Số lần đọc/download: 0 / 7
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:45 +0700
Chương 10
T
hông thường, thi thể mới chìm xuống nước thì tay và chân sẽ lơ lửng trong tư thế bổ nhào xuống. Cái xác này lập lờ gần các thanh chắn của cống dẫn nước từ hồ làm mát sang hồ chứa nước nhỏ hơn của nhà ga. Nước dùng trong trường hợp khẩn cấp vẫn thực sự cần thiết; các lò phản ứng vẫn còn đầy nhiên liệu và theo cách nào đó, chúng chẳng còn nguy hiểm khi không hoạt động.
Hai người sử dụng móc sắt đang cố kéo cái xác lại gần mà không để bị ngã. Đại úy Marchenko ngó ra từ bờ hồ với một đám vô dụng gồm toàn các dân quân tự vệ tò mò, anh em Woropay đứng hàng đầu. Eva Kazka đứng cạnh xe của cô, tránh càng xa các thủ tục pháp lý càng tốt. Arkady nhận thấy trông cô có vẻ, nếu có thể nói thế, hoang dại và nhếch nhác hơn bình thường. Có lẽ cô chỉ chạy về nhà và rơi vào trạng thái sững sờ. Có vẻ cô cũng có kết luận tương tự về anh.
Lúc Marchenko tới gần Arkady, một cái bóng lao lên khỏi mặt nước, dần hiện rõ một cái đầu trơn bóng màu xám cùng đôi môi như bằng cao su, rồi lặn xuống dưới đáy để quẫy đạp với con cá da trơn thậm chí còn to lớn hơn trong lớp bùn tăm tối.
Viên đại úy nói. “Tính đến thời tiết xấu ngày hôm qua và kích thước của hồ làm mát, tôi cho là anh cũng đồng ý rằng chờ đợi đến khi tìm thấy thi thể là khôn ngoan hơn cả. Dòng chảy trong hồ đưa mọi thứ tập trung ở đây, tại cống dẫn nước vào. Bây giờ nó nằm ngay trong tay chúng ta.”
“Và giờ là mười giờ sáng một ngày sau đó.”
“Một người đánh cá bị ngã khỏi thuyền và chết đuối, nó thực sự không quan trọng dù anh tìm thấy anh ta một ngày hay một năm sau.”
“Giống một cái cây bị đổ trong rừng, nó có gây ra tiếng ồn không?”
“Rất nhiều cây bị đổ trong rừng. Họ gọi đó là chết vì tai nạn.”
Arkady hỏi, “Bác sĩ Kazka là bác sĩ duy nhất có thể đến à?”
“Chúng tôi không thể kéo các bác sĩ đến đây. Tất cả những gì bác sĩ Kazka cần làm là ký vào Giấy chứng tử.”
“Anh không thể gọi cho một nhà nghiên cứu bệnh học à?”
“Họ bảo Kazka đã từng ở Chechnya. Nếu là thế, cô ấy đã chứng kiến rất nhiều người chết.”
Eva Kazka móc ra một điếu thuốc. Arkady chưa bao giờ thấy người nào lo lắng đến thế.
“Nhân đây, tôi muốn hỏi anh, đại úy, anh đã tìm thấy người sở hữu bức tượng bị ăn trộm mà chúng ta truy đuổi hôm đó chưa?”
“Rồi. Nó thuộc về một cặp vợ chồng già tên là Panasenko. Bộ đội phục viên. Cảnh sát còn giữ hồ sơ. Tôi tin đó là một bức tượng đẹp.”
“Phải.”
Vậy là tên trộm lái chiếc xe ba bánh đã ăn trộm bức tượng của Roman và Maria Panasenko, một vụ trộm đã được báo cáo, nhưng bức tượng đã trở về đúng chỗ của nó trong túp lều nhà Panasenko. Với Arkady, điều đó trái ngược với một cái cây đổ mà không hề phát ra tiếng động.
Từ cống vào, Arkady nhìn thấy các tháp làm mát đang được xây dang dở, trông giống cái bàn chải với đường cong bên dưới và xung quanh, các thánh đường được phát hiện với một số nền văn minh bí hiểm. Các tòa tháp vốn được xây dựng cho lò phản ứng số Sáu và Bảy, giai đoạn tiếp theo chưa được hoàn thành của nhà máy điện hạt nhân lớn nhất thế giới. Hiện tại, điện được sản xuất theo hướng khác, từ các dòng chảy nhỏ, để giữ bóng đèn sáng và các máy đo hoạt động.
Một tràng reo hò đầy mỉa mai vang lên khi cuối cùng cái xác cũng được kéo lên. Nước chảy ròng ròng từ quần áo của nạn nhân.
“Anh không có tấm bạt hay vải nhựa nào để đặt cái xác lên à?” Arkady hỏi Marchenko.
“Đây không phải là một vụ giết người được điều tra từ Matxcova. Chỉ là một người chết vì say rượu ở Chernobyl thôi. Đó là sự khác biệt.” Marchenko hếch đầu lên. “Đừng xấu hổ, thử nhìn xem sao.”
Đám binh lính dưới quyền viên đại úy hùng hổ đi ngang qua chỗ Arkady; anh em Woropay cười khẩy vào máy ghi âm trong tay anh.
“Nói to lên,” Marchenko đề nghị. “Chúng tôi có thể học hỏi.”
“Kéo lên khỏi miệng cống vào của Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl lúc 10:15, ngày Mười tháng Sáu, một người đàn ông khoảng sáu mươi tuổi, cao hai mét, mặc áo khoác da, quần áo lao động màu xanh và đi giầy.” Một người thực sự rất xấu, đường nét thô kệch của ông ta đã trở nên trắng bệch do bị ngâm nước lâu, hàm răng xỉn màu khấp khểnh, quần áo sũng nước như tấm vải ướt. “Tứ chi cứng nhắc, cho thấy chết đã lâu. Không đeo nhẫn cưới.” Chân và tay hướng lên trời, lòng bàn tay ngửa ra. “Tóc nâu.” Arkady vạch một mí mắt. “Mắt nâu. Mắt trái giãn rộng. Quần áo còn nguyên vẹn, cơ thể không có hình săm, nốt ruồi hay dấu hiệu nhận dạng khác. Không có vết trầy xước hay bầm tím. Chúng tôi sẽ tiếp tục khám nghiệm tử thi.”
