Số lần đọc/download: 0 / 21
Cập nhật: 2020-11-02 22:25:23 +0700
Chương 9
Ngựa và bò - một lần tôi đọc thấy bài nói về hai con vật ấy trong cuốn sách tên là gì và tác giả là ai tôi không nhớ, - Ngựa và bò… Nhưng có thể khoan nói đến bò vội, tôi chỉ trích đoạn nói về ngựa, như sau:
“Ngựa là giống không biết rằng nó sẽ chết cho nên không biết tới phép siêu hình. Nhưng nếu con ngựa biết rằng nó sẽ phải chết, thì vấn đề cái chết đối với nó sẽ quan trọng hơn vấn đề cái sống rất nhiều.
Kiếm cỏ khô cũng như tươi tất nhiên là công việc cực kỳ quan trọng. Nhưng tiếp theo đó còn nảy ra vấn đề khác: sau khi vất vả vài ba chục năm để có được cỏ ăn liên tục, tại sao lại cứ nhất thiết phải chết, và như vậy thì sống để làm gì?
Con ngựa không biết rằng nó sẽ phải chết cho nên không băn khoăn gì những chuyện ấy. Nhưng con người ta - theo định nghĩa của Sôpenhaoơ[15] - là một động vật siêu hình (nghĩa là con vật biết trước rằng mình sẽ phải chết), thì câu hỏi kia được đặt ra một cách day dứt”.
Qua những lời trên, nếu tôi không lầm, ta phải rút ra kết luận rằng tất cả mọi người đúng ra đều phải ghen với loài ngựa. Nhất là những động vật siêu hình kiểu như tôi, nghĩa là đang đau ốm, biết rằng trước chẳng còn bao lâu nữa mình sẽ chết đã đành, nhưng biết cả những gì sẽ xảy ra sau khi mình chết, vậy mà không có cả đến cái quyền được phẫn nộ.
Đã là cặn thì có bao giờ lại trong suốt. Càng gần đến ngày chết, sinh lực trong thân thể tôi càng cạn dần và trở nên chua. Thế là tôi muốn tuôn ra giấy cho nhẹ đi nỗi chua xót, để kiếm chút thú vị sau này (nỗi thú vị mà tôi sẽ không được hưởng): Tôi muốn vợ tôi sau khi tôi chết, đọc những dòng chữ này và hiểu rằng tôi đã nhìn thấy trước mọi thứ.
Ý nghĩ này nảy sinh trong óc tôi vào sáng hôm nay. Nó nảy sinh bởi vì vợ tôi bắt quả tang tôi đang đứng ngoài hành lang, cúi người nhòm qua lỗ khoá vào phòng riêng của cô ta.
- Tưởng anh không có máu ghen kia mà. - cô ta hét lên với tôi, - sao anh lại làm như thế? Lại bỏ cả giày ra để không có tiếng động nữa kìa.
Tôi ngó xuống chân. Đúng là tôi đi chân đất thật! Vừa lúc ấy vợ tôi cười phá lên. Tôi biết trả lời thế nào đây? Tôi đành lúng búng vài câu thanh minh ngu xuẩn nhất. Đại khái là tôi không định nhòm trộm, tôi làm thế chỉ thuần tuý do tò mò. Bởi vì tôi không nghe thấy tiếng đàn pianô nữa, và cũng không nhìn thấy ông thầy dạy nhạc về, thế là tôi… Nhưng tôi thề rằng giày thì tôi cởi trước đây khá lâu, không phải để rình mò. Chỉ đơn giản là lúc nãy tôi thấy đau chân. Cô ta, nàng Ophêmia yêu quý của tôi, người vừa phát hiện là tôi đi chân đất, đúng ra phải hiểu được tại sao tôi lại đau chân, và đừng có cười chuyện ấy, ít nhất cũng đừng cười ngay trước mặt tôi. Chân tôi thỉnh thoảng bị phù, và vì rỗi rãi tôi tẩn mẩn sờ vào đó, ấn ngón tay mạnh xuống, rồi chờ một lúc cho chỗ lõm dần dần đầy lại.
