A mere friend will agree with you but a real friend will argue."

Russian Proverb

 
 
 
 
 
Tác giả: John Dickson Carr
Thể loại: Trinh Thám
Dịch giả: Lệ Thanh
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 378 / 33
Cập nhật: 2020-07-09 16:12:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 10
ọ lặng lẽ bước xuống lối đi uốn khúc dưới những đại thụ đen đúa. Mark cùng đi với Henderson để tiếp tay lấy tấm bạt phủ sân quần vợt, đậy lên hầm mộ. Stevens thầm hỏi Partington đang nghĩ gì trong đầu. Chàng tấn công ngay:
- Ngoài chuyện mà anh đã nói với họ, thì anh nghĩ sao về vụ cái chai thuốc bị mất rồi xuất hiện trở lại?
- Ừ nhỉ! Partỉngton thốt lên, như choàng tỉnh khỏi giấc mơ. Quả thật, anh biết, tôi muốn làm sáng tỏ vấn đề. Tuy vậy, cho đến khi gặp cô y tá, chúng ta chưa thể biết chai thuốc đó thuộc dạng nước hay viên. Và, đây là điểm quan trọng nhất. Chúng ta phải xét đến hai giả thuyết: thứ nhất, đây là thứ thuốc trợ tim, mã tiền hoặc digitalin. Nếu quả đúng, thì thú thật với anh đây là chuyện nghiêm trọng, bởi như thế có nghĩa là kẻ đầu độc - nếu đây là một vụ mưu sát - chưa chấm dứt tội ác của y.
- Vâng, Stevens nói. Tôi cũng nghĩ như thế.
- Nhưng, Partington nói ngay, giọng khô khốc, chuyện đó khó lòng xảy ra. Nếu một thứ độc dược đó mà bị đánh cắp, ông bác sĩ sẽ ra lệnh kiếm ngay cho bằng được. Vậy mà, cả ông ta lẫn cô y tá đều không tỏ ra quá lo lắng, ngoại trừ chỉ cằn nhằn đôi chút. Anh nghe kịp chứ? Với lập luận này, người ta có thể khẳng định rằng đây chẳng phải là một chất độc gây đau đớn, như chất antimon chẳng hạn, nếu không, tôi cam đoan với anh, ông bác sĩ sẽ không chứng nhận rằng bác Miles qua đời một cách tự nhiên.
- Vậy thì, giả thuyết thứ nhì có vẻ hợp lý hơn và đây là giả thuyết của Mark, cho rằng một viên mócphin bị lấy cắp.
- Bác Miles lấy à?
Partington cau mày. Chính điểm này làm ông bối rối hơn hết.
- Vâng, có thể lắm và đây là lối giải thích đơn giản nhất... và chúng ta thì tìm kiếm những lối giải thích đơn giản, có phải thế không nào? Partington nhận xét và dưới ánh sao đêm, khuôn mặt ông trông có vẻ kỳ bí. Dẫu sao, có một vài chi tiết đối nghịch với giả thuyết này. Đáng chú ý là cái chuyện chai thuốc xuất hiện trở lại. Chúng ta biết rằng phòng của bác Miles ăn thông với phòng y tá và có thể cô y tá không khóa cánh cửa này như cửa ngoài hành lang. Vì thế, khi nghĩ rằng bác Miles lấy cắp chai thuốc và kiếm cách trả nó lại, tại sao ông lại không bỏ nó trong phòng y tá, thay vì phải để nó trên cái bàn con ngoài hành lang?
- Câu trả lời cũng dễ thôi, Stevens nói. Bởi vì cô y tá sẽ biết ngay rằng chính ông ta lấy, vì ông là người duy nhất có thể vào căn phòng đó.
Partington dừng lại và rủa thầm:
- Đúng thế, tôi lẩn thẩn mất! ông nói, quả đúng là anh có lý. Dẫu sao, tôi tự hỏi có thể nào cô y tá cũng khóa luôn cánh cửa nối liền hai phòng, bởi cô cũng có lý do nghi ngờ con bệnh của cô chứ.