“Không khám nghiệm tử thi,” Marchenko phản đối.
“Chúng tôi biết ông ta,” Dymtrus Woropay lên tiếng.
Taras nói, “Ông ta là Boris Hulak. Ông ta sống bằng nghề nhặt rác và câu cá, ở trong các căn hộ ở Pripyat nhưng thường hay thay đổi chỗ ở.”
“Anh có găng tay cao su không?” Arkady hỏi.
Marchenko đáp, “Sợ ướt tay à?”
Với cái hất hàm của viên đại úy, anh em Woropay liền kéo khóa áo khoác của người chết, móc ra giấy tờ tùy thân của ông ta.
Marchenko đọc to, “Boris Petrovich Hulak, sinh năm 1949, nơi sinh Kiev, ngành nghề: thợ máy. Cùng ảnh nhận dạng.” Một khuôn mặt xấu xí tương tự với ánh mắt trừng trừng. Chính là gã Thợ sửa ống nước, Arkady chắc chắn như thế. Marchenko ném đám giấy tờ cho anh. “Đây là tất cả thông tin anh cần. Một kẻ ăn bám của xã hội bị ngã khỏi xuồng và chết đuối.”
“Chúng tôi sẽ kiểm tra xem có nước trong phổi ông ta không.”
“Ông ta đang câu cá.”
“Cần câu đâu?”
“Ông ta câu được một con cá da trơn. Trước đó ông ta đã uống hết một chai vodka, ông ta đang đứng trên xuồng, con cá to hơn, nên đã giật cái cần khỏi tay ông ta, khiến ông ta mất thăng bằng và rơi xuống nước. Không khám nghiệm tử thi.”
“Có thể cái chai đã trống rỗng từ trước. Chúng ta không thể kết luận là ông ta đã uống say.”
“Ồ, có chứ. Ông ta nổi tiếng là người nát rượu, ông ta đã đi một mình, câu cá và chết đuối.” Marchenko rút từ trong túi áo dài đồng phục ra con dao đi săn mà anh ta đã khoe với Arkady lúc trước, con dao săn lợn lòi. “Anh muốn khám nghiệm hả? Đây, xem đi.” Marchenko đâm mạnh con dao vào bụng Boris Hulak, làm phun ra mùi rượu đang tiêu hóa. Thứ rượu samogon trong dạ dày Arkady cũng bốc lên nơi họng anh. “Thấy chưa, ông ta say rượu.”
Ngay cả anh em Woropay cũng lùi lại trước màn sương choáng váng. Marchenko lau lưỡi dao vào áo khoác của người chết.
Arkady nói giữa những hơi thở gấp gáp, “Vẫn còn một bên mắt.”
“Mắt nào?” viên đại úy cụt hứng hỏi.
“Con mắt phải vẫn bình thường, nhưng mắt trái thì giãn hoàn toàn, cho thấy ông ta đã bị đánh mạnh vào đầu.”
“Ông ta đang phân hủy. Các cơ bắp nhão ra. Hai mắt có thể lệch sang hai hướng khác nhau. Hulak có thể bị đập đầu vào thành xuồng lúc ngã xuống, chẳng có gì đáng bận tâm cả.”
“Ông ta không phải một con lợn. Chúng ta phải kiểm tra.”
“Điều tra viên nói đúng đấy,” Eva Kazka xen vào. Cô lững thững đi đến từ chiếc xe của mình. “Nếu anh muốn tôi ký vào giấy chứng tử thì phải có nguyên nhân cái chết.”
“Cô cần khám nghiệm tử thi chỉ vì lý do đó?”
“Trước khi anh chọc vào cái xác lần nữa, tôi cho là thế,” Eva đáp.
Cô không nhiều lời. Boris Hulak bị lột trần, đặt trên chiếc bàn thép, đầu gối lên một miếng gỗ và anh cũng kiệm lời như Eva trong lúc cô mổ tử thi, đầu tiên là một vết rạch từ cổ đến háng, rồi dùng tay nhấc các cơ quan nội tạng chuyển sang một cái chậu, nhanh nhẹn như một người đang rửa bát đĩa; căn phòng nghèo nàn đến nỗi hầu như chẳng có gì ngoài gỉ sắt và chậu rửa, cô mất hàng tiếng đồng hồ để lau rửa thi thể và kiểm tra xem có các vết bầm tím, hình xăm cùng dấu vết vật nhọn không. Còn Arkady thì kiểm tra quần áo của Hulak trong chậu rửa, chẳng tìm thấy gì đáng chú ý hơn ngoài chiếc túi xách nhỏ xộc xệch và một chìa khóa cửa, trong chiếc ví của ông ta chỉ có thẻ nhận dạng, một đồng hai mươi Hryvnia* ướt sũng, bức ảnh một cậu bé sáu tuổi và một thẻ câu lạc bộ video quá hạn. Arkady đã phải cắt giày của Hulak mới kéo được chúng ra và phát hiện hai trăm đô la Mỹ ông ta giấu dưới đế giày, không tệ với một kẻ chuyên nhặt rác và phá đường dây điện nhiễm phóng xạ. Trong khi Eva Kazka làm việc ở đầu bên kia thì Arkady hì hụi ở đầu bên này chiếc bàn, sấy khô các ngón tay đã nhăn nheo vì ngâm lâu trong nước và tiêm nước muối làm căng da để lấy dấu vân tay nhằm so sánh với dấu vân tay anh có được từ chai rượu rỗng trên xuồng.
Ánh đèn huỳnh quang khiến các xác chết chuyển sang màu xanh lá cây và Boris Hulak là xanh nhất, một cơ thể săn chắc trong lớp mỡ vừa phải, tay chân và vai rắn chắc, tiết ra mùi ethanol phảng phất. Eva đã mặc áo choàng, đội mũ và thái độ làm việc hết sức chuyên nghiệp. Cô cùng Arkady liên tục hút thuốc trong lúc làm việc như để cố xua mùi khó chịu đi. Hút thuốc cũng có vài lợi ích và đây là một trong số đó.
