Where the sacred laws of honour are once invaded, love makes the easier conquest.

Addison

 
 
 
 
 
Tác giả: Philip Pullman
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Golden Compass
Dịch giả: Nhật Thu
Biên tập: Gió
Upload bìa: Little rain
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 6791 / 190
Cập nhật: 2014-12-06 13:57:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 9 - Những Sinh Vật Gián Điệp
hững ngày tiếp theo, Lyra vẽ nên hàng tá kế hoạch rồi lại gạt bỏ không thương tiếc vì tất cả mọi người đang hối hả với việc chuẩn bị lên tàu, làm thế nào để trốn trên một con tàu, làm thế nào để trốn trên một con tàu? Chắc chắn, một chuyến đi biển thực thụ sẽ cần đến một con tàu phù hợp, và cô được nghe nhiều chuyện đến mức có thể biết tất cả những chỗ trốn trên một con tàu lớn: các phao cứu sinh, các phòng, đáy tàu, bất cứ chỗ nào khác; nhưng đầu tiên cô phải lên được tàu đã, rời khỏi Vùng đầm lầy cũng có nghĩa là bước vào một chuyến phiêu lưu theo kiểu của người Digan.
Ngay cả khi tự cô đến được bờ biển, có thể cô sẽ trốn nhầm thuyền. Thật là hay ho nếu trốn trong phao cứu sinh của một con tàu và thức dậy khi đang trên đường đến High Brazil.
Trong khi đó, như để trêu ngươi, công việc chuẩn bị cho chuyến đi đang diễn ra ngày đêm. Cô bám theo Adam Stefanski, quan sát khi ông chọn lựa những người tình nguyện cho trận đánh. Cô gây khó chịu cho Roger van Poppel với những câu hỏi về các thứ họ cần mang theo: ông đã nhớ mang theo kính râm đi tuyết chưa? Ông có biết nơi tốt nhất để mua bản đồ Bắc Cực là ở đâu không?
Người đàn ông cô muốn giúp đỡ nhất là Benjamin de Ruyter, người trinh sát. Nhưng anh đã biến mất chỉ vài giờ sau Buổi họp mặt lần thứ hai, và tất nhiên không ai có thể nói anh đi đâu hay bao giờ thì về. Vì thế, để thay vào đó, Lyra cứ bám dính lấy Farder Coram.
“Cháu nghĩ tốt nhất là để cháu giúp ông, Farder Coram”, cô nói “vì có thể cháu biết nhiều về bọn Gà trống tây hơn bất cứ người nào, vì cháu gần như đã là một trong số họ rồi. Có thể ông sẽ cần cháu để giúp ông đọc những thông điệp của ông Benjamin de Ruyter.”
Ông cảm thấy thương cô bé có tính cách dữ dội và liều lĩnh này và không muốn đuổi cô đi. Thay vào đó ông nói chuyện với cô, lắng nghe những kỷ niệm của cô về Oxford và bà Coulter, quan sát khi cô đọc La bàn vàng.
“Cuốn sách nói về tất cả các biểu tượng ở đâu ạ?” Một hôm cô hỏi ông.
“Ở Heidelberg” Ông trả lời.
“Có phải chỉ có duy nhất một cuốn không?”
“Có thể còn có những cuốn khác nữa, nhưng đó là cuốn ta nhìn thấy.”
“Cháu cá là có một cuốn trong Thư viện của Bodley tại Oxford” Cô nói.
Cô không thể rời mắt khỏi con nhân tinh của Farder Coram, nó là con nhân tinh đẹp nhất cô từng nhìn thấy. Khi Pantalaimon biến thành một chú mèo, nó gầy còm, lông bù xù và luộm thuộm, nhưng Sophonax, tên con nhân tinh đó là một con mèo mắt vàng trang nhã, to gấp đôi con mèo bình thường và có bộ lông rất dày. Khi ánh mặt trời chiếu vào nó, nó sáng lên màu cây gụ- mùa thu- màu vàng, hạt ngô- màu đỏ, lá cây- nâu- hung hung đến mức Lyra không biết gọi là màu gì. Cô mong muốn được chạm vào lông nói, để cọ má mình vào đó, nhưng tất nhiên là không bao giờ cô làm được. Có một quy ước bất thành văn mặc nhận rằng sẽ là rất thô lỗ nếu chạm vào nhân tinh của người khác. Các con nhân tinh có thể chạm vào nhau, tất nhiên, hay đánh nhau nữa; nhưng sự ngăn cấm đụng chạm giữa người và nhân tinh đã sâu sắc tới mức ngay trong một trận đánh, không có chiến binh nào được chạm vào nhân tinh của kẻ thù. Điều này bị cấm tuyệt đối. Lyra không nhớ là mình được nghe nói như vậy, cô chỉ biết thế thôi, theo bản năng như thể cô cảm thấy buồn nô là không tốt, còn dễ chịu là tốt. Vì thế dù mê mẩn bộ lông của Sophonax, thậm chí còn mường tượng nó sẽ thế nào, cô không bao giờ tiến thêm một bước dù là nhỏ nhất để vuốt ve nó, và cũng chẳng bao giờ nó để cô làm thế.
Sophonax càng mỡ màng, khỏe mạnh và đẹp đẽ bao nhiêu thì Farder Coram càng héo hon và gầy yếu bấy nhiêu. Có thể ông đang bị ốm, hoặc ông phải chịu một tai họa khủng khiếp, nhưng kết quả là ông không thể đi lại được nếu thiếu hai chiếc gậy, và lúc nào người ông cũng run rẩy như một chiếc lá trước gió. Tuy nhiên, trí tuệ của ông nhạy bén, sáng suốt và mạnh mẽ, Lyra nhanh chóng yêu mến ông vì kiến thức và cách ông chỉ bảo cho cô.
“Cái đồng hồ cát này có nghĩa là gì vậy, Farder Coram?” Cô hỏi khi đang cầm La bàn vàng vào một buổi sáng, ánh nắng mặt trời chan hòa trên chiếc thuyền của ông. “Chiếc kim cứ quay lại biểu tượng đó.”