- Nếu thế thì chúng ta sẽ đi đến đâu?
- Đến căn nguyên! Partington lì lợm nói tiếp. Vì lý do nào mà mócphin bị đánh cắp, bởi cố Miles hay ai khác. Nếu là cố Miles thì chúng ta tất rõ nguyên do. Còn nếu là kẻ khác thì sao? Hắn ta sử dụng để làm gì?
- Chẳng lẽ để gây ra một vụ án khác! Hẳn có thể chỉ mất vài ba viên thôi, nếu không ông bác sĩ và cô y tá sẽ làm ầm lên. Dẫu sao, mỗi viên chỉ chứa khoảng một phần tư hạt, và phải cần từ hai đến ba hạt mới có thể gây tử vong, còn muốn chắc ăn thì phải lên tới bốn hạt. Chúng ta có thể bác bỏ giả thuyết cho rằng trong nhà này có người nghiện mócphin, bởi vì nếu đúng thế, thì chai thuốc sẽ không xuất hiện trở lại. Phải chăng có kẻ bị chứng mất ngủ? Có thể lắm, nhưng nếu thế, sao họ lại dùng một thứ thuốc quá mạnh trong khi có những viên thuốc ngủ trong phòng tắm? Thế thì, trong trường hợp này người ta không cần phải đánh cắp mócphin một cách bí ẩn như thế. Vì lẽ không một giả thuyết nào kể trên có thể đứng vững, thì với lý do nào người ta đánh cắp mócphin?
- Moc... phin...?
- Này, bạn thử nghĩ xem, nếu bạn cần phải làm một việc gì đó trong đêm và bạn ngại người khác biết được công việc của bạn? Nếu bạn cho người đó uống một phần tư hạt mócphin, bạn sẽ chẳng còn lo sợ bị quấy rầy nữa, có phải thế không?
Một lần nữa, Partington dừng lại, nhìn chăm chăm vào Stevens. Và Stevens bỗng lo ngại về những điều mà chàng có cảm tưởng như sắp xảy đến, bởi vì chàng chợt nhớ tới cái đêm cố Miles Despard từ trần, đêm mà chàng và Marie về ngôi nhà miền quê cách đây khoảng một phần tư dặm, cái đêm mà chàng rũ rượi buồn ngủ khi mới mười giờ rưỡi...
Nhưng Partington nói thật đơn giản:
- Bạn biết không, tôi chỉ chú tâm đến vấn đề quan trọng nhứt: vụ khai quật hầm mộ và cái xác bị biến mất. Nếu vợ chồng lão Henderson bị ngấm mócphin, thử nghĩ họ có thể nghe thấy gì không?
- Nhưng, trời ơi, thế thì đúng quá! Stevens nhẹ nhõm thốt lên. Mặc dầu vậy..., chàng ngập ngừng nói tiếp. - Bạn muốn nói rằng những người khác ở trong nhà sẽ nghe tiếng động chứ gì? Và cả lời thề thốt của Henderson rằng không ai đụng đến lối vào hầm mộ? Cứ xem như thế đi, tôi muốn tin vào sự thành thật của lão ta. Nhưng nếu thật sự là chúng ta gây ra nhiều tiếng động và hư hại, thì bạn hãy nhớ rằng chúng ta sử dụng đòn bẩy và búa của thợ rừng. Thế thì, bạn còn nhớ những phiến đá lót ở dưới đấy chứ? Đó là những phiến đá với nhiều dạng khác nhau, được kết cấu lại bởi lớp hồ vữa ở những hố cách ngăn, tựa như một trò chơi lắp ráp. Không hề có xi măng ở phía dưới những phiến đá này. Bởi vậy, phải chăng người ta chỉ đơn giản đục bỏ lớp hồ vữa quanh những phiến đá và nhấc chúng lên như một nắp đậy, cũng như người ta làm với phiến đã chận lối vào hầm mộ? Bằng cách này, người ta chỉ còn việc tô lại xi măng quanh những mép rìa, và Henderson chẳng thể hay biết gì. Lớp cát và sỏi bị đào xới cũng có thể để lại dấu vết... nhưng đừng quên rằng nó bị xáo trộn từ buổi mai táng và người ta có thể nhầm lẫn.