“Tôi chưa bao giờ nghĩ anh lại không có gì để hỏi?” Eva nói. Cách cô liếc nhìn anh chẳng khiến anh cảm thấy dễ chịu hơn. Cô đang tham khảo biểu đồ khám nghiệm tử thi. “Cho đến lúc này, tất cả những gì tôi có thể cho anh biết là, với tình trạng xơ gan và hoại tử thận thì Boris chỉ có thể sống thêm hai năm nữa. Mặt khác, ông ta là người có thể lực tốt. Và không, hầu như không có nước trong phổi.”
“Tôi nghĩ mình đã đuổi theo Hulak xuyên qua Pripyat vài đêm trước.”
“Anh có bắt được ông ta không?”
“Không.”
“Và anh sẽ không bao giờ bắt được. Những người nhặt rác biết rõ Khu vực cấm như nhà ảo thuật biết rõ cái tráp, mũ đội đầu và lũ thỏ nhiễm phóng xạ của mình.” Cô gõ gõ con dao mổ lên mặt bàn. “Đại úy Marchenko không thích anh. Tôi đã nghĩ các anh là bạn tốt của nhau.”
“Không. Tôi đã phá hủy hồ sơ hoàn hảo của anh ta. Một chỉ huy trạm dân quân tự vệ không muốn có rắc rối nào, không vụ giết người và hơn tất cả là không vụ giết người nào chưa được giải quyết. Chắc chắn anh ta không muốn có cả hai.”
“Đại úy là một người khắc nghiệt. Chuyện là anh ta từng gặp rắc rối ở Kiev vì từ chối một khoản hối lộ khiến cấp trên của anh ta, những người đã đưa ra đề nghị chia chác rất công bằng, bị bẽ mặt. Anh ta bị điều tới đây để chứng kiến cuộc sống ở địa ngục trong trường hợp anh ta muốn lặp lại lỗi lầm lần nữa. Rồi anh từ Matxcova đến đây, khiến anh ta cảm thấy bị mắc kẹt hơn bao giờ hết.” Nhà ảo thuật, mối đe dọa từ địa ngục. Cô bác sĩ có cách nghĩ rất thú vị. Và nhìn Arkady như thể anh là một mẫu vật kỳ lạ đang ngày càng trở nên kỳ lạ hơn, cô nói, “Anh đang so sánh vân tay của Hulak với vân tay trên thẻ nhận dạng à?”
“Với vân tay trên vỏ chai vodka tôi tìm thấy trên xuồng.”
“Thế nào?”
“Đều là của Hulak.”
“Anh không định nói đó là bằng chứng rõ ràng cho thấy Hulak ở một mình đấy chứ? Anh có biết người Nga và người Ukraine không bao giờ uống chung một chai rượu không? Ông ta không chết đuối nhưng tôi phải nói với anh rằng ngoài việc bị đại úy đâm sau khi đã chết thì tôi không thấy có dấu hiệu bạo lực. Có lẽ ông ta câu được con cá lớn và đập đầu vào xuồng lúc bị kéo ngã. Dù sao anh cũng đã sai lầm khi biến đại úy Marchenko thành kẻ thù. Có thể, anh ta sẽ cảm thấy vui vẻ hơn nếu chúng ta dừng lại tại đây.”
Arkady cúi xuống cái xác. Boris Hulak có khuôn mặt thích gây gổ với đôi lông mày rậm, cái mũi thô ngoằn ngoèo các mạch máu bị vỡ, mái tóc nâu dày như lông rái cá và gò má lởm chởm râu, không vết bầm tím hay sưng tấy, không dấu hiệu bị xiết cổ, không có vết thương do chống cự ở tay, cũng chẳng có vết trầy xước trên da đầu. Tuy nhiên, đồng tử mắt trái lại giãn rộng, giống như lá chắn sáng của máy ảnh bị kẹt ấy. Hơn nữa, Arkady đang làm việc trong tình trạng lơ mơ vì say samogon.
Arkady nói, “Vậy là đại úy thậm chí sẽ còn vui mừng hơn nếu chúng ta chứng minh rằng tôi đã sai hả?”
Hầu hết các bác sĩ sẽ không chạm trán với một tử thi sau giờ học giải phẫu và quên hết mùi nồng nặc của xác chết. Nhưng Eva vẫn lạnh lùng rạch từng lớp da dọc xuống phía dưới cổ Hulak. Arkady nhớ rõ cô đã từng có thời gian ở Chechnya để tìm kiếm chứng cứ mà cô coi là hành động tàn bạo của nước Nga. Cô không nhút nhát.
Anh nói, “Trước đây, cô đã từng thấy những người bị bắn vào đầu.”
“Bị súng lục bắn vào đầu và súng trường bắn vào lưng, chắc là trong một cuộc chiến. Dù gì, cũng luôn có miệng vết thương, nhưng người này lại không hề có. Cơ hội cuối để dừng lại đấy.”
“Có lẽ cô nói đúng, nhưng chúng ta vẫn thử xem sao.” Eva cắt từng lát dao phía sau gáy Hulak từ tai này sang tai kia. Cô lật lớp da cùng tóc về phía trước, che cả mắt ông ta, để dùng cưa máy. Cưa điện thường nặng và, cùng với đám mây mạt cưa màu trắng nó tạo ra, thật khó để dùng nó trong những công việc đòi hòi sự tinh tế. Cô tách vỏ sọ bằng một cái đục, lách con dao mổ vào để lấy bộ não ra khỏi tủy sống và đặt cái khối màu hồng mềm mềm vẫn nguyên trong lớp màng bọc của nó bên cạnh cái đầu rỗng.
“Đại úy sẽ không thích chuyện này đâu,” Eva nói.
Các cục máu đông lổn nhổn bên dưới lớp màng và một đường màu đỏ chạy ngang phía trên, dấu vết của một viên đạn xuyên qua não và bật nảy ra góc, va đập vào hộp sọ. Hulak hẳn đã gục ngay lập tức.
“Nòng súng nhỏ?” Eva hỏi.
“Tôi nghĩ thế.”
Cô xoay bộ não theo mọi hướng trước khi chọn một cục máu đông để kiểm tra. Rồi cô cắt lớp màng não, tách lớp chất xám ra thành từng miếng mỏng và tìm ra viên đạn nhỏ như một hạt cam. Nó kêu lanh canh lúc rơi xuống mặt bàn. Vẫn chưa kết thúc. Cô dùng chiếc bút gắn đèn nhỏ soi quanh bên trong hộp sọ cho đến khi có tia sáng lọt ra từ tai trái.