“Thường luôn có một gợi ý khi cháu nhìn kỹ hơn. Có thứ gì nho nhỏ ở trên đầu nó vậy?”
Cô nheo mắt và nhìn chăm chú.
“Đó là một cái đầu lâu!”
“Vậy theo cháu nó có ý nghĩa là gì?”
“Cái chết… Có phải là cái chết không ạ?”
“Đúng thế. Vậy là trong dãy ý nghĩa của đồng hồ cát cháu đã có cái chết. Thực ra, thời gian là ý nghĩa đầu tiên, cái chết là ý nghĩa thứ hai.”
“Ông có biết cháu để ý đến điều gì không, Farder Coram? Chiếc kim dừng lại ở đó sau khi đi vòng quanh hai vòng! Trong vòng thứ nhất nó bị kéo mạnh, còn ở vòng thứ hai thì nó dừng lại. Có phải như thế có nghĩa là ý nghĩa thứ hai, phải vậy không?”
“Có thể là như vậy, cháu hỏi nó về điều gì vậy, Lyra?”
“Cháu đang nghĩ…” Cô ngừng lại, ngạc nhiên khi nhận ra cô thực sự hỏi một câu hỏi mà không nhận ra nó. “Cháu chỉ đặt ba bức tranh lại với nhau vì… Cháu đang nghĩ về ông de Ruyter… Cháu đặt con rắn, nồi nấu kim loại và tổ ong, để hỏi xem ông ấy đang làm gì với nhiệm vụ gián điệp của mình, và…”
“Tại sao lại là ba biểu tượng đó?”
“Vì cháu nghĩ con rắn rất xảo quyệt, như một người trinh sát cần phải thế, nồi nấu kim loại có thể mang ý nghĩa của sự hiểu biết, một loại chưng cất, và tổ ong có nghĩa là làm việc chăm chỉ; vậy là nhờ có làm việc chăm chỉ nên có được kiến thức sắc bén, đó là công việc của người trinh sát, và cháu chỉ vào chúng khi cháu nghĩ câu hỏi trong đầu. Chiếc kim chỉ vào cái chết… Ông có nghĩ nó thực sự làm việc không, Farder Coram?”
“Đúng là nó đang làm việc, Lyra ạ. Điều chúng ta không biết là liệu chúng ta có đọc nó đúng hay không. Đây là cả một nghệ thuật phức tạp. Ta tự hỏi…”
Nhưng trước khi ông nói hết câu, một tiếng gõ cửa gấp gáp, và một người đàn ông Digan trẻ tuổi bước vào.
“Xin thứ lỗi cho tôi, Farder Coram, Jacob Huisman vừa trở về, anh ấy bị thương rất nặng.”
“Anh ta đi cùng Benjamin de Ruyter,” Farder Coram nói. “Có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Anh ấy không nói”, người đàn ông trẻ tuổi nói. “Tốt hơn là ông nên đến, Farder Coram, vì anh ấy không sống được lâu nữa đâu, máu ra nhiều quá.
Farder Coram và Lyra trao đổi một ánh mắt lo sợ và kinh ngạc, nhưng chỉ sau một giây, Farder Coram đã chộp lấy hai cây gậy nhanh hết mức có thể, con nhân tinh chạy phía trước. Lyra cũng hối hả chạy theo sau.
Người đàn ông dẫn họ đến một chiếc thuyền buộc vào cầu tàu, ở đó một người phụ nữ đeo tạp dề bằng vải flannel đỏ đang giữ cửa mở cho họ. Nhận ra ánh mắt nghi ngại của bà với Lyra, Farder Coram nói: “Việc để cô bé này nghe được lời Jacob nói rất quan trọng, thưa bà.”
Vì thế người phụ nữ để họ vào và đứng về phía sau, con nhân tinh sóc của bà đang đứng lặng im. Trên chiếc giường phủ tấm ga vá víu, một người đàn ông đang nằm, khuôn mặt trắng bệch nhễ nhại mồ hôi, ánh mắt đờ đẫn.
“Tôi đã gọi thầy thuốc, thưa Farder Coram” Người phụ nữ run run nói. “Xin đừng làm anh ấy bị kích động. Anh ấy đang phải vật lộn với cơn đau đớn. Anh ấy vừa ra khỏi thuyền của Peter Hawker vài phút trước đây.”
“Peter đâu rồi?”
“Anh ấy đang buộc thuyền. Chính anh ấy bảo tôi phải mời ông đến.”
“Rất sáng suốt. Nào, Jacob, anh có nghe thấy tôi nói không?”
Jacob ngước mắt nhìn Farder Coram đang ngồi trên chiếc giường đối diện, chỉ cách khoảng vài mét.
“Chào Farder Coram”. Ông thì thầm.
Lyra nhìn sang con nhân tinh của ông. Đó là một con chồn sương, nó nằm rất im bên cạnh đầu chủ, cuộn tròn không ngủ, vì mắt nó cũng đang mở to giống chủ của mình.
“Điều gì đã xảy ra vậy?” Farder Coram hỏi.
“Benjamin chết rồi.” Ông trả lời. “Anh ấy đã chết, còn Gerard thì bị bắt.”
Giọng ông khản đặc và hơi thở rất yếu. Khi ông ngừng nói, con nhân tinh đau đớn duỗi người ra, liếm má chủ, và được tiếp thêm sức mạnh từ đó, ông tiếp tục:
“Chúng tôi đột nhập vào Bộ Thần học, vì Benjamin nghe được từ một tên Gà trống tây chúng tôi bắt được nói rằng sào huyệt của chúng ở đó, đó là nơi ban hành những mệnh lệnh…”
Ông lại ngừng lại.
“Anh đã bắt được vài tên Gà trống tây?” Farder Coram hỏi.
