Nếu bạn không thể phạm sai lầm, bạn sẽ không thể làm được điều gì.

Marva Collins

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Vu Duy
Upload bìa: Vu Duy
Số chương: 10
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 48
Cập nhật: 2020-12-23 17:01:13 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 9 - Truyện Thứ Tám - Kỳ Tài Gián Điệp Do Thái
ừ sau thế chiến thứ 2, kỹ thuật gián điệp đã biến đổi toàn diện. Bắt đầu là phi công Pao-ớt (Gary Powers) bay chụp hình không phận Liên sô bằng phi cơ trinh sát tân kỳ U-2. Rồi đến những tàu đánh cá trá hình trang bị dụng cụ điện tử bén nhậy. Rồi đến triều đại vệ tinh với những Cốt-mốt (Cosmos), Samốt (Samos) và Midát (Midas) bay vòng quanh trái đất, có thể nghe thấy, nhìn thấy dễ dàng.
Nhiều người tưởng lầm những tiến bộ điện tử sẽ làm nhân viên gián điệp trở thành vô dụng. Thực tế đã chứng nhận là máy móc không thể và không bao giờ thay thế được con người trong lãnh vực tình báo và gián điệp.
Vụ điệp viên Do thái Cohen (Elie Cohen) xẩy ra năm 1967, nghĩa là vào thời kỳ các cường quốc đã biết cách xử dụng những máy móc do thám siêu việt, cho thấy rằng con người vẫn tiếp tục là yếu tố quyết định. Độc giả đã nghe nói nhiều đến thành tích của gián điệp Tây phương, đặc biệt trong 2 trận đại chiến. Và nhắc đến thành tích điệp báo, độc giả thường có cảm tưởng đó là thành tích của MI-6 (Anh quốc), của OSS (Trung ương Tình báo C.I A.), quân báo D.I.A. (Hoa kỳ), của Phòng Nhì Pháp, hoặc của Quốc tế Tình báo Sở (Trung cộng), G.R.U & K.G.B (Liên sô).
Nhưng điệp viên Cohen lại không có chân trong những tổ chức đàn anh vừa kể. Thế mà thành tích của Cohen đã làm các điệp viên đàn anh lác mắt.
Những đồng nghiệp của Cohen cũng đã làm thế giới ngả nón khâm phục. Cohen là nhân viên của một tổ chức điệp báo sinh sau đẻ muộn, tên là Shinbet, sonq được liệt vào hàng xuất sắc, từ đông sanq tây ai cũnq kính nể. Chưa tổ chức điệp báo nào lại được tổ chức kín đáo bằng Shinbet. Mặc dầu Shinbet hoạt động chặt chẽ với Các cơ quan chính quyền Do thái như Sở Tình báo Trung ương, và Trung tâm Truy tầm Tội phạm Đức Quốc xã, những thủ lãnh cao và trung cấp Shinbet vẫn bảo vệ được sự vô danh. Nhiều điệp viên Shinbet đã phục vụ từ năm 1947, năm quốc qia Do thái được thành lập. Phần đông là các cựu sĩ quan Haganah, đạo quân bí mật lãnh đạo cuộc kháng chiến đuổi người Anh ra khỏi vùng đất Pa-lét-tin. Hiện nay, Shinbet có một màng lưới rộng lớn trên khắp thế giới. Shinbet đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong những trận chiến với các quốc gia Ả-rập. Đặc biệt là trận chiến chớp nhoáng Sáu ngày năm 1967.
Một trận chiến lạ lùng. Còn lạ lùng hơn cả hai trận chiến 1948 và 1956. Trước đây dân Ả-rập thua Do thái là chuyện còn có thể hiểu được. Nhưng với sự chi viện to lớn của Liên sô với một quân số hùng hậu, lần thất trận này không phải là sự kiện bình thường.
Chẳng qua Shinbet có những siêu điệp viên. Và đây là một nén hương lòng đốt cho siêu điệp viên Elie Cohen....
I.
Về phía biên giới Do thái là một giải đất khá rộng, bằng phẳng, quanh năm cây cỏ xanh tươi, rải rác các nông trại và làng mạc. Đó là thung lũng Hu-lê (Huleh). Phong cảnh thật hữu tình nếu đâu đây không có những hố đạn sâu hoắm như trên da mặt người mang thẹo đậu mùa. Từ gần hai chục năm nay, quân đội Syri (Syrie-Syria) vẫn dùng thung lũng Hu-lê đầy thi vị làm nơi thử đạn trọng pháo. Họ không cần biết nông dân Do thái bị trúng đạn và bị tử thương. Giữa Do thái và Syri cũng như giữa Do thái và các nước Á-rập vây bọc chung quanh thì tình trạng cừu địch ấy vẫn cứ tiếp diễn, tiếp diễn tưởng như không bao giờ ngừng.
Thung lũng Hu-lê chạy dài đến sát biên giới thì khựng lại. Từ đó, mặt đất không còn bằng phẳng và ngoan ngoãn nữa. Bắt đầu có núi. Thoạt tiên là một con đường nhỏ, gập ghềnh chỉ vừa đủ cho dê cừu lên xuống, lượn ngoằn nghèo giữa những vực thẳm hun hút và những vách đá cao ngất, thẳng tắp, trơn trượt, trông rùng mình sởn gáy. Rồi sau cùng là đỉnh núi Gô-lan.
Trên đỉnh, một đồn binh Syri được thiết lập. Nhờ vị thế thiên nhiên, các khẩu pháo trong đồn có thể kiểm soát hoàn toàn thung lũng phía dưới, bom đạn của không quân chẳng đi đến đâu vì đá cứng như sắt, hệ thống phòng thủ được đúc chìm trong khối bê-tông, lại gồm toàn võ khí tối tân và kiến hiệu nhất của Hồng quân sô viết. Các kỹ sư công binh Nga tuyên bố đồn binh Golan là đồn binh bất khả xâm phạm. Muốn chiếm, địch chỉ có thể tiến đánh bằng mặt tiền. Song sườn núi quá dốc, xe tăng không bò lên nổi. Dùng bộ binh thì khác nào làm mồi ngon cho quân phòng thủ. Trừ phi địch hy sinh hàng sư đoàn... Nhưng địch ở đây lại là Do thái. Và điều các kỹ sư Sô viết và các tướng lãnh Ả-rập không bao giờ ngờ tới đã xảy ra.