“Ai có thể bắn giỏi cỡ này nhỉ?” cô hỏi.
“Một tay bắn tỉa, một thợ săn, một thợ nhồi xác động vật. Tôi đoán đạn cỡ 5.6 milimet, loại các tay thiện xạ thường dùng trong thi đấu.”
“Từ trên xuồng à?”
“Mặt nước vẫn phẳng lặng.”
“Còn tiếng động?”
“Giảm thanh. Một khẩu nòng nhỏ không gây ra tiếng động lớn.”
“Vậy là bây giờ chúng ta có hai vụ giết người. Chúc mừng, Chornobyl đã giết một triệu người và anh thêm vào hai người nữa. Tôi phải nói rằng anh rất có duyên với cái chết.”
Trong khi cô còn đang bị ấn tượng, Arkady hỏi luôn, “Cái xác đầu tiên tìm được ở nghĩa trang thì sao? Ngoài vết cắt trên cổ, còn điều gì đáng lưu ý nữa không?”
“Tôi không khám nghiệm. Tôi chỉ đơn giản nhìn thấy vết cắt và viết vài dòng thôi. Bọn sói cắn và xé chứ không cắt.”
“Có nhiều máu dính trên áo ông ta không?”
“Từ những gì tôi thấy thì rất ít.”
“Tóc?”
“Sạch sẽ. Mũi đẫm máu.”
“Ông ta bị chảy máu cam,” Arkady nói.
“Có vẻ đúng là máu cam. Nó đã được băng lại.”
“Cô giải thích thế nào?”
“Tôi không giải thích gì hết. Anh là nhà ảo thuật và chỉ có mình anh mới lôi ra xác chết thay vì những con thỏ.”
Arkady đang băn khoăn nên đáp lại thế nào thì có tiếng gõ cửa và Vanko thò đầu vào.
“Người Do Thái đang ở đây!”
“Người Do Thái nào?” Arkady hỏi. “Ở đâu?”
“Giữa thị trấn và họ đang tìm anh!”
Mặt trời buổi chiều soi rõ khung cảnh trung tâm ảm đạm của Chernobyl: quán cà phê tự chọn, bức tượng Lenin giữa đám giấy gói kẹo. Hai dân quân tự vệ chạy ra khỏi quán cà phê tự chọn để quan sát đường phố; họ nhìn chăm chú đến nỗi nghiêng cả người. Vanko bỏ chạy, nhằm mục đích gì thì Arkady không biết. Hình ảnh mà anh thấy là một người đàn ông đang đi bộ với bước chân quả quyết, kiêu ngạo ngay đầu một chiếc ô tô. Anh ta mặc trang phục đặc trưng của thành viên phong trào Do Thái thần bí, gồm com lê đen, áo sơ mi trắng cùng mũ phớt mềm và có chòm râu bờm xờm màu đỏ.
“Bobby Hoffman.”
Hoffman ngoái lại nhìn qua vai. “Tôi biết là sẽ tìm được anh nếu cứ tiếp tục bước đi. Đây là ngày thứ hai tôi tuần hành ngược xuôi con phố đấy.”
“Anh chỉ cần hỏi mọi người chỗ tôi ở là được.”
“Người Do Thái không hỏi lũ ăn thịt người Ukraine. Tôi đã hỏi một người và anh ta liền biến mất.”
“Anh ta nói người Do Thái đang đến. Chỉ có anh thôi à?”
“Chỉ mình tôi thôi. Tôi đã làm họ sợ hả? Ước gì có thể đem tất cả bọn họ chiên lên. Chúng ta tiếp tục đi nào. Lời khuyên của tôi cho người Do Thái ở Ukraine là hãy luôn di chuyển.”
“Anh từng đến đây.”
“Năm ngoái. Pasha muốn tôi xem xét tình hình nhiên liệu đã qua sử dụng.”
“Có thể sinh lời từ nhiên liệu phóng xạ đã sử dụng à?”
“Lớn hơn nhiều so với tống tiền đấy.”
Chiếc xe là một con Nissan đầy bùn đất, một sự tuột dốc từ chiếc Mercedes mà lần trước Arkady đã nhìn thấy Hoffman ngồi trong đó. Quần áo của anh ta cũng thay đổi.
“Đây là con người mới của anh hả?”
“Đồ dùng của giáo sĩ Do Thái thần bí hả? Họ là những người Do Thái duy nhất ở đây. Tức là nếu mặc đồ thế này, tôi sẽ ít bị chú ý hơn.” Hoffman nhìn vào bộ quân phục của Arkady. “Tham gia dân quân tự vệ à?”
“Quần áo tiêu chuẩn cho công dân của Khu vực cấm. Đại tá Ozhogin có biết anh ở đây không?”
“Chưa. Anh còn nhớ đĩa vi tính gã đại tá rất tự hào là đã tìm thấy chứ? Nó không chỉ là danh sách các tài khoản nước ngoài mà còn là con ngựa thành Troy, một lệnh để chuyển chúng sang ngân hàng nhỏ của riêng tôi. Tôi có thể ở lại Matxcova, tôi có thể vui vẻ, tôi cũng có thể giúp, nhưng khi Pasha chết và đại tá Ozhogin đuổi tôi ra khỏi tòa nhà NoviRus, khỏi văn phòng của tôi, tôi đã nói, ‘Khốn kiếp! Bọn họ hoặc tôi!’ Nhưng tôi phải khiến thằng ngu đấy muốn chiếc đĩa và cho nó vào hệ thống. Còn nhớ tay đại tá đã đấm vào mũi tôi chảy máu chứ? Phải, giờ tôi cũng đang đấm lại đây, anh bạn, và không phải vào mũi đâu.”
“Vậy thì anh nên chạy trốn. Sao anh còn ở đây?”
“Anh cần giúp đỡ. Renko, anh đã ở đây hơn một tháng. Tôi đã nói chuyện với thám tử của anh, Victor.”
“Anh nói chuyện với Victor à?”
“Victor gửi email.”