Jacob gật đầu, và đưa mắt nhìn con nhân tinh. Thường thì các nhân tinh không nói chuyện với những người khác ngoài chủ của mình, nhưng đôi lúc việc này cũng xảy ra. Nó lên tiếng.
“Chúng tôi bắt được ba tên Gà trống tây tại Clerkenwell và bắt chúng phải khai ra chúng làm việc cho ai, mệnh lệnh phát ra từ đâu và đại loại các chuyện như vậy. Chúng không biết bọn trẻ bị mang đi đâu, ngoại trừ việc lên phương Bắc, đến vùng Lapland…”
Nó ngừng lại và thở hổn hển một lúc, bộ ngực bé nhỏ của nó phập phồng rồi lại tiếp tục.
“Bọn Gà trống tây đó nói cho chúng tôi về Bộ Thần học và Ngài Boreal. Benjamin nói ông ấy và Gerard Hook phải đột nhập vào đó, còn Frans Broekman cùng Tom Mendham sẽ đi thăm dò về Ngài Boreal.”
“Họ làm đúng như vậy chứ?”
“Chúng tôi không biết. Họ không trở về. Farder Coram, đó dường như là tất cả những điều chúng tôi đã làm, chúng tôi đã biết trước khi hành động, và theo những gì chúng tôi đoán thì Frans và Tom đã bị nuốt sống ngay khi tiếp cận Ngài Boreal.”
“Hãy quay lại với Benjamin.” Farder Coram nói, nghe thấy hơi thở của Jacob ngày càng gấp gáp và đôi mắt nhắm nghiền trong đau đớn.
Con nhân tinh của Jacob kêu khẽ một tiếng tràn ngập lo lắng và yêu thương, người phụ nữ tiến lại gần thêm một hay hai bước, tay bịt miệng, nhưng bà không nói gì, con nhân tinh yếu ớt tiếp tục nói:
“Benjamin, Gerard và chúng tôi đến Bộ Thần học tại Nhà Trắng và tìm thấy một cửa ngách nhỏ, nó không bị canh phòng nghiêm ngặt lắm, chúng tôi đứng trông chừng xung quanh trong khi họ mở khóa đi vào. Họ chưa vào được bên trong nhưng khoảng một phút sau chúng tôi nghe thấy một tiếng kêu đau đớn, con nhân tinh của Benjamin bay ra ngoài để vẫy chúng tôi vào giúp đỡ rồi lại bay vào, chúng tôi rút dao ra và chạy theo sau; nơi đó quá tối, đầy những thứ và âm thanh ghê rợn khiến chúng tôi nhầm lẫn những chuyển động của chúng; chúng tôi quan sát xung quanh, nhưng phía trên có một sự rung chuyển, một tiếng hét sợ hãi, Benjamin và con nhân tinh ngã xuống từ trên cầu thang phía trên chúng tôi, con nhân tinh cố gắng lôi mạnh và vùng vẫy để đỡ anh ấy, nhưng không có kết quả, vì họ lao xuống sàn nhà, cả hai chết ngay lập tức.
Chúng tôi không nhìn thấy Gerard đâu cả, nhưng tiếng anh ấy rú lên phía trên, chúng tôi quá sợ hãi và choáng váng đến nỗi không nhúc nhích nổi. Sau đó một mũi tên bắn vào vai chúng tôi và đâm rất sâu vào… ”
Giọng con nhân tinh càng yếu hơn, tiếng rên rỉ phát ra từ người đàn ông bị thương. Farder Coram cúi xuống nhẹ nhàng lật tấm khăn trải giường lên, và từ phía vai của ông nhô ra đầu có cắm lông chim của một mũi tên trong một đám máu đóng hòn lớn. Phần máu và đầu tên cắm sâu vào ngực người đàn ông xấu số đến nỗi vượt ra khỏi lớp da đến mười phân. Lyra cảm thấy choáng váng.
Có tiếng chân người và giọng nói ngoài cầu tàu.
Farder Coram đứng lên và nói: “Thầy thuốc đã đến, Jacob. Chúng tôi sẽ để anh nghỉ ngơi. Chúng ta sẽ nói chuyện nhiều khi anh đã cảm thấy khá hơn.”
Ông vỗ vai người phụ nữ khi đi ra. Lyra nép vào người đàn ông khi đến cầu tàu, vì có một đám đông đã đứng đó, thì thầm và chỉ trỏ. Farder Coram lệnh cho Peter Hawker phải đến ngay chỗ John Faa và nói:
“Lyra, ngay khi chúng ta biết Jacob sống hay chết, chúng ta phải nói chuyện về La bàn vàng. Cháu hay đi đi và ở nguyên một chỗ, cô bé. Chúng ta sẽ cho gọi cháu.”
Lyra lang thang trên đường về, và đi đến bờ sông đầy cây lau sậy ngồi ném bùn xuống nước. Cô biết một điều: cô không thích thú hay tự hào khi có thể đọc được La bàn vàng- cô càm thấy sợ hãi. Bất cứ sức mạnh nào có thể khiến chiếc kim quay và dừng lại, nó cũng biết mọi chuyện như một con người có lý trí.
“Mình đoán đó là một con quỷ” Lyra nói, và trong một lúc cô cảm thấy bứt rứt muốn ném thứ đồ bé nhỏ xuống giữa đầm lầy.
“Mình sẽ nhìn thấy nếu có một linh hồn trong đó”. Pantalaimon nói. “Như con ma ở Godstow. Mình thì nhìn được còn cậu lại không”.
“Không phải chỉ có một loại linh hồn”. Lyra nói với giọng trách móc. “Dù sao cậu cũng không thể nhìn thấy hết được bọn chúng. Hơn nữa, thế chuyện những học giả đã chết hiện lên không đầu? Mình đã nhìn thấy, nhớ không?”
“Đó chỉ là một cơn ác mộng thôi”.
“Không phải. Đó là những linh hồn có thực, và cậu cũng biết thế. Nhưng dù là loại linh hồn nào điều khiển chiếc kim thì cũng không phải loại linh hồn đó.”