Y hệt như Partington, Stevens cũng muốn nghĩ rằng có sự nhầm lẫn như thế, nhưng ngoài ra chàng cũng còn một bận tâm khác có tính cá biệt hơn, và chàng không tài nào suy nghĩ một cách mạch lạc.
Họ ra đến hàng rào của khuôn viên. Dưới ánh sáng của dãy đèn đường, đại lộ King lấp lánh như một dòng sông âm u.
- Tôi quá nhiều lời, xin anh thứ lỗi cho, Partington nói, nhưng ở vị thế như chúng ta đây, chúng ta cần phải tin vào một điều gì đó. Edith cho rằng tôi là một người duy vật, và tôi không lấy thế làm hổ thẹn. Nàng vẫn nghĩ sở dĩ tôi đã nhúng tay vào vụ phá thai ngày ấy, là vì cô gái này là nhân viên của tôi và chính tôi là tác giả của cái bầu của cô ta. Vậy kẻ nào là người tỏ ra duy vật, bạn có thể trả lời cho tôi?
Trước khi rời ngôi nhà, Partington đã uống thêm một ly rượu và hình như ly sau cùng này khiến ông ta thổ lộ nhiều điều.
- Về chuyện hầm mộ, bạn có thể tin được rằng tôi tìm thấy lời giải thích xác đáng. Trừ phi, nếu có những mưu mô của phía nhà đòn.
- Phía nhà đòn? Anh muốn nói J. Atkinson?
Chàng thấy vị bác sĩ nhướng cặp lông mày:
- Lão Jonah chứ gì? Vâng, tôi nghĩ rằng anh nên biết lão ấy. À, nhân vật này chẳng tầm thường đâu! Lão chôn cất nhiều thế hệ Despard và bây giờ thì lão quá lớn tuổi. Chính vì lão Atkinson đích thân đứng ra lo việc mai táng nên ông bạn Henderson của chúng ta tin chắc rằng không hề có chuyện lật lọng trong đám phu nhà đòn. Hồi chiều, khi trên đường về đây, Mark chỉ cho tôi xem cửa hàng phục vụ mai táng này. Anh ta bảo con trai của lão Jonah thay thế bố, đảm đương một phần công việc. Dạo trước, lão Jonah và cha của Mark thường lui tới với nhau, và ông này, trong những lúc đùa cợt, thường hỏi rằng lão vẫn còn ngồi trong “phòng trà” hay “xó kẹt” của lão không. Tôi không hiểu họ muốn nói với nhau về chuyện gì. Cũng có thể...! ngủ ngon nhé!
Stevens biết chắc rằng ông bạn của chàng không còn tỉnh táo nữa, chàng chúc ông ngủ ngon và vội vã bỏ đi. Nhưng chàng cũng thích được cô đơn và chàng chậm bước khi nghe tiếng chân của Partington leo trở lại con dốc.
Chàng cảm thấy tinh thần bấn loạn và lưỡng lự, không biết phải xử sự như thế nào. Chàng ao ước có ai đó ở bên cạnh chàng để nêu lên cho chàng những câu hỏi chính xác, hầu giúp chàng có thể ổn định lại đầu óc. Chẳng hạn như: theo bạn thì Marie có điều gì bất thường không? Nhưng, như thế nghĩa là sao? Đó chính là điểm mà Stevens cảm thấy kinh tởm, một sự kinh tởm gần như trong thể xác, tựa như người ta lùi bước trước lửa, một cách tự nhiên, và đầu óc của chàng khép kín lại. Chàng không thể trả lời những câu hỏi bởi vì chàng khước từ bày tỏ vấn đề. Đó là những vấn đề kỳ dị. Và, nào có gì đâu để mà bày tỏ? Tất cả đều tập trung trong một bức ảnh, những cái tên trùng hợp... và đồng thời là trường hợp bức ảnh biến mất. Nhưng chỉ có thế thôi.