“Anh ta không liên lạc với tôi. Tôi gọi điện thì họ bảo anh ta đã rời khỏi văn phòng, gọi di động thì không nghe máy.”
“Thiết bị hiển thị tên người gọi. Anh không trả tiền cho anh ta, còn tôi thì có. Và Victor nói rằng anh không gửi báo cáo nào về Matxcova cả. Có tiến triển gì không?”
“Không.”
“Hoàn toàn không?”
“Phải.”
“Anh đang chết chìm ở đây. Anh đang mơ ngủ.”
Họ đi qua quán cà phê tới một con đường trồng toàn keo với các tòa nhà gỗ hai tầng xinh xắn từng là nơi ở của giới thượng lưu xã hội chủ nghĩa của Chernobyl: thị trưởng và chỉ huy của dân quân tự vệ, bí thư Đảng địa phương và các trợ lý, công tố viên cùng thẩm phán, giám đốc cảng và nhà máy. Vài bức tường rêu mục nát kéo theo mái nhà sụp xuống, vài mái nhà đổ sập làm bức tường cong vênh. Cây cối mọc lòa xòa vào một cửa sổ, đẩy bật cửa chớp bên cạnh. Một con búp bê với khuôn mặt phai màu đứng trong sân.
“Anh định giúp thế nào?” Arkady hỏi.
“Anh phải nói ngược lại.”
Hoffman ra hiệu cho chiếc xe tiến về phía trước và đẩy Arkady vào trong. Tài xế thờ ơ liếc nhìn anh. Ông ta có cặp mắt sâu, một cái mũ tròn nhỏ gắn trên đỉnh đầu, và các khớp tay bị thương đang đặt trên vô lăng.
Hoffman nói, “Đừng lo lắng về Yakov. Tôi chọn Yakov vì ông ta là người Do Thái già nhất ở Ukraine và không nói được một từ tiếng Anh nào.” Khoảng cách ghế sau rất hẹp và càng chật chội hơn lúc Hoffman mở chiếc máy tính xách tay ra. “Tôi sẽ cho anh một cơ hội tỏa sáng, Renko. Tôi không nói anh là kẻ bất tài.”
“Cảm ơn.”
“Tôi chỉ đang nói anh cần chút trợ giúp. Ví dụ, anh có ý tưởng kiểm tra các cuộn băng ghi hình giám sát không chỉ từ tòa nhà của Pasha mà còn từ các tòa nhà bên cạnh. Thực tế, Victor đã làm đúng điều anh yêu cầu. Vấn đề là anh đã bị cô lập. Anh gọi cái chết của Pasha là tự tử hả.”
“Nó vốn thế mà.”
“Bị bức bách đến chết không phải là trường hợp tôi gọi là tự tử. Đừng làm tôi cáu. Được rồi, Pasha được cho là đã tự tử và không tiếp tục điều tra nữa; có vẻ như Victor đã đọc đâu đó rằng vodka có thể giúp chống lại phóng xạ. Anh ta đã thực sự được bảo vệ. Vào những lúc say sưa, anh ta quên hết các cuộn băng. Rồi Timofeyev bị cắt cổ và công tố viên Zurin cử anh đến đây.” Bobby nhìn những ngôi nhà bên ngoài cửa sổ. “Người Eskimo tốt bụng hơn, họ sẽ chỉ đặt anh trên một tảng băng nổi.”
“Các cuộn băng?”
“Tôi liên lạc với Victor. Biết địa chỉ email của anh ta không? Anh có thể mua nó trên mạng; bất hợp pháp nhưng có thể làm được. Rõ ràng, giống như bất kỳ người Nga nào, anh ta đã từng nuôi một con chó tên Laika. Vì thế tôi liên hệ với hòm mail laika1223 và đề nghị Victor một phần thưởng cho bất kỳ ghi chú hay bằng chứng nào còn sót lại. Tôi gặp đúng lúc anh ta đang tỉnh, nên thậm chí anh ta còn sao các cuộn băng vào đĩa cho tôi.”
“Anh và Victor, thật là một cặp ăn ý.”
“Này, tôi cảm thấy xấu hổ vì cách tôi bỏ anh lại Matxcova, thật đấy. Có lẽ điều này sẽ là sự bồi thường cho anh.” Ngón tay Hoffman nhảy múa trên bàn phím máy tính và trên màn hình liền hiện ra cảnh ban ngày của lối đi cho ô tô cùng vài thùng đựng rác. Đồng hồ ở góc màn hình chỉ 10:42:25. “Anh có nhận ra chỗ này không?”
“Con hẻm phía sau tòa nhà của Pasha Ivanov. Nhưng là cuộn băng từ máy quay ở tòa nhà bên cạnh phía tay phải.”
“Anh xem các cuộn băng của máy quay bên trong tòa nhà Pasha ở rồi à?”
“Cuốn băng đã bị cắt dán, chỉ còn một đoạn ngắn lặp đi lặp lại. Chúng tôi thấy Pasha về và rơi xuống cùng diễn biến khoảng hai giờ trước đó, nhưng trước nữa thì không.”
“Xem này.”
Hình ảnh bị dừng năm giây trước khi tiếp tục thời gian ghi hình. Ngoài ra, chiếc máy quay được đặt trên trục cơ giới có thể quay tròn một trăm tám mươi độ. Kết quả là màn hình hiển thị một loạt các khung hình nhỏ: Một con mèo bị bắt quả tang đi vào từ đường phố, khung hình bên cạnh là cảnh nó đứng vững trên gờ một thùng rác, còn trong khung hình ngoài rìa, con mèo đang nhảy lên thùng rác cạnh cửa tòa nhà Ivanov.
Hoffman nói, “Theo Victor thì anh cho rằng tòa nhà này có vi phạm an ninh.”
“Chúng tôi biết nhân viên đã đi hết các tầng của tòa nhà và gõ cửa từng phòng. Đó cũng là một vi phạm.”
Lúc 10:45:15, con mèo nhảy lộn ngược một vòng từ thùng rác xuống khi một xe tải màu trắng chạy vào từ phía trái con hẻm.
“Anh nói đúng, rất đúng,” Hoffman nói.