Nhưng như thế hoàn toàn không có nghĩa là tôi đã phạm một điều ngu xuẩn không thể tha thứ được.
Bởi vì tôi vẫn biết, và hiện giờ cũng biết rằng vợ tôi không ưa tý gì cái lão ấy - tức là ông thầy dạy nhạc cho vợ tôi. Hơn nữa, tôi tin chắc, tin hoàn toàn rằng trong khi tôi còn sống, vợ tôi chưa phản bội tôi. Ngần ấy năm trời cô ta không phản bội tôi, vậy tại sao trong có một thời gian ngắn vài tháng, thì cứ cho là bốn tháng, sáu tháng đi nữa, cô ta lại phản bội kia chứ? Mà không, tôi tin chắc rằng vợ tôi đủ kiên nhẫn chờ đợi, cho dù tôi kéo dài thêm một năm nữa mới chết.
Rồi lại còn vì tôi biết rất rõ anh ta, anh chồng (tương lai) của vợ tôi. Và tôi dám đem cái đầu tôi ra đánh cuộc rằng anh ta sẽ không làm gì khiến tôi phải phiền lòng, trong khi tôi vẫn còn ngắc ngoải.
Anh ta chính là bạn thân của tôi. Một chàng trai tuyệt diệu.
Thật ra anh ta cũng không trẻ trung gì lắm. Bốn chục tuổi, nghĩa là suýt soát tuổi tôi. Chỉ có điều trông tôi già khọm như đã một trăm tuổi, còn anh ta thì vạm vỡ, đi đứng trong cuộc đời vững chãi giống như một cây sến trong khu rừng vậy. Ngoài ra anh ta lại còn được trời phú cho, nói theo như các cụ già, đủ thứ phẩm hạnh khiến người đàn ông trở thành kiểu mẫu: “Cử chỉ thanh lịch, tính tình rộng rãi và cao thượng”.
Bộc lộ rõ nhất là trong thái độ anh ta chăm sóc tôi.
Chẳng hạn, hầu như sáng nào cũng thế, anh ta đi xe ngựa đến đón tôi để tôi thở hít khí trời bên ngoài. Anh ta xốc nách tôi, dìu tôi đi chầm chậm xuống thang gác, đến mỗi chỗ ngoặt lại bắt tôi phải nghỉ để thở. Anh ta đếm đến một trăm rồi sờ mạch tôi xem có chạy quá nhanh hay không, rồi nhìn vào măt tôi, anh dịu dàng hỏi:
- Đi tiếp chứ?
- Đi tiếp.
Và cứ từ tốn như thế cho đến tận tầng dưới cùng. Dạo chơi xong anh đặt tôi vào chiếc ghế bành, rồi đích thân đứng một bên, bên kia là bác gác cổng toà nhà, hai người khiêng tôi lên gác.
Tôi cố phản đối nhưng không nổi. Thật ra tôi cũng không thể leo một mạch bảy tầng liền mà không thở hồng hộc. Nhưng tôi không muốn để bạn tôi phải vất vả phục dịch tôi như thế. Tôi muốn bác gác cổng kiếm thêm một người nào khác làm cái công việc ấy… Nhưng không được, bởi vì nếu như Phlorextanô đủ sức khoẻ thì anh ta sẵn sàng một mình vác tôi lên, không cần nhờ ai giúp. Thôi cũng được, bởi vì tôi cũng chẳng nặng nề gì (chỉ khoảng bốn mươi lăm kilô kể cả quần áo) với lại tôi thầm nghĩ, anh ta muốn lập công với tôi như vậy để sau này hưởng hạnh phúc với vợ tôi khỏi phải áy náy. Cứ để anh ta vất vả một chút cũng không sao?