Đúng 10g30 sáng hôm ấy, một sáng thứ sáu tháng 6 năm 1967, sau 4 ngày chịu đựng những trận mưa đạn pháo kích ác liệt của đồn Golan, binh sĩ Do thái đã mở cuộc tấn công bằng mặt tiền. Lối đánh của Do thái cũng như lữ đoàn được dùng vào công việc đánh đồn Golan có thể được coi là độc nhất vô nhị. Từ hơn 10 năm lữ đoàn này được huấn luyện trong bầu không khí bí mật tuyệt đối với một mục đích rõ rệt: tiến chiếm đồn binh bất khả xâm phạm trên ngọn núi Golan dọc biên giới hai nước.
Cuộc xung kích diễn ra từ sáng đến chiều. Dĩ nhiên không quân Do thái oanh tạc dữ dội chưa từng thấy, nhưng đó chỉ là phần phụ. Phần chính là những nỗ lực bộ binh với 2.700 người được sự yểm trợ của 200 xe tăng và xe bọc thép, và đặc biệt là 20... xe ủi đất khổng lồ.
Xe ủi đất có nhiệm vụ mở đường tiến cho thiết giáp. Pháo trên đồn rót xuống tới tấp cùng với đại liên, mìn, lựu đạn... song xe ủi đất vẫn không bị hề hấn, vì nó được bọc thép thật dầy. Đến khi đạo quân phòng thủ tìm ra cách hóa giải đoàn xe ủi thì đã muộn, chiến xa Do thái đã bò lên đến nơi bộ binh quyết tử. Ánh nắng chiều vừa tắt ở đường chân trời thì cuộc giao phong kinh khủng nhất của trận chiến Do thái-Á rập năm 1967 cũng chấm dứt.
Đồn binh bất khả xâm phạm Golan thất thủ.
Sau đó, nhiều thông tin viên báo chí và các chuyên viên quân sự từ nhiều nơi trên thế giới đến viếng thăm Golan. Toàn thể đều ngạc nhiên, Golan đã rơi vào tay Do thái, vậy mà không ai tin là thật. Phát ngôn viên của quân đội Do thái giải thích là chiến thắng vô tiền khoáng hậu Golan là do "Tinh thần chiến đấu cao độ, sự can đảm siêu đẳng, sự tham chiến của một lữ đoàn được đặc biệt huấn luyện, và công trình chuẩn bị 10 năm...".
Phát ngôn viên Do thái chỉ nói một phần sự thật. Phát ngôn viên cố tình quên nói rằng trước ngày tấn công Golan quân đội Do thái đã có dưới tay đầy đủ họa đồ của đồn binh trên mỏm núi. Mỗi người trong đoàn xung kích đều thuộc làu vị trí của từng phiến đá, vị trí của từng ổ súng được ngụy trang tài tình và an toàn. Tầm bắn xa của mỗi ổ súng là bao nhiêu, những ai chỉ huy đồn binh... nhất nhất Do thái đã biết hết.
Thắng lợi ở Golan là một thắng lợi bình dị. Nó còn là một thắng lợi điệp báo nữa. Muốn tìm hiểu thắng lợi ở Golan không thể không tìm hiểu hoạt động của một viên chức kế toán Do thái, người đã đội lốt công dân A-rập Syri đánh cắp hầu hết những bí mật chính trị, quân sự của Syri, kể cả họa đồ đồn binh Golan.
Nguời Do thái này có thể được coi là điệp viên vĩ đại nhất trong thời gian 5, 7 năm qua...
II.
Đầu năm 1957, Ai cập đang rối như nồi canh bẹ thì Cohen hồi hương. Ai cập vừa thua trận thê thảm. Quân đội bị đánh tan hoang từ vùng kênh đào Su-ê (Suez Canal, Canal de Suez) chạy dài đến sa mạc Sinai rộng mênh mông. Dân chúng Á-rập trút mối giận hờn thua trận lên đầu những người Do thái đang sinh sống trên đấ nước họ. Vì vậy một số lớn kiều dân Do thái ở Ai cập bị trục xuất.
Trong đám đông người lánh cư sợ hãi bị xua lên một con tầu bỏ neo ở cảng Alêzanđờri (Alexandria- Alexandrie) buổi sáng hôm ấy có một thanh niên 35 tuổi, dong dỏng cao tên là Cohen. Vợ là Na-đia và 2 con cùng với Cohen. Sáng hôm ấy Cohen không thể ngờ trong tương lai gần chàng sẽ trở thành siêu điệp viên Shinbet. Cohen là người Do thái, song dung mạo lại giống người Ả-rập.
Trở về Do thái, Cohen vẫn nghèo kiết xác, sản nghiệp của gia đình chàng được thu gọn vào chiếc va-li nhỏ. Dân tị nạn lũ lượt kéo về hàng ngàn người, mảnh đất Do thái tí xíu đã đầy ắp đến cổ, thực phẩm bị khan hiếm, công ăn việc làm càng bị khan hiếm hơn.
Sau một thời gian ngắn lãnh trợ cấp của chính phủ trong trại định cư đông nghẹt, Cohen ra ngoài tìm việc. Chàng nhận làm kế toán viên không thường trực. Với số lương ít ỏi, chàng cùng gia đình chui rúc trong một căn phòng thiếu tiện nghi. Ngay cả sở làm chết đói này cũng không cưu mang được lâu. Hãng buôn đóng cửa, Cohen bị thất nghiệp.
Chàng tiếp tục thất nghiệp luôn 2 năm giòng dã. Đúng ra chàng không hoàn toàn thất nghiệp, thỉnh thoảng chàng vớ được chỗ làm, song không nơi nào được bền. Cohen rất siêng năng nên vợ con không đến nỗi bị thiếu hụt nhiều. Cũng như mọi công dân Do thái trung bình khác, Cohen nói tiếng mẹ đẻ không thông thạo vì lẽ được chào đời ở nước ngoài, chàng không mấy ngoan đạo, tuy nhiên chàng lại có tinh thần ái quốc thiết tha, sẵn sàng hy sinh mạng sống để quốc gia Do thái được trường tồn.
Cohen có một biệt tài mà chàng không biết. Biệt tài này chỉ nẩy nở trong các cuộc họp đông đảo. Đó là biệt tài nói chuyện. Cohen có lối nói lôi cuốn, ai nghe cũng mến. Chàng lại còn đóng kịch rất khéo. Và bắt chước y hệt giọng nói cũng như cử chỉ của bất cứ ai. Kế cả đại tá Nát-se, tổng thống Ai cập, hay tổng thống Đờ-gôn. Cohen còn giỏi ngoại ngữ. Chàng biết 5 thứ tiếng.
Một hôm kia Cohen đang đi ngoài đường thì có hai người lạ đến làm quen. Họ chìa chứng minh thư cho chàng coi. Họ muốn bàn bạc chuyện riêng với Cohen.