“Có thể nó không phải một loại linh hồn”. Pantalaimon bướng bỉnh.
“Vậy thì đó là cái gì?”
“Nó có thể là… Nó có thể là những hạt cơ bản.”
Cô lắc đầu quầy quậy.
“Có thể là nó đấy!” Pantalaimon khăng khăng. “Cậu có nhớ chiếc máy đo ánh sáng ở Gabriel không? Sao nào?”
Tại Học viện Gabriel có một thứ linh thiêng được giữ nguyên trên bệ thờ của Nhà nguyện, được phủ (giờ Lyra mới nhớ ra) nhung đen, giống tấm vải bọc La bàn vàng. Cô nhìn thấy nó khi đi cùng ông Quản lý thư viện Jordan sang bên đó dự lễ. Khi lời khẩn cầu cất lên cao, Người trợ lễ nâng tấm vải lên để lộ một vòm kính lờ mờ bên trong là một thứ gì đó không thấy rõ vì quá xa, cho đến khi người bên trên, để một tia nắng mặt trời xuyên vào đúng giữa mái vòm. Giờ thì mọi thứ mới rõ ràng: một thứ giống như chiếc chong chóng chỉ chiều gió, một bên có bốn bản hứng gió, một bên màu đen, ánh sáng chiếu vào. Nó thể hiện một bài học đạo lý, Người trợ lễ giải thích, vì màu đen của sự ngu dốt chạy trốn khỏi ánh sáng, trong khi sự khôn ngoan của màu trắng lao theo kéo nó lại. Lyra nghe ông ta nói nhưng không mấy quan tâm, nhưng những cánh gió quay tít thật là hay dù chúng dùng để làm gì, và tất cả đều được thực hiện dưới lực đẩy của hạt, ông Quản lý thư viện nói như vậy khi họ trên đường trở về Jordan.
Vì thế cũng có thể Pantalaimon nói đúng. Nếu các hạt cơ bản có thể đẩy một chiếc máy đo sáng quay vòng, không nghi ngờ gì nó có thể khiến ánh sáng hoạt động làm quay chiếc kim, nhưng điều này vẫn khiến cô băn khoăn.
“Lyra! Lyra!”
Có tiếng Tony Costa, anh đang vẫy cô từ bến thuyền.
“Đến đây đi.” Anh gọi. “Cô phải đến gặp John Faa tại Phòng họp mặt. Chạy đi, cô bé, việc gấp đấy.”
Cô nhận thấy John Faa, Farder Coram và những lãnh đạo khác, tất cả đều trông rất lo lắng.
John Faa lên tiếng:
“Lyra, cô bé, Farder Coram đã kể cho ta nghe về chuyện cháu đọc chiếc máy đó. Và ta rất tiếc khi phải thông báo rằng Jacob đáng thương đã qua đời. Ta nghĩ sau cùng có lẽ chúng ta sẽ đưa cháu đi cùng, ngược lại với dự định của ta ban đầu. Tâm trí ta đang rối bời về chuyện đó, nhưng có vẻ như không còn sự chọn lựa nào khác. Ngay sau khi Jacob được mai táng theo phong tục, chúng ta sẽ lên đường. Cháu hiểu ý ta chứ, Lyra: cháu sẽ cùng đi, nhưng đây không phải là một dịp để cháu vui chơi và mừng rỡ. Có rất nhiều khó khăn và nguy hiểm đang đợi chúng ta ở phía trước.”
“Ta đặt cháu dưới sự trông nom của Farder Coram. Cháu không được gây phiền phức hay vướng víu gì cho ông ấy, nếu không cháu sẽ được nếm cơn thịnh nộ của ta đấy. Giờ thì hãy về ngay và nói cho Mẹ Costa biết, hãy luôn trong tư thế sẵn sàng.”
Hai tuần tiếp theo trôi qua trong bận rộn nhất từ trước đến nay trong đời Lyra. Bận rộn, nhưng không vội vã, vì có những khoảng thời gian chờ đợi chán ngắt, cô trốn trong những cabin trên thuyền, hay chờ đợi khung cảnh mùa thu đẫm nước mưa ảm đạm trôi qua khung cửa sổ, rồi lại chơi trốn trong cabin, hay ngủ cạnh đầu máy hơi gas và thức giấc với cơn đau đầu mệt mỏi; và tệ hơn cả, không bao giờ được phép đi ra ngoài để chạy dọc bờ sông hay trèo lên boong tàu hay kéo cửa cống hay bắt một chiếc dây neo quăng lên.
Bởi vì tất nhiên cô phải náu mình. Tony Costa kể cho cô nghe những chuyện bàn tán trong các quán rượu trên bờ: rằng có một cuộc săn đuổi trên khắp vương quốc tìm một cô bé tóc sáng màu với một phần thưởng lớn cho ai tìm được và lệnh trừng phạt nặng nề cho ai che giấu cô. Cũng có những lời đồn đại kỳ lạ: người ta nói rằng cô là đứa trẻ duy nhất trốn thoát được khỏi bọn Gà trống tây, và cô nắm trong tay những bí mật chết người. Một lời đồn đại khác nói rằng cô không phải là một đứa trẻ bình thường mà là một đôi quỷ đội lốt một đứa trẻ và con nhân tinh, đến được thế giới nhờ những thế lực địa ngục để hủy hoại nhân loại; còn một lời đồn đại nữa cho rằng không có đứa trẻ nào cả mà là một người lớn, bị phép thuật làm bé lại và bị người Tartar niệm chú, đến do thám những người dân nước Anh tốt bụng và dọn đường cho cuộc xâm lược của người Tartar.