Mặt khác, ngay cả vợ tôi, cô Ophêmia cũng thích thú được vất vả vì tôi. Thậm chí cô ta còn muốn vất vả, khổ sở vì tôi nhiều hơn nữa để sau này có hưởng sung sướng lương tâm cô cũng không phải day dứt. Cái quyền được hưởng một cách hợp pháp, sự đền công một cách hợp pháp khiến cả cuộc đời cả lương tâm đều không thể từ chối cô, và bản thân tôi cũng không lý gì hờn giận.
Tuy nhiên cũng phải thú thật rằng có những giây phút tôi thèm nhìn thấy họ lộ nguyên hình là những kẻ khốn nạn. Những ý nghĩ cao thượng, những tình cảm tinh tế của họ nhiều lúc tôi cảm thấy chỉ là những trò nhân tâm vô cùng. Bởi vì tôi không có khả năng phản ứng quyết liệt đối với những gì sẽ xảy ra sau khi tôi chết, điều ấy đã rõ ràng, cho nên tôi luôn cảm thấy có bổn phận phải gọi thằng con trai độc nhất của tôi đến đặt nó đứng giữa hai đầu gối của tôi, để căn dặn nó phải yêu mến và kính trọng theo tư cách đứa con đối với người chẳng bao lâu sẽ trở thành bố thứ hai của nó, để nó không bao giờ được làm điều gì khiến Phlorextanô phải phiền lòng. Tôi bảo con trai tôi:
- Cáclusô yêu quý. Hai bàn tay của con bẩn rồi kìa. Hôm qua bác Phlorextanô đã nói với con như thế nào lúc bác nhìn thấy mũi con giây mực? Bác ấy đã bảo rằng: “Chùi sạch cái mũi bẩn đi, Cáclusô, kẻo bác bỏ cháu vào tù bây giờ. Tất nhiên bác Phlorextanô nói đùa thế thôi. Thời bây giờ không ai bỏ tù kẻ khác chỉ vì bàn tay hắn bẩn. Nhưng con vẫn cứ phải đi rửa tay” bởi vì bác Phlorextanô yêu những đứa trẻ sạch sẽ. Bác ấy tốt bụng và rất yêu con, Cáclusô ạ, và con cũng phải rất yêu bác ấy. Và phải nhớ vâng lời bác, để bác luôn luôn hài lòng về con. Con hiểu chứ, con yêu của bố?
Rồi tôi ca ngợi tất cả những quà cáp đồ chơi mà anh bạn đem đến cho thằng con trai tôi để lấy lòng Ophêmia. Thằng con tội nghiệp của tôi theo đúng lời tôi khuyên bảo và đã tỏ ra quấn quýt Phlorextanô. Chẳng hạn, cách đây ít ngày anh bạn tôi đưa thằng bé đi chơi phố, đến khi về nhà, anh ta vui vẻ kể với tôi rằng, trong lúc hai bác cháu đi ngang qua bãi rộng dưới trời nắng, con trai tôi đột nhiên đứng dừng lại, thét lên rồi buồn bã hỏi anh ta:
- Cháu làm bác đau lắm phải không, thưa bác Phlorextanô?
- Không, Cáclusô ạ. Nhưng tại sao cháu lại hỏi bác như thế?
Con trai tôi đã ngây thơ đáp:
- Tại cháu vô ý giẫm lên bóng của bác.
Ôi, nhưng đến như thế thì quá, con trai tội nghiệp của tôi ơi! Con đúng là chẳng hiểu gì hết. Giẫm vào bóng thì có sao đâu. Bác Phlorextanô và mẹ của con đến một ngày nào đó sẽ giẫm chân lên bóng của bố con đấy, mà họ đều tin chắc rằng bố con không đau đớn chút nào, bởi vì khi bố còn sống, họ đã cố giữ để không giẫm lên, ít nhất thì cũng là giẫm lên bàn chân của bố.