Họ là sĩ quan Shinbet.
Từ 20 năm qua, Do thái và Á rập chỉ nghĩ đến ăn tươi nuốt sống nhau. Họ chỉ đánh lớn cả thảy 3 trận. Nhưng về đánh nhỏ, đánh lẻ tẻ thì hầu như tháng nào cũng có. Về hoạt động gián điệp thì ngày cũng như đêm hai phe không tha nhau nửa bước...
Phe Á-rập cố gắng rất nhiều song thành công thì lại rất ít. Người Do thái dường như có khả năng về cải trang và hoạt động gián diệp. Họ từ khắp nơi trên thế giới đổ về nên biết nói nhiều ngôn ngữ. Trong số những người hồi hương này có rất nhiều phần tử ưu tú vừa lập nghiệp trên lãnh thổ Ả-rập. Do đó Shinbet trà trộn điệp viên trong hàng ngũ địch không có gì khó khăn. Phương chi Shinbet lại được coi là một trong các cơ quan điệp báo hữu hiệu nhất hoàn vũ...
Mỗi ngày chính phủ Do thái một chiếu cố nhiều hơn đến công tác gián điệp hậu địch. Syri tuy không lớn bằng Ai cập. nhưng về thói lộn xộn thì hơn Ai cập xa. Hàng trăm chuyên viên quân sự Sô viết được Syri mời đến, chở theo hằng hà sa số những võ khí hiện đại. Binh sĩ Syri được huấn luyện ráo riết dưới sự hướng dẫn của cố vấn Hồng quân.
Do thái bắt đầu ăn không ngon, ngủ không yên. Dọc biên giới phía bắc, kỹ sư công binh Sô viết rầm rộ kéo đến núi Golan. Người Do thái ở thung lũng bên dưới có thể nghe rõ tiếng mìn nổ, phá núi để đổ bê-tông xây hầm và công sự phòng thủ. Shinbet được lệnh khám phá những bí mật bên trong đồn binh. Một kế hoạch thâm nhập được đề ra: Shinbet tung chuyên viên đi khắp nơi, xục xạo các trung tâm tiếp cư để tuyển chọn một nguời hội đủ điều kiện cải trang làm đại thương gia Ả-rập.
Kế hoạch thâm nhập này đòi hỏi một thời gian dài. Đành rằng thời gian quá gấp rút song Shinbet không thể nào làm khác.
Và Shinbet để mắt tới Cohen.....
III.
Khỏi cần tham dự cuộc hội kiến kín đáo giữa Cohen và hai phái viên Shinbet, người ta đã biết họ nói với nhau những gì. Cohen hằng chờ đợi cơ hội để phục vụ đất nước. Nhiều phiên họp khác được tiếp theo và sau cùng Shinbet kết nạp Cohen vào tổ chức. Vợ Cohen được thông báo là Cohen được chánh phủ trọng dụng. Vì công vụ, Cohen thường phải xa nhà, Cohen đột ngột biến dạng. Thỉnh thoảng chàng mới về thăm vợ con.
Trong những ngày vắng nhà này Cohen theo học khóa huấn luyện đặc biệt tại một cơ sở của Shinbet. Chàng được dậy kỹ thuật chụp hình, rửa hình, làm phim vi-ti, xử dụng mật mã và điện đài vô tuyến. Chàng phải học thuộc lòng thánh kinh Koran của người Hồi giáo, chàng giành thật nhiều thời giờ để nói thạo tiếng Ả-rập. Chàng phải làm quen với nội tình Syri. Chàng phải nhớ vanh vách lịch sử Syri, tên tuổi các yếu nhân lãnh đạo. Tóm lại chàng phải làm cách nào để lột bỏ cốt cách Do thái, biến thành người Ả-rập sinh trưởng tại Syri. Khóa huấn luyện của Cohen kéo dài đúng một năm.
Trước đây, chàng nói tiếng Ai-cập còn trật trẹo. Tiếng Ai-cập và tiếng Syri đều là tiếng Ả-rập, song về giọng nói và ngữ vựng có nhiều chỗ khác nhau. Giờ đây, công dân Syri trăm phần trăm cũng đinh ninh Cohen là đồng hương. Tuy vậy thượng cấp của Cohen trong Shinbet vẫn chưa thỏa mãn. Họ yêu cầu chàng phải học thêm nữa. Nói giỏi tiếng Syri cũng chưa đủ, Cohen phải biết suy nghĩ, hành động, ăn uống, chơi bời như người Syri.
Tốt nghiệp lớp huấn luyện bổ túc này, Cohen được đưa tới một văn phòng riêng, tại đó chàng lấy tên một thương gia Syri giàu sụ chỉ có trong trí tưởng tượng và học thuộc mọi chi tiết về gốc gác gia cảnh, đời sống của người lái buôn ma ấy. Các chuyên viên Phản gián lão luyện lần lượt truy khảo Cohen để khám phá hớ hênh. Song Cohen đã tỏ ra khôn ngoan, bất cứ cạm bẫy nào cũng vượt qua dễ dàng.
Cohen biến thành Tabê (Kamel Tabet), khôi ngô, hào hoa, thành công về kinh doanh cũng như thành công về...đàn bà. Tabê còn độc thân song vợ con hàng đống. Đặc điểm của Tabê là mang sự căm thù Do thái từ trong máu. Nhắc đến thế giới Ả-rập là mắt chàng sáng rực. Chàng yêu Ả-rập, và ghét Do thái. Chàng sẵn sàng làm mọi việc nhằm loại trừ bè lũ Do thái.
Với giấy tờ giả, Cohen từ giã Do thái. Cuối năm 1960, chàng được tạt về nhà hú hí với vợ con. Chàng chỉ nói với vợ là xuất ngoại công tác, chứ không nói là đi đâu và làm gì. Cuộc sống gián điệp bó buộc Cohen phải đóng kịch cả với những người thân nhất.
Cohen lên đường đi Bua-nốt-E (Buenos Aires), thủ đô Á căn đình (Argentina). Tại các hải cảng lớn trên thế giới thường có nhiều kiều dân Syri. Họ lập nghiệp ở Bua-nốt-E khá đông, tuy nhiên một phần gia đình họ vẫn còn ở lại quê hương. Tabê - tức điệp viên Cohen - gia nhập đám kiều dân Syri này tháng 1-1961.
Sổ thông hành của Tabê cho thấy Tabê từng sống khá lâu ở Âu châu. Tabê cho bạn đồng hương biết chàng chuyên về thương mãi quốc tế. Và để chứng tỏ khả năng kinh doanh của mình, Tabê mở một văn phòng xuất nhập cảng lớn.
