịu đối với nhiều người. Nhưng với Lavelle thì y lại thích thú hít đầy phổi và mỉm cười. Y thưởng thức cái mùi hôi hám đó. Với y, đó là hương thơm dịu ngọt của sự báo thù.
Mình mẩy Lavelle đã ướt đẫm mồ hôi.
Y cởi áo sơmi, lẩm nhẩm cầu kinh bằng một thứ ngôn ngữ lạ lùng.
Y cởi giày, quần và cả quần áo lót.
Hoàn toàn trần trụi, y quỳ gối trên nền đất.
Rồi y bắt đầu bài ca nho nhỏ, một giai điệu thanh khiết, mê hoặc, bằng một giọng trầm, khá hay.
Mồ hôi nhỏ giọt trên tấm thân đen bóng lưỡng.
Lavelle từ tốn đong đưa thân mình theo khúc ca đơn điệu, được hát bằng một thứ thổ ngữ của Haiti nửa Jamaica.
Bài ca nói đến sự trả thù.
Về cái chết. Máu của kẻ thù. Lavelle cầu xin sự hủy diệt tất cả những thành viên của gia đình Carramazza, lần lượt từng tên một, theo danh sách mà y đã soạn sẵn.
Tiếp đó, y khẩn cầu thần linh hãy sát hại hai đứa bé con của gã sỹ quan cảnh sát đó, một điều đã trở nên cần thiết vào bất cứ lúc nào.
Cái ý nghĩ giết chết hai đứa bé đó không làm y bứt rứt chút nào mà trái lại, còn khiến y thích thú là đằng khác.
Người y đang trong trạng thái nhãp đồng. Đôi mắt y ngời sáng, những ngón tay dài ve vuốt tấm thân gầy theo một dáng điệu gợi cảm.
Hơi thở của y càng lúc càng nặng nề hơn. Y hít vào một thứ không khí nặng, nóng và thở ra một làn khói còn nặng và nóng hơn.
Trong ánh sáng vàng cam ấy, những giọt mồ hôi lấp lánh trên làn da đen mun. Tuy không bật đèn sáng khi vào nhà kho, và dù nơi đây không có cửa sổ nên khá tối, nhưng ở giữa phòng vẫn bàng bạc một thứ ánh sáng vàng cam. Thứ ánh sáng này phát ra từ một cái lỗ có đường kính khoảng một thước rưỡi mà Lavelle đã đào trong một buổi tế lễ với những nghi thức rất phức tạp kéo dài suốt sáu tiếng đồng hồ. Trong buổi lễ này, Lavelle đã tiếp xúc với rất nhiều ác thần - Congo Savannan, Congo Maussai, Congo Moudougue - và những sứ thần của Diêm vương như Ibo, Pétro Maman Pemba và Tie Jean Pie Fin.
Cái lỗ có hình dạng như một miệng hố do thiên thạch gây ra, với chiều sâu không quá một thước. Nhưng nếu nhìn một lúc lâu, cái hố xem chừng càng lúc càng sâu hơn. Điều lạ lùng là khi ta nhìn chăm chăm vào cái ánh sáng lập lòe đó trong vài phút, khi ta tìm cách xác d ịnh cái nguồn sáng đó, thì cảnh tượng trước mắt ta bỗng chốc biến đổi và ta thấy rằnng cái hố này sâu thăm thẳm. Đó không còn là cái hố đơn giản đào trên nền đất nữa, mà là một cánh cửa thần kỳ mở vào lòng đất.
Không ngừng hát, Lavelle nghiêng người về phía trước.
Y chăm chú nhìn ngọn lửa vàng cam đang lập lòe, mắt y hướng vào miệng hố và chìm trong đó.
Y đang đắm chìm trong ...
Địa ngục!
o O o
Đã gần mười hai giờ trưa khi bà Nayva Rooney quét dọn xong căn hộ của gia đình Dawson.
Sau khi săn lùng con chuột - hay con vật gì đó - khắp các phòng, bà không còn nghe thấy một tiếng động nào nữa. Nó đã biến mất.
Bà ghi lên giấy vài dòng, căn dặn Jack Dawson gọi điện ngay cho bà khi anh về đến nhà. Bà muốn báo cho Jack biết vụ con chuột và khuyên anh nên gọi dịch vụ diệt chuột để giải quyết vấn đề. Viết xong, bà Rooney dán mẫu giấy lên tủ lạnh, rồi khoác áo choàng, tắt điện và ra về. Giờ đây, căn hộ chìm trong thứ ánh sáng xám nhạt hắt vào từ những cửa sổ. Bước ra khỏi cửa, bà Rooney đứng im một lúc.
Vắng lặng.
Cuối cùng, bà khóa cửa lại.
Ít phút sau khi bà Rooney ra về, có một vật gì đó vụt chạy ra khỏi phòng Penny và Davey. Nếu Bà Rooney còn ở đó, hẳn bà sẽ có thể nhìn thấy đôi mắt lóe sáng, rực lửa đang tiến về phòng khách và nghe thấy tiếng sào sạo của móng vuốt con vật trên sàn nhà cùng với tiếng rít lạnh lùng và hằn học của nó.
Một con vật thứ hai vụt ra khỏi phòng hai đứa trẻ, tuy toàn thân nó khuất hẳn trong bóng tối, nhưng đôi mắt thì lóe sáng.
Rồi một con vật thứ ba xuất hiện, đen thui, rít lên từng cơn.
Và con thứ tư, thứ năm, thứ sáu, ...
Chẳng mấy chốc, chúng tràn ngập căn hộ. Một số núp trong các góc phòng, số khác leo lên bàn ghế hoặc núp phía dưới, chạy dọc theo ván chân tường hay bò lên tường, lên màn cửa, như loài côn trùng. Chúng đánh hơi, rít lên, chạy từ phòng này sang phòng khác, mồm không ngừng làu bàu một thứ ngôn ngữ lạ lùng, như được phát ra từ cổ họng.
Rồi bỗng nhiên, bọn chúng đứng khựng lại, như được lệnh. Sau đó, chúng bắt đầu đong đưa. Trong bóng tối, ánh mắt chúng tạo thành những vòng cung nhỏ, phát sáng. Ở đầu kia của thành phố, điệu ngân nga của Baba Lavelle đang dần dắt nhịp đong đưa của bầy thú.
Cuối cùng, chúng ngừng lại.
Trong bóng tối, chúng bất động chờ đợi, mắt lóe sáng.
Chẳng bao lâu nữa, chúng sẽ nhận được tín hiệu.
Chúng nôn nóng chờ đợi.