Giữa ba chúng tôi diễn ra một cuộc thi xem kẻ nào lịch sự hơn! Nhưng trong khi ấy thì một nỗi khổ tâm tự nguyện cũng lớn lao không kém. Tôi là kẻ ốm đau thảm hại, tôi rất thèm được buông thả theo dòng, nhưng tôi lại buộc phải giữ nghị lực, cố không làm điều gì khiến vợ tôi và bạn tôi phải phiền lòng, nếu không thì họ sẽ lại tăng thêm sự ân cần săn sóc tôi. Đôi khi sự săn sóc quá đáng ấy khiến tôi ghê tởm, thậm chí sợ hãi nữa. Có thể là tôi nghĩ sai. Nhưng nhìn thấy vẻ lịch sự, chiêu đãi ân cần trong khi tôi sắp chết khiến nhiều khi tôi cảm thấy như mình đang xem một vở hài kịch tởm lởm. Tôi thấy rõ hai người ấy đeo găng tay mầu vàng, vừa khúm núm lễ phép quá đáng vừa đẩy tôi đến cửa địa ngục. Và tôi cảm thấy như họ cúi rất thấp chào tôi và mỉm hai nụ cười rất tươi rồi bảo:
- Anh bước qua cái cửa ấy đi. Chúc anh mọi điều như ý! Và xin anh hãy tin rằng chúng tôi không bao giờ quên anh, một con người tốt bụng, biết điều và đúng đắn vô cùng!
Hai người ấy luôn luôn nói với tôi rằng phải thành thật. Thành thật ư? Nhưng đối với tôi lúc này thành thật chỉ có một nghĩa, đó là giết. Mong Chúa tha cho tôi cái ý nghĩ ấy! Cái gì đã giữ tay tôi lại?
Ta thử bàn bạc nghiêm túc xem. Nếu tôi không phải tín đồ, nếu tôi không tin Chúa một cách thật sự và tôi tin rằng chết là hết, kể cả linh hồn cũng không tan biến, rằng sau đấy không còn gì nữa, thì các vị nghĩ rằng tôi sẽ không giết Phlorextanô chăn?
Vào những đêm khó ngủ, tôi tưởng tượng cảnh hắn ta nằm vào giường của tôi, chiếm chỗ của tôi, hưởng tất cả những quyền của tôi đối với vợ cũng như đồ đạc. Tôi nghĩ đến chuyện ở phòng bên cạnh, con tôi đang ngủ bỗng thét lên, khóc nức nở gọi mẹ, nhưng hắn ta rất có thể sẽ bảo với vợ tôi, nếu như vợ tôi định nhỏm dậy để sang với con xem thử có chuyện gì: “Mặc cho nó khóc, em yêu quý, đừng dậy làm gì, rất có thể em bị cảm lạnh mất!”. Nhưng khi nghĩ đến chuyện ấy, xin thề với quý vị, tôi muốn giết Phlorextanô ngay lập tức.
Thế nhưng tôi không làm gì hết. Đêm nào tôi cũng chỉ ngồi lặng lẽ bên cửa sổ, nhìn ra bầu trời rất lâu. Có một ngôi sao nhỏ lấp lánh mà tôi nhìn mãi không chán, và tôi thường nói với ngôi sao ấy:
- Hãy chờ tôi và tôi sẽ đến.
Còn với Ophêmia, vốn bố cô là người theo tư tưởng tự do, cô thường tự hào là không tin Chúa. Với cô., tôi luôn bảo:
- Em ngốc lắm, hãy tin ở Chúa. Và hãy biết ơn, hãy tạ ơn Chúa.
Ophêmia nhìn tôi, hình như cô ta sửng sốt thấy tôi, Luca Lêusi mà lại có thể thốt ra những lời lẽ như thế. Bởi vì cô cho rằng tôi làm sao có thể tin ở Chúa được, khi Chúa đối xử với tôi tàn nhẫn đến như vậy: bắt tôi phải chết trẻ. Nhưng nếu cô ta thật sự yêu Phlorextanô, thì khi được đọc những dòng này cô sẽ phải cảm tạ Chúa.