Đầu tiên Lyra nghe những câu chuyện đó với thái độ vui vẻ, còn sau đó là chán nản. Tất cả mọi người đều ghét và sợ cô! Cô mong mỏi được ra khỏi chiếc cabin chật hẹp như một chiếc thùng này. Cô mong rằng mình đã ở trên phương Bắc, trong màn tuyết mênh mông dưới hiện tượng Cực quang rực rỡ. Và đôi khi cô mong được quay trở về Học viện Jordan, bò lê trên những mái nhà cùng Roger, nghe tiếng chuông của người Quản lý rung lên nửa tiếng trước bữa tối và những tiếng loảng xoảng, lèo xèo hay kêu la trong Nhà bếp… Rồi cô lại say sưa mơ rằng chưa có chuyện gì thay đổi, không có chuyện gì thay đổi, rằng cô có thể là Lyra của Học viện Jordan mãi mãi, mãi mãi.
Điều duy nhất có thể kéo cô ra khỏi nỗi chán chường và bực bội là La bàn vàng. Cô đọc nó hàng ngày, đôi khi cùng Farder Coram, đôi khi một mình, cô nhận thấy cô có thể ngày càng ham thích đắm mình vào sự tĩnh tâm để nghiên cứu những ý nghĩa của biểu tượng, những dãy núi sừng sững được ánh mặt trời chiếu sáng xuất hiện trong tâm trí.
Cô gắng hết sức giải thích cho Farder Coram nó có cảm giác thế nào.
“Nó gần giống như nói chuyện với ai đó, chỉ có điều ông không thể nghe rõ họ nói gì, và ông cảm thấy như thể mình ngớ ngẩn vì họ thông minh hơn ông, chỉ có điều họ không chịu đau khổ hay gì đó… Họ biết rất nhiều, Farder Coram ạ! Dường như họ biết hết mọi thứ, gần như vậy! Bà Coulter rất thông minh, bà ấy biết rất nhiều, nhưng đây là một loại kiến thức khác… Đó giống như sự thấu hiểu, cháu nghĩ vậy…”
Ông thường đưa ra những câu hỏi đặc biệt, còn cô tìm kiếm câu trả lời.
“Hiện bà Coulter đang làm gì vậy?” Ông hỏi, đôi tay cô làm việc ngay lập tức. Ông hỏi “Hãy nói cho ta biết cháu đang làm gì?”
“Vâng, Đức mẹ là bà Coulter, cháu nghĩ đến mẹ cháu khi đặt chiếc kim vào đó; con kiến là sự bận rộn- cái này thì dễ, đó là ý nghĩa đầu tiên; và một trong những ý nghĩa của chiếc đồng hồ cát là thời gian. Giờ thì gạt chiếc kim xuống đây, và cháu vừa áp đặt suy nghĩ của mình lên nó.”
“Và làm thế nào cháu biết được ý nghĩa đó ở đâu?”
“Gần như cháu nhìn thấy nó. Hay đúng hơn là cảm nhận nó, như leo xuống một chiếc thang vào ban đêm, đặt chân xuống và lại có một thanh ngang khác. Vậy, cháu đặt tâm trí của mình xuống và lại có một ý nghĩa khác, cháu gần như cảm nhận được nó là gì. Rồi cháu đặt chúng lại gần nhau. Có một thủ thuật, như làm lác mắt ấy.”
“Vậy hãy làm đi, rồi xem nó nói gì?”
Lyra làm theo. Chiếc kim dài lập tức dịch chuyển, và dừng lại, lại dịch chuyển, lại dừng lại tại hàng loạt những điềm chính xác rồi lại dừng lại. Nó cũng có cảm giác uyển chuyển và mạnh mẽ như Lyra đang cảm nhận, như một con chim non đang tập bay. Farder Coram, quan sát từ phía bên kia bàn, chú ý những nơi chiếc kim dừng lại, quan sát cô bé giữ cho tóc khỏi xòa vào mặt và khẽ cắn môi, đôi mắt cô dõi theo chiếc kim, nhưng sau đó, khi hành trình của nó đã được xác định, cô lại nhìn đâu đó trên mặt La bàn. Tuy nhiên, đó không phải là ngẫu nhiên. Farder Coram là người chơi cờ, ông biết những người chơi nhìn nhận cuộc chơi như thế nào trong khi chơi. Một tay chơi chuyên nghiệp dường như thấy được những đường lực và ảnh hưởng trên bàn cờ, nhìn dọc những tuyến quan trọng mà bỏ qua những điểm yếu; đôi mắt Lyra cũng dõi theo một đường như vậy, theo một từ trường tương tự mà cô có thể thấy, còn ông thì không.
Chiếc kim dừng lại ở tia sét, đứa bé, con rắn, con voi, và một vật Lyra không tìm ra tên để đặt cho nó: một loại thằn lằn mắt to, chiếc đuôi cuốn xung quanh cành cây nó đang đứng. Sự kết hợp này lặp đi lặp lại nhiều lần, trong khi đó Lyra vẫn quan sát.
“Con thằn lằn đó mang ý nghĩa gì vậy?” Farder Coram hỏi, phá vỡ sự tập trung của cô.
“Cháu không có ý tưởng gì… Cháu có thể hiểu nó nói gì, nhưng chắc hẳn cháu không đọc ra được nó. Cháu nghĩ tia sét là sự giận dữ, đứa bé, cháu nghĩ là cháu… Cháu đang cố cho con thằn lằn một ý nghĩa, nhưng ông hỏi cháu, Farder Coram, làm cháu quên béng mất. Đấy, giờ thì không biết nó trôi nổi đi đâu mất rồi.”
“À, ta thấy rồi. Ta xin lỗi, Lyra ta thật là đáng trách. Cháu đã mệt chưa? Cháu có muốn nghỉ không?”
“Không, cháu không muốn nghỉ”, cô nói, nhưng hai má cô ửng đỏ và đôi mắt sáng rực. Cô có tất cả các dấu hiệu của việc bực bội do hào hứng quá mức, và nó còn trở nên tệ hơn do cô phải trốn trong cabin chật hẹp quá lâu.