Tính tình Tabê không lạnh lùng, song cũng không vồ vập. Chàng chỉ làm điều nào xét ra cần thiết, chàng không kết bạn vội vàng, và bừa bãi. Sau một thời gian hãng xuất nhập cảng của Tabê có tiền vào tiền ra sung túc, kiều dân Syri mới lưu ý đến, và mời chàng đến lễ bái tại giáo đường, đồng thời gia nhập hội người Syri ly hương.
Tabê không bỏ lỡ cơ hội nào có thể đả kích Do thái. Có lần Tabê nói say sưa hơn cả đảng viên Đức Quốc xã đối với Do thái nữa, và sau đó chàng được một người đàn ông trung niên, khỏe mạnh, nghiêm nghị mặc quân phục tướng lãnh bộ binh Syri đến bắt tay khen ngợi nồng nhiệt. Vị tướng Syri này là Hafê (Amin el Hafez), là tùy viên quân sự tại sứ quán Syri. Hai người trở thành bạn thân và trong tương lai Hafê đã vô tình giúp Tabê đắc lực trong nhiệm vụ gián điệp chống Syri.
Trong những buổi trà dư tửu hậu Tabê thường lộ vẻ buồn. Bạn bè gặng hỏi, chàng mới thở dài nói là nhớ nhà. Sức khỏe của chàng mỗi ngày một kém, chàng chỉ sợ nhắm mắt mà không được thấy lại đất nước thân yêu. Khi rời quê cha đất tổ, chàng còn nghèo kiết, giờ đây, chàng đã giầu sụ, chàng càng nhớ nhà bội phần.
Tabê xin gia nhập quốc tịch Á-căn-đình để có thể về thăm Syri dễ dàng. Chàng quen rộng, hồ sơ lại tốt nên không phải chờ đợi điều tra lâu lắt. Chàng được cấp sổ thông hành Á-căn-đình. Sổ thông hành chính hiệu. Chứ không phải sổ thông hành Syri giả. Kế hoạch thâm nhập Syri của Shinbet tiến thêm được một bước.
Tháng 1-1962, một năm sau khi đến Á-căn-đình, Tabê đáp tàu biển về Syri. Cuộc tiến đưa diễn ra linh đình. Đó là điều dĩ nhiên vì Tabê đã chiếm được cảm tình và sự trọng vọng của hầu hết kiều dân Syri, ngay cả viên chức chính quyền bản xứ cũng mến chàng.
Đầu thế chiến thứ hai, một cuốn kim chỉ nam gián điệp của Nga tựa đề "Phương thức tuyển mộ và gặp gỡ điệp viên" lọt vào tay phản gián Đức quốc xã. Đức liền cho phiên dịch và phổ biến trong các trung tâm huấn luyện điệp báo của họ. Cuốn cẩm nang này đề ra một nguyên tắc căn bản và quan trọng cho mọi điệp viên hoạt động trên đất địch, ấy là tìm mọi cách giao du thân mật với các nhân vật cao cấp của địch, càng cao cấp càng tốt, vì nhân viên của địch càng cao cấp thì tin tức, tài liệu thu hoạch được càng thêm quý giá.
Tabê tuân theo cuốn cẩm nang của G.R.U. sô viết. Thật trớ trêu vì G.R.U. cố vấn cho Phản gián Syri, chống lại Shinbet Do thái. Ngay trên con tàu lênh đênh trên biển cả, Tabê cũng đã nghĩ cách làm quen với một triệu phú Syri, giòng giõi quý tộc 1. Nhà triệu phú này đi lại giữa các thủ đô Tây phương như đi chợ, mặc y phục Tây phương sang trọng và tiêu xài hào phóng. Tabê cũng phóng tiền tài thu phục nhân tâm cho nên khi con tàu sắp cặp bến Li-băng thì hai người đã trở thành tri kỷ. Hành khách và hàng hóa đi Syri đều qua Li-băng. Tabê có sổ thông hành hợp lệ mà không có chiếu khán hợp lệ. Shinbet ra lệnh cho chàng tránh xin dấu chiếu khán nhập nội tại sứ quán Syri, Bua-nô-E. Shinbet sợ họ điều tra cặn kẽ và sẽ phăng ra sổ thông hành giả mạo. Vì vậy Tabê phải đến Bê-rút, thủ đô Li-băng (Beirut - Liban Libanon), tìm người đỡ đầu để xin chiếu khán tại đó.
Nhà triệu phú gặp trên tàu đã vô tình đỡ đầu cho điệp viên Tabê. Trong bữa ăn thịnh soạn, Tabê giả vờ giật mình vì quên xin chiếu khán tại Á-căn-đình. Nhà triệu phú nhận lời giúp ngay, chuyện gì chứ xin dấu nhập nội thi dễ ớn.
Đặt chân lên thương cảng, Tabê được nhà triệu phú Syri mời lên chiếc xe nhà oai vệ, có tài xế mặc đồng phục lái.
Tại trạm kiểm soát ở biên giới Syri, nhà triệu phú vào văn phòng quan thuế, gọi điện thoại cho một viên chức chỉ huy tại Đa-mát (Damas, Damascus). Viên chức này ra lệnh cho đội công an biên phòng, Và Tabê được phép nhập cảnh vô điều kiện.
Thế là Tabê tức Côhen, điệp viên Do thái, nghênh ngang đến Syri. Syri chỉ cách Do thái một đồn binh Golan mà Tabê phải vòng vo Tam quốc, đi tận Nam-Mỹ rồi từ Nam-Mỹ xa xăm lộn về Trung Đông.
Đêm ấy Tabê nằm thao thức trong lữ quán sang trọng bậc nhất. Tabê không sao ngủ được vì đây là đêm đầu tiên của người gián điệp trên đất địch. Vợ con, bạn bè ở gần trong tầm tay mà lại rất xa...
IV.
Tabê lặp lại chiến thuật đã áp dụng thành công tại Á-căn-đình. Từ từ kết thân. Chọn bạn mà chơi, Tabê làm quen với toàn những kẻ ăn trên ngồi trước. Chàng không gặp khó khăn, phần vì có nhiều thư giới thiệu của kiều dân Syri đang sống tại Á-căn-đình. Một phần cũng do quà cáp, mời mọc...
Dần đà Tabê được chấp nhận vào xã hội thượng lưu Đa-mát gồm các tướng tá, bộ trưởng, lãnh tụ chính trị, đại thương gia. Chàng luôn luôn bầy tỏ lập trường chính trị dứt khoát: sự hiện diện của Do thái là đại họa cho đạo Hồi, đại họa cho khối Ả-rập, do đó, người Ả-rập phải vùng dậy, quét Do thái ra biển, Syri phải cấp thời gia tăng tiềm lực binh bị.