Stevens dừng lại ở phía ngôi nhà miền quê của mình. Không thấy một ánh sáng nào ngoài một đốm đỏ ối lọt qua khung cửa sổ của phòng sinh hoạt. Hẳn Marie nhóm lò sưởi. Và đây là điều kỳ lạ, bởi bình thường nàng rất sợ lửa.
Điều này tạo nên cho Stevens một cảm giác lo ngại.
Cổng bên ngoài chỉ cài then. Chàng đẩy cửa và bước vào hành lang được soi sáng lờ mờ bởi ngọn lửa bên trong lò sưởi của phòng sinh hoạt, phía tay trái. Chẳng một tiếng động nào ngoài tiếng tí tách của củi và lửa. Củi hẳn còn tươi.
- Marie! chàng gọi.
Chẳng ai trả lời. Với một cảm giác bất an, Stevens bước vào phòng sinh hoạt. Thôi, đúng rồi, lửa được nhóm thêm bằng củi còn tươi. Ngọn lửa như chết ngộp dưới một làn khói nhầy nhụa và vàng úa, chỉ còn lại một vài ngọn lè tè, chao đảo. Có tiếng củi thoát hơi và nổ tí tách. Trong cái ánh sáng ám khói này, căn phòng có vẻ như khác hẳn, nhưng Stevens vẫn còn trông thấy khá rõ để có thể nhận ra chiếc ghế đẩu cạnh lò sưởi và trên đó là một đĩa săng uých, một phích nước sôi và một cái tách.
- Marie!
Khi chàng quay trở ra hành lang, chàng có cảm tưởng như bước chân của mình trở nên nặng nề hơn và làm khua động lớp ván sàn. Chàng đến bên chiếc bàn con, nơi đặt máy điện thoại và bàn tay chàng tự động đặt lên trên cái cặp da vẫn còn ở đó. Chàng thấy chiếc cặp bị mở và tập bản thảo nằm ở lưng chừng, như thể bị vội vã rút ra rồi trả lại.
- Marie!
Cầu thang rên rỉ dưới bước chân của chàng. Ngọn đèn ngủ vẫn còn thắp sáng ở trong căn phòng của họ, phía sau nhà, nhưng căn phòng thì trống trơn và giường ngủ vẫn còn ngăn nắp. Trên lò sưởi, chiếc đồng hồ treo tường nho nhỏ tíc tắc gõ nhịp. Bây giờ là ba giờ năm phút.
Chính lúc này, Stevens trông thấy bức thư đặt trên bàn giấy của chàng.
Ted thương mến, bức thư viết.
Đêm nay em phải vắng nhà. Sự bình yên của tâm trí chúng ta tùy thuộc vào điều này.
Em sẽ trở về vào ngày mai và em van anh chớ có phiền muộn, nhưng em không tài nào giải thích cho anh hiểu được. Dẫu anh nghĩ thế nào. Đó không phải là điều anh nghĩ.
Em yêu anh.
Marie.
T.B. Em lấy xe đi. Em chuẩn bị sănguýt và cà phê ở trong phích cho anh. Anh sẽ tìm thấy ở trong phòng sinh hoạt. Sáng mai, Ellen đến lo buổi điểm tâm cho anh.
Chàng gấp lá thư lại và để nó trên bàn giấy. Bỗng nhiên, chàng cảm thấy mệt lả. Chàng ngồi xuống mép giường. Rồi chàng đứng dậy và bỏ xuống nhà, thắp sáng mọi đèn.
Khi xem chiếc cặp, chàng phát hiện điều mà chàng vẫn chờ đợi. Tập bản thảo của Cross gồm có mười hai chương, giờ đây chỉ còn lại mười một.
Chương viết về Marie d'Aubrey, bị lên đoạn đầu đài vì can tội sát nhân, đã biến mất.
Căn Phòng Rực Lửa Căn Phòng Rực Lửa - John Dickson Carr Căn Phòng Rực Lửa