10:45:30, chiếc xe dừng ngay thùng rác cạnh cửa tòa nhà của Ivanov. Máy quay hướng về thùng rác trong các khoảng cách đều đặn mười lăm giây và màn hình đen trắng thể hiện hình ảnh về cơ bản là kém chất lượng như:
Cửa phía lái xe mở ra, một bóng đen xuất hiện sau vô lăng.
Cửa xe đã đóng, ghế lái xe trống.
Hình ảnh tương tự trong vòng một phút.
Một gã to béo mặc bộ đồ lao động liền quần đeo mặt nạ khí kín đầu, vác thùng chứa cùng vòi nước và kéo theo một va li có bánh lăn từ xe tải đi vào tòa nhà của Ivanov.
Chiếc xe đậu ở lối vào.
Hình ảnh giữ nguyên trong vòng năm phút. Con mèo quanh quẩn ở đó.
Chiếc xe tải.
Một phút nữa trôi qua.
Gã thợ trở lại xe với tất cả các thiết bị như cũ. Chiếc xe.
Hình ảnh gã trong bộ đồ lao động và mặt nạ leo vào ghế lái xe.
Chiếc xe di chuyển ngay lúc lái xe tháo mặt nạ ra, khuôn mặt gã mờ mờ.
Con hẻm trống. Con mèo.
Người gác cửa tòa nhà, hai tay chống hông. Con hẻm trống.
Con mèo.
Thời gian hiển thị 10:56:30. Thời gian trôi qua, mười một phút. Gã lái xe xuất hiện trong vòng bảy phút.
“Lúc cậu thẩm vấn nhân viên tòa nhà, họ có nhắc đến thợ diệt côn trùng không?” Hoffman hỏi, “Côn trùng? Rệp?”
“Không. Anh có thể phóng to hình anh ta di chuyển từ xe tải vào tòa nhà không?”
Hoffman làm theo; Arkady không biết làm thế nào mà những ngón tay mũm mĩm của anh ta có thể xoay xở với bàn phím nhưng Bobby thao tác rất nhanh.
“Cái đầu?” Arkady hỏi.
Hoffman khoanh tròn phần đầu, phóng đại mặt nạ màu trắng bao khít đầu, ngoại trừ khuôn mặt, nằm sau mặt nạ khí với kính bảo hộ và hai đầu lọc sáng bóng.
“Phóng to hơn nữa được không?”
“Tôi có thể phóng to như anh muốn nhưng đây là ảnh tạo nên từ các điểm ảnh, phóng to ra thì anh sẽ chỉ có các điểm ảnh to hơn thôi. Gã diệt côn trùng chết tiệt.”
“Đó không phải là mặt nạ của thợ diệt côn trùng. Là mặt nạ và trang phục phòng chống phóng xạ. Anh phóng to thùng chứa đi.”
Thùng chứa có vẻ bề ngoài giống thùng thuốc diệt côn trùng nhưng Arkady đoán là nó trống rỗng.
“Va li.”
Chiếc va li dán đề can hình lũ chuột, gián chết. Nó cũng có các bánh xe nhỏ nên có thể xách hoặc kéo đi được. Khi vào thì nó được kéo đi, nhưng Arkady nhớ lúc trở ra gã thợ lại xách tay.
“Là một vụ giao hàng. Chiếc va li lúc đến nặng, lúc ra lại nhẹ.”
“Nặng bao nhiêu?”
“Tôi đoán chừng… năm mươi hoặc sáu mươi cân muối, cùng hạt Xesi và chì lót va li nữa, có lẽ khoảng bảy mươi lăm cân tất cả. Khá nặng.”
“Thấy không, hay thật. Hợp tác với nhau. Đây là một bước đột phá, đúng không?”
“Anh có tìm ra biển đăng ký xe không?”
Chiếc xe được đăng ký biển Matxcova. Hoffman đáp, “Victor tìm được rồi. Nó là xe góp cổ phần của Dynamo Electrics. Họ lắp đặt truyền hình cáp. Dynamo Electrics thuộc Dynamo Avionics do Leonid Maximov sở hữu. Họ sẽ chẳng bao giờ báo cáo một chiếc xe tải bị mất tích.”
“Giờ anh trả lương cho Victor hả?”
“Này, tôi đang làm việc giúp anh và phải trả tiền cho nó đấy nhé. Tôi đã đặt Maximov lên đĩa cho anh, sẵn sàng như hàu đã bóc vỏ. Anh thật không biết điều. Trong khi anh vẫn quẩn quanh ở đây thì đã xảy ra một cuộc chiến giữa Maximov và Nikolai Kuzmitch để giành quyền kiểm soát NoviRus ở Matxcova.”
Arkady thừa nhận, “Tôi không có người cung cấp thông tin.”
“Cả hai đều muốn có NoviRus. Kuzmitch đã ra tay trước.” Arkady hồi tưởng lại lúc gặp họ ở bàn chơi rulet tại bữa tiệc từ thiện. Kuzmitch là người thích mạo hiểm, đã đặt cả chồng chíp vào một con số, còn Maximov, một nhà toán học, lại là người chơi thận trọng và có phương pháp.
“Vụ án của Ivanov đã được khép lại,” Arkady nói. “Ivanov nhảy lầu. Nếu Maximov buộc ông ấy làm thế thì Maximov đã thành công. Một cách thẳng thắn thì đó không phải là tính cách của ông ấy. Ngoài ra, tôi cũng đang điều tra trường hợp của Timofeyev. Ông ta bị cắt cổ. Là một vụ giết người. Và theo bằng chứng tôi thu thập được thì không một tổ chức nào có mục đích báo thù họ cả.”
“Timofeyev chả là gì, một kẻ tầm thường. Tôi không hiểu sao Pasha lại để cho ông ta bám theo lâu như vậy.”
“Tôi cũng thế.” Một câu hỏi không tệ chút nào. “Anh muốn bao nhiêu?”
“Bao nhiêu gì?”
“Tiền. Bao nhiêu để bỏ qua Timofeyev và tập trung vào Pasha? Con số của anh là gì?”
“Tôi không có con số nào.”
“Tiền thù lao, phần thưởng hay bất cứ thứ gì anh muốn.”
“Không tiền thù lao, không phần thưởng.”
Hoffman gập máy tính vào. “Để tôi tiếp cận theo cách khác nhé. Nếu anh không giúp, Yakov sẽ giết anh.”