Cơ sở thương mãi ở Á-căn-đình tiếp tục hoạt động. Tabê chuyển một số tiền lớn từ Á-căn-đình về Syri. Để tiêu xài cho bõ những năm tha phương cầu thực. Và cũng để mở một hãng xuất nhập cảng tại quê nhà Đa-mát thân yêu. Tabê lôi kéo được một số yếu nhân chính quyền, cho họ chấm mút vào nghiệp vụ xuất nhập cảng. Nếu không lôi kéo được bằng tiền bạc, chàng dùng sự biếu xén, mời mọc du hí.
Trong số bạn bè của Tabê có đại tá Hatum (Hatoum), tư lệnh lữ đoàn xung kích dù, và đại tá Đali (Dalli) - là một quân nhân trung niên nhiều thủ đoạn, mượn binh nghiệp làm nấc thang danh vọng. Ngoài ra, chàng còn quen thân một số bộ trưởng và tướng lãnh.
Sau mấy tháng ở Đa-mát, Tabê ngỏ ỷ muốn trở lại Á-căn-đình. Không ai bằng lòng cho chàng rời Syri vì tổ quốc đang cần những đứa con trung thành, quả cảm và tài giỏi như chàng giữa lúc thù trong và giặc ngoài đe dọa trầm trọng. Chính phủ mời chàng làm trưởng ban chương trình hướng về Tây ban nha và Nam-Mỹ trong sở Vô tuyến Truyền thanh và Truyền hình. Dĩ nhiên là Tabê nhận lời. Bạn bè chàng tỏ vẻ mừng rỡ vì họ đã thành công trong việc thuyết phục đại thương gia Tabê gác bỏ mọi quyền lợi vật chất riêng tư để phục vụ đất nước.
Một thời gian ngắn sau đó. Tabê thay đổi nếp sống. Chàng dọn đến một tòa biệt thự sang trọng trong một khu vực sang trọng, đối diện với dinh Thủ tướng. Biệt thự của chàng được thiết trí toàn đồ đạc và tiện nghi đắt tiền. Ngày nào cũng như ngày nào, chàng mở các cuộc tiếp tân và hưởng lạc với sự tham dự của hầu hết các vị tai to mặt lớn ở thủ đô.
Ai cũng tưởng triệu phú thương gia Tabê là kẻ chơi bời. Ai cũng tưởng Tabê thức thâu đêm bên gái đẹp, tiệc tùng và bài bạc. Không ai biết rằng tất cả chỉ là một tấn kịch. Bên trong tòa nhà mênh mông ngàn một đêm lẻ. Tabê đã bí mật đặt một phòng chụp hình, rửa hình vi-ti. Những báo cáo đầu tiên của Tabê cho Shinbet được thu nhỏ thành dấu chấm trên đầu chữ i trong các cạt-pốt-tan gửi về cho các bằng hữu ở Á-căn-đình. Ngay từ những báo cáo sơ khởi này Tabê đã nắm được rất nhiều tin tức quan trọng về mức chi viện của Liên sô cho Syri, nhằm đánh gục Do thái.
Tabê còn một thể thức gửi tin tức khác, qua đài bá âm chính thức Đa-mát. Với tư cách trưởng ban chương trình, chàng viết nhiều bài bình luận đả kích "kẻ thù" Do thái, và chỉ có trụ Sở điệp báo Shinbet mới hiểu được rằng những bài bình luận sặc mùi xuyên tạc căm thù này đã chứa đựng một số tin tức quân sự và chính trị có lợi cho Do thái.
Trung ương Shinbet tỏ ra vô cùng hân hoan, điệp viên của họ đã thành công trên mức dự tính. Để giúp Tabê phương tiện báo cáo cho nhậm lẹ và kín đáo hơn, họ ngầm gửi tới một điện đài nhỏ xíu, đồng thời ra lệnh cho chàng kết thân với đảng Bát (Baath), một đảng cực tả theo khuynh hướng sô-viết. Sở dĩ Shinbet ban hành chỉ thị này là vì Liên sô đang ngấm ngầm tiếp tay cho đảng Bát cướp chính quyền, và một khi có sự toa rập của Liên sô thì cuộc đảo chánh chắc chắn thành công.
Tức thời Tabê thay đổi lập trường. Nội trong tuần ấy, chàng gia nhập đảng Bát. Shinbet tiên liệu không sai, chỉ mấy tuần sau đảng Bát đã lật đổ chính phủ trong một cuộc đảo chánh. Cách mạng thành công, đảng Bát mở tiệc ăn mừng, và dĩ nhiên trong số quan khách đến cụng ly có đại thương gia kiêm trưởng ban chương trình đài truyền thanh và truyền hình Tabê. Tướng Hafê, bạn cũ của chàng ở Á-căn-đình, được phe đảo chánh cử làm tân tổng thống, nên chàng được đối xử một cách biệt nhỡn và thâm tình.
Trong những ngày đầu cách mạng, có tin đồn Tabê được tướng Hafê mời tham gia nội các. Phiền một nỗi Tabê lại là công dân Á-căn-đình. Nhưng Tabê không muốn trở thành yếu nhân của chính phủ. Công an mật vụ Syri có thể dí mũi vào dĩ vãng của chàng và sẽ khám phá ra Tabê là người tưởng tượng, Thượng sách là đứng ở hậu trường, tiếp tục giao du với giới tướng tá lãnh đạo. Đại tá Hatum, Đali và triệu phú đã đỡ đầu cho chàng hồi mới nhập cảnh. Ba ngưòi này là nguồn cung cấp tin tức rồi rào bất tận. Cả ba đều mang bệnh hảo ngọt, thấy đàn bà đẹp là híp mắt, lại ưa thích gái tơ. Tabê bèn biến tòa nhà lộng lẫy của chàng thành động đào, và trong khi các ông bự của chế độ mới say sưa với mỹ nhân thì trong gian phòng kín Tabê hoạt động gián điệp...
V.
Năm 1964 mở đầu với một sự thay đổi nhỏ trong nếp sống của Tabê. Chàng vẫn tiếp tục khoản đãi tân khách, bạn bè. Các phòng ăn và giường ngủ trong tòa biệt thự tráng lệ của chàng vẫn tiếp đón các yếu nhân mỗi đêm. Tuy nhiên, vì muốn lôi kéo thêm những lãnh tụ tối cao, vì muốn rút tỉa thêm những tin tức quan trọng, Tabê đã giành riêng một số phòng để tổ chức những thú vui đặc biệt.