Ông nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời đã gần tối, họ đang đi dọc theo dải nước trong nội địa trước khi đến được bò biển. Vùng bọt váng màu nâu rộng lớn của sông dưới bầu trời ảm đạm kéo dài đến một dải những thùng đựng than, bên cạnh một nhà máy lọc dầu tỏa khói đen dày đặc đang uể oải hòa vào những đám mây.
“Chúng ta đang ở đâu vậy?” Lyra hỏi. “Cháu có thể thấy ra ngoài một chút được không, Farder Coram?”
“Đây là vùng sông Colby”, ông trả lời. “Cửa sông Cole. Khi chúng ta ra đến được thành phố, chúng ta sẽ buộc thuyền gần khu Chợ khói và đi bộ lên bến tàu. Chúng ta sẽ đến đó trong một hoặc hai giờ tới…”
Nhưng trời đang tối dần, trong khung cảnh hoang vắng tiêu tàn của con sông, chẳng có gì chuyển động ngoài con thuyền của họ và tiếng máy vang lên từ nhà máy lọc dầu xa xa; Lyra đang mệt đến phát sốt, cô đã ở bên trong thuyền quá lâu; vì thế Farder Coram nói tiếp:
“Ừ, ta không cho rằng việc ở bên ngoài vài phút là chuyện gì ghê gớm. Nhưng ta không coi như thế là hít thở không khí trong lành cho đến khi chúng ta ra được đến biển. Nhưng cháu có thể đứng ở đầu thuyền và nhìn ra ngoài trong khi chờ đợi đến lúc đó. ”
Lyra đứng lên, Pantalaimon biến thành một con hải âu ngay lập tức, hào hứng sải đôi cánh trong không gian. Bên ngoài rất lạnh, dù cô đã mặc áo ấm cẩn thận, Lyra nhanh chóng rùng mình. Pantalaimon, ngược lại, bay lượn trong không khí, kêu to thích thú, nhào lộn, lướt và lao như mũi tên, lúc thì phía trước thuyền, lúc dưới đuôi tàu. Lyra cảm thấy hân hoan trước cảnh đó, cảm thấy như mình cũng đang bay như nó, và giục nó hãy thách con nhân tinh- chim cốc của người thợ máy cùng đua. Nhưng con chim cốc phớt lờ nó và đậu xuống ngủ trên chiếc máy xới gần chủ của mình.
Không có sự sống nào trên vùng đất nâu cằn cỗi này, chỉ có tiếng máy bình bịch và tiếng nước bắn tung tóe dưới mũi tàu phá vỡ sự im lặng mênh mông. Những đám mây nặng nề treo là là nhưng không mang theo mưa, vùng không khí phía dưới đầy khói ảm đạm. Chỉ có Pantalaimon đang duyên dáng bay lượn là mang chút hơi hướng sự sống và tươi vui.
Khi nó đang lao lên lao xuống lặn ngụp với sải cánh trắng nổi bật trên nền trời màu nâu, một thứ gì đó màu đen văng tới và đập vào người nó. Nó ngã sang một bên vì sốc và đau, Lyra hét lên, cảm thấy như chính mình đang đau đớn. Một thứ màu đen khác nữa hợp vào với cái thứ nhất, chúng chuyển động không giống loài chim, mà giống những con bọ cánh cứng bay, nặng nề và thẳng hướng, phát ra những tiếng vo ve.
Khi Pantalaimon ngã xuống, cố gắng quay người và trở lại chiếc thuyền cùng đôi tay Lyra đang tuyệt vọng, những thứ màu đen vẫn tiếp tục lao vào nó, kêu vo ve, lao xao và đầy thù hằn. Lyra gần như phát điên với sự sợ hãi của Pantalaimon và của chính mình. Nhưng lúc đó có thứ gì đó lao qua cô bay lên trên.
Đó là con nhân tinh của người thợ máy, dù trông có vẻ chậm chạp và nặng nề, nó bay rất khỏe và nhanh. Nó táp bên này bên kia, đôi cánh đen vùng vẫy, thứ gì màu trắng vỡ ra, và một thứ nhỏ màu đen rơi xuống mặt sàn trải nhựa đường của cabin ngay dưới chân Lyra, đúng lúc Pantalaimon đậu xuống cánh tay vươn thẳng của cô.
Trước khi cô kịp vỗ về nó, nó biến thành một con mèo hoang và lao xuống sinh vật lạ, đánh nó lui vào chân tường, nó quay cuồng cào cấu để thoát thân. Pantalaimon giữ chặt nó xuống bằng những móng vuốt sắc nhọn và nhìn lên bầu trời đang sẫm dần, nơi đôi cánh đen của con chim cốc đang lượn vòng cao hơn để tìm kiếm sinh vật màu đen khác.
Rồi con chim cốc lượn nhanh về và kêu gì đó với người thợ máy. Ông ta nói: “Nó đi rồi. Đừng để con kia trốn thoát. Đây…” và ông hắt chút nước còn lại trong chiếc ca sắt ông đang uống đi rồi ném nó cho Lyra.
Cô chụp nó ngay lên sinh vật lạ đó. Nó kêu vè vè và gầm gừ như một động cơ.
“Giữ chặt nó đấy nhé”, Farder Coram từ phía sau cô nói, rồi ông quỳ xuống luồn một tấm bài phía dưới chiếc ca.
“Nó là thứ gì vậy, Farder Coram?” Cô run rẩy hỏi.
“Chúng ta hãy xuống phía dưới xem thế nào. Cầm nó cẩn thận nhé, Lyra. Cầm thật chắc vào.”
Cô nhìn con nhân tinh của người thợ máy khi đi xuống, định cảm ơn nó, nhưng đôi mắt già cả của nó đang nhắm. Thay vào đó cô cảm ơn người thợ máy.
“Cô nên ở bên dưới thì hơn.” Ông chỉ nói có vậy.