Yakov quay lại, nhằm thẳng súng vào Arkady. Một khẩu Colt của Mỹ, đời cổ với ống giảm thanh nhưng được tra dầu và chăm chút thường xuyên.
“Anh muốn bắn tôi ở đây hả?”
“Sẽ chẳng ai nghe thấy gì đâu. Một vụ lộn xộn nhỏ, giống như kiểu một chiếc xe cũ thôi. Yakov đã lường trước mọi thứ. Anh định tham gia hay không đây?”
“Tôi phải suy nghĩ một chút.”
“Nghĩ cái con khỉ ấy. Đồng ý hay không?”
Nhưng Arkady lại bị phân tâm khi thấy khuôn mặt Vanko gí sát vào cửa xe phía bên Hoffman. Hoffman chùn lại. Ghế trước, Yakov đang hướng khẩu súng về phía Vanko trong lúc Arkady giơ hai tay lên để trấn an anh ta và bảo Hoffman kéo kính xuống.
Bobby gặng hỏi, “Gã đần này là ai?.”
“Không sao đâu,” Arkady đáp.
Cửa kính kéo xuống, Vanko đu đưa một chùm chìa khóa. “Chúng ta có thể bắt đầu ngay bây giờ. Tôi sẽ dẫn anh vào.”
Hoffman và Arkady theo chân Vanko quay lại hướng mà họ vừa đi, trong lúc Yakov lẽo đẽo phía sau. Rời khỏi chiếc xe, ông ta trông có vẻ nhỏ bé với gò má hõm sâu, đầy vết đồi mồi cùng những đường gân nổi xanh trên thái dương. Lông mày bên trái hơi bị xém một chút, khiến con mắt lồi của ông ta như lệch hẳn sang một bên. Ông ta ăn mặc giống một thủ thư với áo len và áo khoác vá, nhưng cái trán cùng cái mũi tẹt lại gợi cảm giác như thể ông ta vừa bị xe lu lăn qua và chẳng thể ghép lại hoàn chỉnh được.
“Yakov không biết sợ,” Bobby lên tiếng, “Ông ta là dân quân kháng chiến ở Ukraine suốt thời chiến và tham gia vào tổ chức Stern* ở Israel. Ông ta đã từng bị bọn Đức, Anh và Ả Rập tra tấn.”
“Một bài học lịch sử trong lúc dạo bộ.”
“Vậy người bạn vui vẻ cùng chùm chìa khóa này đang đưa chúng ta đi đâu?”
“Có vẻ anh ta cho là anh cũng biết,” Arkady đáp.
Vanko rẽ ngược lại, hướng về phía tòa nhà vững chắc đứng một mình trong thành phố vàng và Arkady tự hỏi liệu có phải mình đang hướng đến vài kiểu địa điểm lưu trữ lịch sử nào đó. Cách tòa nhà một đoạn ngắn, Vanko dừng lại trước một boong-ke không cửa sổ mà Arkady đã đi qua hàng trăm lần và luôn nghĩ rằng nó là trạm biến áp hay một kiểu trạm máy nào đó. Vanko mở khóa, đẩy cánh cửa kim loại ra, dẫn Hoffman và Arkady vào.
Bên trong boong-ke là hai quan tài bằng xi măng không nắp, mỗi chiếc dài hai mét, rộng một mét. Không có đèn điện, nguồn sáng duy nhất là từ cánh cửa để ngỏ và không đủ cao để chiếu tới cái mũ của Bobby. Không bàn ghế, tượng, tranh ảnh, cũng chẳng có chỉ dẫn hay bất cứ loại hình trang trí nào, tuy nhiên gờ của quan tài lại được đặt rất nhiều nến cầu nguyện chảy đầy xuống chân nến bằng thiếc, bên trong nhồi hàng loạt giấy tờ và thư từ.
“Ai đây?” Arkady hỏi.
Hoffman giữ im lặng nên Vanko đành đóng vai trò hướng dẫn viên. “Rabbi Nahum của Chernobyl và cháu trai của ông ta.”
Hoffman nhìn xung quanh. “Lạnh.” Vanko nói, “Đất Thánh thường lạnh lẽo.”
“Có chuyên gia tôn giáo ở đây.” Hoffman hỏi Arkady, “Tôi nên làm gì bây giờ?”
“Anh là người theo đạo Do Thái thần bí. Hãy làm những gì họ vẫn làm.”
“Tôi chỉ ăn mặc giống họ thôi. Tôi không làm những chuyện này.”
Vanko nói, “Mỗi năm một ngày, người Do Thái sẽ đến đây trên một chiếc xe buýt. Không đơn độc thế này.”
“Chuyện gì vậy?” Arkady hỏi.
Hoffman nhặt vài tờ giấy từ chiếc quan tài, đưa tới gần ánh sáng để đọc. “Theo đạo Do Thái. Cầu nguyện cho các giáo trưởng.”
“Ồ, vâng,” Vanko lên giọng.
“Có bao nhiêu dân Do Thái sống ở đây?”
“Chỉ khách tới thăm thôi,” Vanko đáp.
“Đều từ Israel.” Hoffman đọc lá thư thứ ba, “Đám Do Thái điên cuồng. Nếu có người giành được giải Super Bowl, họ sẽ nói, ‘Tôi sẽ đến Disneyland!’. Nhưng nếu người Do Thái chiến thắng, anh ta nói, ‘Tôi sẽ đến Chernobyl!’..”
“Họ là những người hành hương,” Arkady nói.
“Tôi hiểu rồi. Giờ thì sao?”
“Làm gì đó.”
Vanko theo dõi cuộc đối thoại bằng mắt hơn là bằng tai. Anh ta thò tay vào túi, lấy ra một cây nến cầu nguyện mới.
Hoffman nói, “Anh có tình cờ mang theo cả siêu thị không đấy*? Đừng để ý. Cảm ơn, thành thật cảm ơn. Tôi nợ anh những gì nhỉ?”
“Mười đô la.”
“Cho cây nến giá một xu à? Vậy ngôi mộ là khuyến mại hả?” Hoffman lục tìm tiền. “Anh kinh doanh hả?”
“Đúng.” Vanko rất vui mừng vì mọi người đã hiểu. “Anh có cần giấy hay bút để viết lời cầu nguyện không?”