Trứng cá caviar, loại đắt tiền nhất, được chở từ Nga tới bằng phi cơ cùng với huýt-ky nguyên xứ, sâm-banh hiếm và rượu mùi của Pháp, thôi thì sơn hào hải vị, của ngon vật lạ từ khắp nơi trên thế giới đều được Tabê mua về, cung ứng thừa mứa cho các con mồi tướng lãnh và tổng trưởng. Thuốc hút thì có cần sa được trồng ngay tại địa phương, hoặc á-phiện trắng chế tạo tại Pháp. Khoảng nửa đêm, những ngọn đèn lớn đều tắt, chỉ còn lại một số ánh sáng huyền ảo, rồi tấm màn nhung được kéo dạt ra, một đạo binh gái đẹp xuất hiện, trình diễn múa bụng Ai-cập, thoát y vũ tây phương, múa nhảy á-đông và...những trò giải trí xác thịt tân kỳ và hấp dẫn độc nhất vô nhị...
Giữa cảnh trác táng này, Tabê là con người sành sỏi, hầu như quốc tế. Không ai biết rằng hồi nhà, bên cạnh vợ con, chàng là người cha, người chồng gương mẫu, không hề rượu chè, đĩ điếm.
Lần lượt những bí mật của quốc gia khuynh tả Syri lọt vào tay Tabê và tình báo Do thái. Nhưng đề phòng bị Syri tấn công, Do thái cần nắm giữ họa đồ kiến trúc đồn binh bất khả xâm phạm Golan.
Việc này được giao cho điệp viên Tabê.
Tabê lại trổ tài đóng kịch. Mỗi khi gặp các tướng lãnh, chàng đều phàn nàn về việc quân đội Syri được trang bị khí giới hiện đại, và có tinh thần chiến đấu cao độ, nhưng hệ thống phòng vệ biên giới lại quá yếu kém, sợ khó cản chân xâm lăng Do thái. Tabê yêu cầu bộ tổng tư lệnh cải tiến các đồn binh dọc biên giới. Hội kiến với tổng thống Hafê mùa hè 1964, chàng lặp lại nhận xét bi quan này. Dĩ nhiên Hafê sửng sốt, vì Hồng quân sô-viết đã giúp Syri tăng cường phòng thủ tối đa. Tabê bi quan chẳng qua vì không am hiểu thực tình. Tổng thống Hafê bèn gọi điện thoại cho bộ tổng tư lệnh và Tabê được mời viếng thăm các vị tri quân sự biên giới mà chàng chê là yếu kém. Chính phủ cũng như quân đội muốn chứng tỏ cho công dân ưu tú và hữu công Tabê hiểu rằng Syri không hề yếu kém trước kẻ thù Do thái như chàng lầm tưởng.
Sau hai ngày tham quan lý thú, Tabê được hướng dẫn lên đỉnh Golan. Chàng xin phép được nghỉ đêm tại đồn binh để có thời giờ quan sát phong cảnh nên thơ và nghĩ đến lúc quân đội Syri anh dũng tràn ngập thung lũng Hulê xanh tươi phía dưới, đánh đuổi "bọn chó ghẻ" Do thái. Dầu cho Tabê đóng kịch xuất phàm, chắc chắn tim chàng đã đập thình thịch và mặt chàng xanh tái khi chàng đứng trên cao nhìn xuống thung lũng. Vì đó là quê hương đích thật của chàng. Đó là nơi vợ con và đồng bào của chàng đang sống. Đó là nơi Shinbet ngày đêm trông chờ họa đồ đồn binh Golan, công sự phòng thủ kiên cố nhất và vĩ đại nhất Trung Đông.
Khi viên tư lệnh đồn binh chỉ con đường ngoằn ngoèo bị kẹt giữa những tảng đá lớn, Tabê giả vờ giật mình:
- Nếu "bọn chó ghẻ" Do thái liều mạng đánh từ mặt này lên thì sao?
Viên tư lệnh cười, tin tưởng:
- Chỉ có một lối công đồn.Bằng con đường ông vừa nói. Nhưng nếu chúng lên đây bằng con đường ấy, chúng sẽ chết không còn một mống, cho dẫu chúng huy động hàng trăm phi cơ oanh tạc, và dưới đất chúng tung ra hàng trung đoàn...Vì.. vì những ổ súng lớn nhỏ của ta được ngụy trang kỹ lưỡng và giấu trong hầm bê-tông, ta có thể tiêu diệt cả những vật nhỏ bé như ruồi kiến, chứ đừng nói là chiến xa và bộ binh của địch nữa...Đây này.. mời ông coi...
Viên tư lệnh huênh hoang dẫn Tabê đến những ơi cất súng. Đủ mọi loại súng. Kể cả đại pháo và súng phóng hỏa tiễn. Viên tư lệnh nói đúng, vị trí độc nhất vô nhị của đồn Golan cộng với khả năng hỏa lực có thể tiêu diệt hàng trung đoàn tấn công của Do thái.
Tabê bèn giả vờ ngu ngốc, viên tư lệnh giải thích mãi chàng vẫn còn lo ngại, chàng lại nhai nhải là khi trở về gặp tướng tổng tư lệnh và tổng thống sẽ yêu cầu gia tăng biện pháp phòng thủ, rốt cuộc viên tư lệnh phải mời chàng về hầm chỉ huy mở tủ sắt lấy họa đồ cho chàng xem. Óc Tabê là cái máy chụp hình bén nhậy và trung thật nên viên tư lệnh giảng đến đâu thì chàng nhớ vanh vách đến đó.
Đêm ấy Tabê chỉ giả vờ ngủ. Chàng phải thức để làm nhẩm bản báo cáo chi tiết gửi về trụ sở Shinbet.
Hôm sau về Đa-mát, chàng đến thẳng bộ tổng tư lệnh, xin lỗi về thái độ thiếu tin tưởng của mình và không ngớt lời khen ngơi các đơn vị biên phòng. Chàng không quên để lại tấm chi phiếu 35.000 đô-la tặng anh em chiến sĩ "gối đất nằm sương để bảo vệ tổ quốc". Tại các nước Ả-rập, đảo chính xảy ra như cơm bữa nên các nhà triệu phú thường hào phóng với quân đội. Tiền tặng quân đội chỉ là một hình thức đầu tư khôn ngoan.