Cô mang chiếc ca vào trong ca bin, Farder Coram đã tìm thấy một chiếc cốc đựng bia. Ông dốc ngược chiếc ca sắt lên trên chiếc cốc rồi rút tấm bài chắn giữa chúng ra, sinh vật lạ rơi xuống chiếc cốc. Ông nâng nó lên để mọi người có thể thấy rõ thứ sinh vật bé nhỏ đang giận dữ.
Nó dài khoảng bằng ngón tay cái của Lyra, màu xanh lá cây thẫm, không phải màu đen. Cánh cứng của nó giương lên, như một con bọ dừa đang sắp bay, chiếc cánh bên trong đang đạp dữ dội đến mức trông nó chỉ như một vết mờ. Sáu chân có móng của nó đang bám lấy mặt thủy tinh nhẵn bóng.
“Nó là cái gì vậy?” Lyra hỏi.
Pantalaimon, vẫn trong hình dáng một con mèo hoang, trèo lên chiếc bàn cách đó mấy mét, đôi mắt màu xanh lá cây của nó đảo qua đảo lại, nhìn theo sinh vật trong chiếc cốc.
“Nếu cháu bẻ nó ra”, Farder Coram nói, “cháu sẽ thấy không có thứ gì sống trong đó cả. Không phải động vật cũng không phải côn trùng, chắc chắn là như vậy. Trước đây ta đã nhìn thấy một con như thế này ta không bao giờ nghĩ có thể gặp lại chúng ở một nơi mãi tận phương Bắc. Một thứ đến từ Châu Phi. Có một bộ máy chạy trong đó, có thứ đồng hồ lên dây cót làm con tim chi phối nó.”
“Nhưng ai gửi nó đến đây chứ?”
“Cháu thậm chí khồng cần phải đọc được biểu tượng, Lyra. Cháu có thể đoán dễ dàng như ta vậy.”
“Bà Coulter?”
“Tất nhiên rồi. Bà ta không chỉ lên thám hiểm phương Bắc, có rất nhiều thứ kỳ lạ có thể tìm thấy ở phương Nam hoang dã. Morocco là nơi lần cuối cùng ta nhìn thấy một trong những thứ này. Nguy hiểm chết người; một khi đồng hồ dây cót vẫn còn chế ngự nó, nó sẽ không bao giờ ngừng lại, và khi cháu thả tự do cho nó, nó sẽ nổi giận khủng khiếp đến mức nó giết chết thứ gì đầu tiên gặp được”
“Nhưng mục đích phía sau nó là gì?”
“Do thám. Ta thật là ngu ngốc khi để cháu ra ngoài. Và đáng lẽ ta phải không cắt đứt dòng suy nghĩ của cháu để cháu tìm ra ý nghĩa của biểu tượng.”
“Cháu nghĩ ra rồi!” Lyra đột ngột reo lên thích thú. “Nó có nghĩa là không khí, con thằn lằn ấy! Cháu nhìn thấy, nhưng không thể hiểu được tại sao, vì thế cháu cố gắng tìm ra, rồi cháu bị đứt mạch suy nghĩ và quên mất.”
“À”, Farder Coram nói, “thế thì ta cũng hiểu rồi. Đó không phải là một con thằn lằn, nguyên nhân là như thế đấy. Đó là một con tắc kè hoa. Và nó tượng trưng cho không khí vì nó không ăn cũng không uống, nó chỉ sống nhờ không khí.”
“Còn con voi?”
“Châu Phi”. Ông nói, và reo lên “Aha.”
Họ nhìn nhau. Càng khám phá thêm về sức mạnh của La bàn vàng, họ càng thấy sợ hãi trước nó.
“Lần nào nó cũng cảnh báo chúng ta về những chuyện này”, Lyra nói, “Đáng ra chúng ta phải nghe nó. Nhưng chúng ta có thể làm gì với thứ này, Farder Coram? Chúng ta có nên giết nó hay làm gì không?”
“Ta không biết, vì ta có thể làm bất cứ điều gì cũng được. Có thể chúng ta chỉ việc giữ chặt nó trong một chiếc hộp và không bao giờ thả nó ra. Điều làm ta lo lắng là con còn lại, đã trốn thoát. Giờ thì nó đang bay trở lại với bà Coulter, báo tin rằng nó đã nhìn thấy cháu. Ta thật đáng nguyền rủa, Lyra ạ. Sao ta lại ngu ngốc thế chứ.”
Ông loay hoay một lúc ở chiếc tủ buýp phê và tìm thấy một hộp thiếc đựng lá thuốc có đường kính khoảng tám centimet. Nó vốn được dùng để đựng các thứ ốc vít, nhưng ông đổ các thứ trong đó ra và lau mặt trong bằng một tấm vải buồm trước khi dốc ngược chiếc cốc lên trên, tấm bìa vẫn để trên miệng cốc.
Sau một lúc, khi một trong những chiếc chân của sinh vật thò ra và đẩy chiếc hộp với sức mạnh bất ngờ, họ bắt nó lại và đóng chặt chiếc hộp.
“Ngay khi chúng ta đến được tàu, ta sẽ cắt một số lính canh quanh bờ để đảm bảo an toàn,” Farder Coram nói.
“Nhưng bộ máy trong người nó có thể bị hỏng chứ?”
“Với một bộ máy bình thường, thì đúng là như vậy. Nhưng như ta đã nói, nó bị trói buộc bởi thứ tinh thần đó đến tận giây phút cuối cùng. Càng vùng vẫy, nó sẽ càng bị buộc chặt hơn, và sức mạnh chi phối nó càng trở nên dữ dội. Giờ thì hãy cho anh chàng này vào một chỗ…”
Ông gói chiếc hộp thiếc bằng một mảnh vải flannel để giảm bớt tiếng vù vù không ngớt, rồi cất nó dưới gầm chiếc giường ông nằm.