“Giá mười đô la một tờ à? Không, cảm ơn.”
“Tôi ở ngay bên ngoài nếu anh cần bất cứ thứ gì. Đồ ăn hoặc chỗ ở?”
“Tất nhiên.” Hoffman nhìn theo cho đến khi Vanko biến mất. “Thật ấn tượng. Bị một gã Igor Ukraine bỏ lại trong ngôi mộ.”
Có hàng trăm tờ cầu nguyện trong mỗi quan tài. Arkady đưa hai tờ cho Hoffman. “Họ viết gì trên này?”
“Những thứ thông thường: ung thư, ly hôn, đánh bom liều chết. Chúng ta ra khỏi đây thôi.”
Arkady hất hàm về phía cây nến. “Anh có diêm không?”
“Tôi nói rồi, tôi không làm những chuyện này.”
Arkady châm nến và đặt nó lên gờ quan tài. Ngọn lửa nhảy múa trên bấc.
Bobby chà xát sau gáy như thể nó không hợp với cái đầu. “Mười đô la mà không sáng lắm nhỉ.”
Arkady nhận thấy những ngọn nến trước đó vẫn chưa cháy hết và đốt chúng lên cho đến khi có hơn chục ngọn nến cùng cháy và bốc khói, tạo thành một vòng ánh sáng soi tỏ đám giấy tờ. Ánh sáng cũng giúp Arkady nhận ra Yakov đang đứng nơi cánh cửa mở. Yakov gầy gò đến nỗi khiến Arkady liên tưởng đến một cây gậy bị đốt cháy rồi được đẽo gọt và lại đốt cháy lần nữa. Hoặc ma đói hồi sinh.
“Có chuyện gì à?” Vanko hỏi vọng từ phía ngoài cửa. Yakov cởi giày, bước vào trong. Ông ta hôn lên quan tài, lầm rầm cầu nguyện trong lúc lắc lư đi tới đi lui, hôn quan tài lần thứ hai và viết một tờ giấy rồi đặt lên những tờ khác.
Bobby chạy ra ngoài đợi Arkady. “Chuyến viếng thăm giáo trưởng đã kết thúc. Vui vẻ chứ?”
“Rất thú vị.”
“Thú vị?” Bobby cười vang. “Được rồi, kết luận thế này. Cái chết của Pasha và Timofeyev có liên quan với nhau. Dù một người chết ở Matxcova và một ở đây, hay một có vẻ là tự tử, còn một rõ ràng bị giết chết.”
“Có thể.” Arkady nhìn Yakov chui lên từ hầm mộ, còn Vanko khóa cửa. Arkady không nhìn thấy bất kỳ tia khẳng định cuộc sống mới mẻ nào trong mắt ông ta. Anh chỉ nhìn thấy ông ta nắm chặt khẩu súng.
Bobby nói, “Vậy có lẽ anh nên tập trung vào vụ Timofeyev, còn tôi thì tập trung vào vụ Pasha. Nhưng chúng ta sẽ hợp tác và chia sẻ thông tin.”
“Như thế có nghĩa là Yakov sẽ không bắn tôi nữa hả?” Arkady hỏi.
“Quên chuyện đó đi. Cách làm đó không hiệu quả.”
“Yakov có biết nó không hiệu quả không? Trông ông ta có vẻ không hiểu gì.”
“Đừng lo lắng,” Bobby nói. “Vấn đề là, tôi sẽ không rời đi, vì thế hoặc là tôi sẽ ngăn cản anh hoặc chúng ta sẽ hợp tác.”
“Bằng cách nào? Anh không phải thám tử, cũng chẳng phải điều tra viên.”
“Cuốn băng chúng ta vừa xem ấy? Nó là của anh.”
“Tôi đã xem hết rồi.”
“Vậy đáp lại, anh có cái gì? Không gì à?”
Vanko bị bỏ lại khá xa, ngoài tầm nghe nhưng không đành lòng từ bỏ viễn cảnh có thêm nhiều đô la nữa. Cảm nhận khoảng ngừng giữa cuộc đối thoại, anh ta rón rén đến gần Arkady và hỏi như thể gợi ý một điểm du lịch hấp dẫn khác của địa phương, “Anh đã nói với họ về cái xác mới chưa?”
Bobby quay đầu từ phía Vanko sang Arkady. “Chưa. Điều tra viên Renko, hãy nói về cái xác đó đi. Chia sẻ nào.”
Yakov cho tay vào túi áo khoác.
“Trao đổi,” Arkady đáp. Đó mới là từ chính xác.
“Cái gì?”
“Đưa điện thoại của anh cho tôi.”
Bobby miễn cưỡng lấy điện thoại ra. Arkady bật lên, tìm kiếm trong danh mục cho đến khi thấy số anh muốn và bấm nút “Gọi.”
Một giọng ngắn gọn vang lên, “Victor đây.”
“Ở đâu?”
Một khoảng im lặng kéo dài. Có lẽ Victor đang nhìn chằm chằm vào số gọi đến.
“Arkady?”
“Anh đang ở đâu, Victor?”
“Kiev.”
“Anh đang làm gì ở đấy?”
Lại im lặng.
“Thật sự là anh hả, Arkady?”
“Anh đang làm gì?”
“Tôi đang xin nghỉ ốm. Chuyện cá nhân.”
“Anh đang làm gì ở Kiev?”
Một tiếng thở dài. “Thôi được, ngay lúc này, tôi đang ngồi ở Quảng trường Độc lập, ăn Big Mac*và theo dõi Anton Obodovsky nhấm nháp ly sinh tố chỉ cách mình hai mươi mét. Anh bạn của chúng ta đã được ra tù và vừa dành hai tiếng với một nha sĩ.”
“Nha sĩ ở Matxcova không tốt à? Anh ta nhất thiết phải tới Kiev sao?”
“Nếu ở đây, anh sẽ hiểu tại sao. Anh phải nhìn thì mới tin được.”
“Theo sát gã ta. Tôi sẽ gọi anh khi nào tới đó.”
Arkady tắt điện thoại, trả cho Bobby lúc này đang nắm chặt cánh tay anh, “Trước khi anh đi. Cái xác mới ư? Với tôi, đó có vẻ là một bước tiến.”