Bản báo cáo quá dài, Tabê không gửi đi bằng điện đài. Chàng dự định về Do thái để phúc trình miệng, và cũng để thăm gia đinh luôn thể. Chàng rời Đa-mát nói là đi Âu châu lo việc buôn bán, nhưng khi ghé Zu-rích chàng lén mua vé về Do thái, mang theo họa đồ đồn binh Golan tự chàng vẽ lại bằng trí nhớ. Tabê gặp giám đốc Shinbet rồi phóng xe về nhà. Vợ con chàng mừng mừng tủi tủi, sau mấy năm trời xa cách, không thư từ. không tin tức, gia đình được đoàn tụ. Vợ hỏi chàng làm gì, ở đâu nhưng chàng không thể tiết lộ.
Tabê không thể lưu lại nhiều ngày ở Do thái. Trong thời gian ngắn ngủi này chàng lại phải nhóm họp liên miên với các chuyên viên Shinbet. Chàng chẳng còn bao nhiêu thời gian để giành cho vợ con. Rồi ngày vui qua mau, Tabê lại phải dứt áo ra đi. Chàng bay lộn lại Zu-rích, đáp chuyến phi cơ sớm nhất về Đa-mát, tiếp tục cuộc sống trà đình tửu quán thượng, sát nách Tử thần.
VI.
Gần như là số phận chung, hầu hết các siêu điệp viên từ xưa đến nay đều bị tử thần gọi đi giữa tuổi thanh niên, giữa những hoạt động thành công rạng rỡ. Vì vậy siêu điệp viên Tabê không sao tránh được Tử thần...
Điệp viên chết vì bại lộ. Bại lộ vì bản thân vụng về hớ hênh. Song phần lớn, bại lộ vì một lỗi lầm nào đó ở trung ương. Trung ương Shinbet đã phạm một lỗi lầm tai hại khi ra lệnh cho Tabê dùng điện đài làm phương tiện gửi tin duy nhất.
Đành rằng kỹ thuật vô tuyến điện đã tiến triển vượt bực, điện đài gián điệp ngày nay không còn là cái va-li cồng kềnh như trong thế chiến thứ hai nữa. Nó có thể được thu nhỏ bằng cuốn tự điển, bằng nửa hộp bánh bích quy hoặc bằng gói thuốc lá 20 điếu. Nhưng nó có tối tân đến đâu cũng vẫn không được an toàn. Ngày xưa, nó dễ bại lộ vì nó kém tối tân. Ngày nay, nó tối tân hơn. Phản gián khó khám phá hơn. Tuy nhiên chẳng sớm thì muộn nó cũng phải bại lộ.
Phàm truyền tin bằng điện đài, điệp viên trên đất địch thường gồm 3 bộ phận riêng biệt, bộ phận cung cấp tin tức, soạn tin tức thành mật điện, bộ phận giao liên, và bộ phận điện đài có nhiệm vụ đánh bức điện. Bộ phận cung cấp và bộ phận điện đài không biết nhau. Bộ phận điện đài dễ bại lộ nhất. Bộ phận cung cấp quan trọng nhất, nên khi bộ phận điện đài bị lộ, bị bắt thì bộ phận cung cấp tin tức thường có kịp thời giờ để trốn thoát. Đằng này trong trường hợp của Tabê, chàng phải kiêm luôn 3 bộ phận, chàng đi lấy tin tức, chàng soạn thành mật điện và cũng tự tay chàng đánh đi.
Việc kiêm nhiệm này là một lỗi lầm thứ hai của Shinbet. Điều làm các chuyên viên điệp báo ngạc nhiên là không hiểu tại sao Shinbet là cơ quan lão luyện lại phạm 2 lỗi lầm căn bản như vậy. Có lẽ vì Tabê quá tự tin. Tabê đã trở thành yếu nhân ở Đa-mát. Tabê là bạn của tổng thống Syri. Tabê là anh anh tôi tôi thân mật với các tướng lãnh cao cấp Syri. Tabê nghĩ rằng không ai dám ngờ vực một người như chàng...
Một đêm mùa thu 1961, ban kiểm thính của sở Phản gián Syri bắt gặp một âm thanh kỳ quặc từ thủ đô Đa-mát phát đi. Phản gián biết đây là điện đài của địch. Nó chỉ kéo dài mấy giây đồng hồ nên ban kiểm thính không ghi âm được. Họ chỉ ghi thời khắc và luồng sóng, rồi kiên nhẫn chờ đợi.
Đêm hôm sau, ban kiểm thính chăm chú nghe ngóng. Không có gì. Trong những ngày, những tuần kế tiếp, họ vẫn không lơi lỏng cảnh giác. Kiên nhẫn vốn là đức tính số một của nghề phản gián. Nhất là phản gián kiểm thính, chuyên tìm điện đài của địch Rồi một đêm kia, họ lại bắt được âm thanh lạ. Nhưng giờ giấc cũng như luồng sóng đã được thay đổi.
Ban kiểm thính nghiên cứu cuộn băng ghi âm. Họ biết đây là một lối truyền tin tinh vi, bức điện thoạt tiên được chuyển thành mật điện, sau đó được đánh đi, khi đánh đi âm thanh của mã-tự chạy qua một cái máy thu băng đặc biệt, máy này chạy với tốc độ cực nhanh làm cho âm thanh của mã-tự đổi khác. Phản gián ghi âm được cũng vô ích. Phải nắm được mật mã, nắm luôn cả máy thu băng mới hiểu được nội dung mật điện.
Ban kiểm thính chia nhau canh chừng không phận Đa-mát. Sau nhiều lần dò dẫm, tính toán, họ đã phăng ra một sự thật động trời: âm thanh kỳ quặc này xuất phát từ tòa biệt thự sang trọng của đại thương gia Tabê, xế dinh thủ tướng. Nhân viên Phản gián ập vào, mục kích một cảnh tượng mà không ai dám ngờ tới, cảnh đại thương gia chống Do thái Tabê đang xử dụng điện đài, gửi tin tức gián điệp về Do thái, trong căn phòng được trang bị máy móc khoa học, kể cả một máy thu băng với tốc độ cực nhanh.
Điệp viên Tabê bị bắt.
Tin Tabê bị bắt về tội làm gián điệp là tin quá quan trọng nên chính phủ Syri không thể bưng bít nổi. Nó lan rộng trong giới thượng lưu Syri như tia lửa trên đường thuốc súng. Chỉ mấy ngày sau thường dân cũng biết mặc dầu nhà chức trách tìm đủ mọi cách giấu diếm. Mọi người đều bàng hoàng, tưởng như mơ ngủ. Một tuần lễ nặng nề trôi qua rồi ngày 24-1-1965, đài bá âm Đa-mát loan đi một tin ngắn về vụ "một tên gián điệp Do thái nguy hiểm vừa bị sa lưới".