Tôi hiểu rất rõ rằng, tôi sẽ phải chết càng sớm càng tốt. Đôi lúc tôi bắt gặp Phlorextanô đưa mắt nhìn vợ tôi và thở dài. Những lúc ấy tôi thấy rõ hắn ta đang sốt ruột đến độ nào. Và tôi tưởng tượng đến lúc vợ tôi, mệt mỏi ngả cái đầu có mái tóc vàng xinh đẹp lên bộ ngực vạm vỡ của thằng cha, dịu dàng vuốt ve hàng ria mép oai vệ của hắn, rồi dùng hai ngón tay khẽ vạch thành hai chòm ria mầu hung khá dài ấy!... Ôi, sao mà hạnh phúc đến thế! Chịu khó đợi ít lâu nữa, Ophêmia! Và khi ấy những lời lẽ mà đêm khuya cô thì thầm vào tai tôi lúc ôm tôi, cô sẽ lặp lại với hắn, mà không nhận ra rằng cô đang lặp lại những câu đã từng nói với tôi:
- Niềm vui sướng của em… Anh thân yêu của em…, đúng thế! Ôi, anh thân yêu!...
Tôi bắt đầu cười vang, cười không sao ghìm lại được. Thế là cả hắn, cả vợ tôi đều ngạc nhiên hỏi, tôi cười chuyện gì. Tôi lảng bằng một câu đùa, thế là thằng cha Phlorextanô nhận xét:
- Lêusi thân mến ạ, có đến già cậu vẫn không bỏ được cái thói bỡn cợt kiểu như hề ấy.
Nhưng thường tôi không đạt được việc làm trò hề như hắn ta nói. Trái với ý muốn, những lời đùa bỡn của tôi đâm ra thành chua chát, và những khi đó, ngồi bên cạnh tôi trong xe ngựa, Phlorextanô khó chịu. Tôi bảo hắn ta:
- Phlorextanô ạ, mình sẽ đề nghị cậu đứng vào địa vị mình nếu như cái địa vị ấy không đến nỗi tệ như thế này. Mình tin chắc rằng nếu cậu ở địa vị mình, cậu sẽ thấy một cảm giác kỳ lạ, khi cậu tin rằng cậu sống chẳng được bao lâu nữa và cậu hình dung đến khi cậu chết mọi người sẽ cư xử ra sao?
Tôi giải thích rất rõ ràng, nhưng Phlorextanô làm bộ như không hiểu gì hết. Tôi vẫn tiếp tục:
- Phlorextanô ạ, chẳng hạn mình biết rất rõ rằng, khi người ta chôn mình, cậu sẽ đặt lên mộ mình thứ hoa nào bằng sứ!
Phlorextanô lên tiếng phản đối và thế là tôi không nói nữa. Tôi ngồi yên lặng, gầy gò, xanh xao và buồn bã, trong cỗ xe ngựa chạy chầm chậm trên con đường rộng thênh thang ở Gianicôlô, nhìn ra quang cảnh thanh bình lúc mặt trời đang lặn. Phải chăng chuyện những kẻ khác sẽ hưởng cuộc đời ra sao thì có gì quan trọng đối với tôi? Anh chàng vạm vỡ vai rộng ngồi cạnh tôi đang thở dài. Vợ tôi ngồi ở nhà cũng đang thở dài. Lại đến đứa con trai của tôi (sau khi tôi chết), chẳng mấy lúc sẽ quên hoàn toàn mặt mũi tôi.
- Bố ơi…
Khi đó Phlorextanô sẽ quay mặt lại, lo ngại hỏi nó:
- Con làm sao thế? Cáclusô ạ, chồng của mẹ con đâu phải là bố thật của con. Con có hiểu không?
Nhưng, dù thế nào đi nữa, Cáclusô, cuộc sống vẫn đẹp vô cùng… vẫn đầy đặn nữa.