Trời đã tối, Lyra nhìn ra ngoài cửa sổ khi những vùng sáng của Colby tiến lại gần hơn. Bầu không khí nặng nề ngày càng dày đặc và trở thành sương mù. Đến khi họ buộc thuyền vào bến tàu dọc Chợ khói, mọi thứ trong tầm mắt trở nên mờ ảo. Bóng tối lan đến những tấm lợp màu xám bạc long lanh như đính ngọc trai do dính sương đêm phủ trên những mái nhà kho hay cần trục, những quầy bán thuốc đóng bằng gỗ, tòa nhà nhiều ống khói bằng gạch grannit mà khu chợ được đặt tên theo đó, nơi suốt ngày đêm cá được treo và hun khói góp phần làm bầu không khí ẩm ướt, mùi nồng nồng dễ chịu của cá hồi, cá thu và cá efin hun khói dường như ngấm vào từng viên cuội lót đường.
Lyra, cuốn mình trong tấm áo choàng với một chiếc mũ chụp lớn che mái tóc, đi giữa Farder Coram và người thợ máy. Cả ba con nhân tinh đều rất cảnh giác, sục sạo từng ngóc ngách phía trước, trông chừng phía sau, lắng nghe từng bước chân xa nhất vọng lại.
Nhưng họ là những người duy nhất trên đường. Những người dân Colby đều đã ở trong nhà, có lẽ họ đang nhấm nháp từng ngụm Jeniver bên cạnh bếp lò rít. Họ không nhìn thấy người nào cho đến khi đến được bến tàu, người đầu tiên họ nhìn thấy là Tony Costa, anh đang đứng cạnh cửa.
“Ơn Chúa, mọi người đã đến”. Anh khẽ nói, để họ đi qua. “Chúng tôi vừa nghe tin Jack Verhoeven đã bị bắn và thuyền của ông ấy bị đắm. Không ai biết tin ông đang ở đâu. John Faa đã lên tàu và nóng lòng muốn khởi hành.”
Với Lyra chiếc tàu thật vĩ đại: một phòng lái và ống khói ở giữa tàu, một boong lớn ở đuôi tàu, một cần trục to phía trên cửa sập che vải bạt; ô cửa sổ có ánh đèn vàng và chiếc cầu, ánh đèn màu trắng ở đầu cột buồm; ba hay bốn người đàn ông đang đứng trên boong, hối hả làm một việc gì đấy mà cô nhìn không rõ.
Cô vội vã đi lên cầu tàu phía trước Farder Coram và nhìn quanh một cách thích thú. Pantalaimon biến thành một con khỉ và ngay lập tức trèo ngay lên cần trục, nhưng cô gọi nó xuống ngay. Farder Coram muốn họ ở bên trong, hoặc bên dưới, những phòng dùng cho một con tàu lớn.
Xuống dưới mấy bậc cầu thang có một phòng khách nhỏ nơi John Faa đang rì rầm bàn bạc cùng Nicholas Rokeby, người đàn ông Digan chịu trách nhiệm về con tàu. John Faa không làm việc gì vội vàng. Lyra đang đợi ông đón chào cô, nhưng ông kết thúc những nhận xét về thủy triều và hoa tiêu trước khi quay sang những người mới đến.
“Xin chào, các bạn của tôi.” Ông nói. “Jack Verhoeven đáng thương đã qua đời, chắc các bạn đã nghe nói. Còn con trai anh ấy thị bị bắt.”
“Chúng tôi cũng có tin xấu đây.” Farder Coram nói, và kể về cuộc chạm trán của họ với những sinh vật do thám biết bay.
John Faa lắc chiếc đầu lớn của mình, nhưng không trách cứ gì họ.
“Giờ thì sinh vật đó ở đâu?” Ông hỏi.
Farder Coram mang chiếc hộp thiếc ra và đặt trên bàn. Tiếng vù vù điên loạn phát ra từ chiếc hộp vang ra khắp phòng.
“Tôi đã nghe nói về con quỷ bị chi phối bởi thứ đồng hồ lên dây cót này, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy.” John Faa nói. “Không có cách nào để thuần phục nó và trả nó trở về, tôi không biết nhiều lắm về chuyện này. Cũng như tôi không biết liệu có tác dụng gì không khi bọc chì nó rồi thả xuống biển, vì một ngày nào đó nó có thể thoát ra, con quỷ sẽ đến tìm cô bé dù nó đang ở đâu. Không, chúng ta phải giữ nó bên mình, và canh phòng cẩn mật.”
Lyra là người phụ nữ duy nhất trong boong (vì John Faa đã quyết định không cho phụ nữ đi theo, sau khi đã cân nhắc rất lâu), cô có một cabin riêng. Không phải là một cabin rộng, chắc chắn là như vậy, thực ra nó chỉ vừa đủ kê một chiếc giường và có một lỗ thông hơi, tên đó phù hợp hơn là một ô cửa sổ. Cô xếp mấy thứ đồ mang theo vào ngăn kéo bên dưới giường, hào hứng chạy lên trên để được đứng dựa vào thành tàu và nhìn nước Anh biến mất phía sau lưng. Ngay sau đó cô nhận ra cả nước Anh biến mất trong sương mù trước khi lên được bên trên.
Nhưng bản thân tiếng nước vỗ dưới chân tàu, sự chuyển động của không khí, ánh sáng phát ra từ cửa sổ con tàu lấp lánh hùng dũng trong bóng đêm, tiếng gầm của động cơ, mùi muối, mùi cá và mùi than đã có sức cuốn hút riêng của chúng rồi. Không lâu sau, một sự hấp dẫn nữa xuất hiện, đó là khi con tàu bắt đầu tiến vào Biển German. Rồi ai đó gọi Lyra xuống ăn tối. Cô nhận thấy không đói như mình vẫn tưởng và quyết định sẽ là một ý kiến hay nếu đi nằm, vì Pantalaimon, con nhân tinh đáng thương của cô cảm thấy rất mệt mỏi.
Vậy là cuộc hành trình lên phương Bắc của cô bắt đầu.
Chiếc La Bàn Vàng Chiếc La Bàn Vàng - Philip Pullman Chiếc La Bàn Vàng