Cơn sốt gián điệp làm toàn quốc run rẩy. Phản gián long trọng thông báo là 13 điệp viên Do thái khác bị lột mặt nạ. Những người biết chuyện không tin họ là điệp viên thật sự, chẳng qua chính phủ Syri thừa gió bẻ măng, lợi dụng vụ Tabê để loại trừ luôn phe đối lập trong xứ. 13 điệp viên này bị lôi ra tòa án quân sự, vô tuyến truyền thanh và truyền hình làm rùm beng và toàn thể đều bị treo cổ.
Sau khi Tabê tức Cohen bị bắt, người ta nghe đồn chàng có thể không bị hành quyết. Vợ Cohen với sự trợ giúp của chính phủ Do thái đã mời ông Mét-xi-ê (Jacques Mercier)là một trong những luật sư hữu danh nhất Âu châu để biện hộ cho bị cáo. Luật sư Mét-xi-ê bay từ Ba lê đến Đa-mát và được chính phủ Syri cho phép làm tròn nhiệm vụ bào chữa.
Tại một thành phố ở Âu châu, các viên chức Do thái và Syri bí mật gặp nhau để bàn luận về số phận Cohen. Cuộc dàn xếp này bị tiết lộ ra ngoài. Và tờ Thời báo Chủ nhật (Sunday Times) ở Luân dôn loan tin: "Do thái đề nghị chuộc mạng điệp viên Cohen bằng 28 triệu mỹ-kim, cùng một số xe cam nhông, máy cày và dược phẩm. Nhưng Syri đã bác bỏ. Do thái bèn đề nghị đổi Cohen lấy 10 điệp viên Syri cũng vẫn bị bác bỏ.
Cohen bị mang ra xử tại một phiên tòa quân sự gồm 5 sĩ quan cao cấp do đại tá Đali ngồi ghế chánh thẩm. Phụ tá cho Đali là đại tá Hatum. Cả Đali lẫn Hatum đều là bồ bịch của Cohen. Phiên tòa được cử hành trong bầu không khí bí mật tuyệt đối.
Dư luận trong và ngoài nước sôi sục nên chính phủ Syri đành phải cho phép ký giả săn tin. Cohen và 37 bị cáo khác cùng bị xét xử hôm đó được xuất hiện một lát trên ống kiếng vô tuyến truyền hình. Chính phủ Syri không cho biết tên những bị cáo này. Tuy nhiên, một nguồn tin thành thạo cho hay họ chỉ là những viên chức cấp dưới chịu tội thay cho xếp, và 17 nữ bị cáo có mặt trước vành móng ngựa không hề làm gián điệp. Chẳng qua họ đã tham dự nhưng cuộc vui giật gân thâu đêm do Cohen tổ chức.
Trên máy thu hình. Cohen có vẻ nhợt nhạt và mệt mỏi, song không hề tỏ ra bối rối, lo sợ. Mặt chàng luôn luôn bình thản. Trước khi nhận lãnh nhiệm vụ của Shinbet, Cohen đã đoán trước tương lai. Dĩ nhiên Cohen không nghĩ là mình sẽ bị bắt, bị chết. Nhưng chàng đã biết rõ số phận những điệp viên bị địch bắt.
Cuộc xử án chỉ là một thủ tục lấy lệ. Số phận của Cohen đã được quyết định từ trước. Luật sư Mét-xi-ê không được thông báo giờ giấc phiên xử khai mạc cũng như bế mạc. Và quan tòa cũng không quan tâm đến những lời biện hộ hùng hồn của luật sư.
Rạng đông ngày 18-5-1965, tử tội Cohen bị giải từ xà-lim đến pháp trường thiết lập tại quảng trường Đa-mát. Tín đồ đạo Hồi thường đi lễ sớm, khi Cohen đút đầu vào thòng lọng thì tiếng cầu kinh từ giáo đường kế cận vọng lại rì rầm và những người bán hàng rong trên vỉa hè bắt dầu rước khách. Trên thi thể Cohen treo tòng teng được găm một mẩu giấy trắng đề chữ Ả-rập như sau "bị hành hình về tội chuyển tin tức liên quan đến an ninh cho địch".
Ngày hôm sau, tường thuật vụ xử giảo điệp viên Cohen, một nhật báo Ả-rập hàng đầu ở Be-rút 2 đã viết: "Một sự thật đau buồn là Cohen đã đạt được những thắng lợi kinh hoàng. Nếu Chính phủ Đa-mát nhóm họp buổi sáng để cứu xét và quyết định một vấn đề gì thì ngay đêm ấy Cohen đã báo cáo đầy đủ về Do thái ".
Tử tội Cohen được chôn trong một nấm mồ vô danh ở Đa-mát. Những người bạn xa gần của Cohen trên chính trường Syri đều lần lượt lui vào quên lãng phũ phàng cũng như nấm mồ vô danh ấy. Tổng thống Hafê bị mất chức và nằm tù. Đại tá Hatum kém may mắn hơn là đã bị xử bắn. Họ bị nằm tù hoặc bị xử bắn chẳng phải vì họ có liên hệ đến điệp viên Cohen. Lên voi xuống chó vẫn là truyền thống chính trị ở Syri.
Sự hy sinh của Cohen không đến nỗi vô ích. Đồn binh Golan đã rơi vào tay Do thái. Con đường ngoằn ngoèo, nhỏ xíu từ thung lũng lượn qua kẽ đá hiểm trở không còn nữa. Công binh Do thái đã ủi đắp thành con đường lớn giốc thoai thoải, quân xa lên xuống dễ dàng. Sau 20 năm thung lũng Hulê sống trong tiếng đạn pháo kích rùng rợn, giờ đây hòa bình đã vãn hồi. Du khách từ phương xa đến thăm đồn Golan trên đỉnh núi do binh sĩ Do thái trấn giữ đều nhìn thấy rải rác khắp nơi những xác đen xe tăng, xe bọc sắt và xe ủi đất, di tích của trận công đồn ác liệt và kỳ lạ.
Dĩ vãng dường như còn lảng vảng đâu đây. Đêm đêm, lính gác trên mỏm đá cheo leo vẫn nghe tiếng gió hú. Có lẽ đó là linh hồn siêu điệp viên Tabê tức Cohen, anh hùng điệp báo của một dân tộc bé nhỏ, bị vây bọc tứ bề nhưng không bao giờ chiến bại.
1 Tên người này là Sheik Majed el Ard.
2 Nhật báo El Hayat, xuất bản tại Beirut- Li-băng.
Z.28 - 13 Giờ Định Mạng Z.28 - 13 Giờ Định Mạng - Người Thứ Tám Z.28 - 13 Giờ Định Mạng