Nguyên tác: Walden
Số lần đọc/download: 0 / 32
Cập nhật: 2023-06-22 21:34:40 +0700
8.Làng
S
au khi xới đậu, hoặc đọc và viết, vào buổi chiều tôi thường tắm lần nữa trong đầm, bơi sang bờ kia kiếm một con dẽ giun, và rửa sạch bụi bặm lao động khỏi cơ thể, hay làm dãn những nếp nhăn khi nghiên cứu, và cả buổi chiều tôi hoàn toàn tự do. Mỗi ngày hoặc hai ngày một lần tôi cuốc bộ vào làng [317] để nghe mấy câu chuyện phiếm không ngừng lưu hành ở đó, từ mồm này sang mồm khác, từ báo này sang báo khác, những chuyện ấy, với một lượng rất nhỏ, luôn luôn làm mình khoan khoái như tiếng xạc xào của lá hay tiếng uôm uôm của ếch nhái. Khi đi trong rừng tôi nhìn chim và sóc, còn khi đi trong làng tôi nhìn đàn ông và bé trai [318], thay vì nghe tiếng gió reo trong lá thông tôi nghe tiếng xe bò lạch cạch. Theo một hướng đi từ nhà tôi có một bầy chuột nước trong những bãi cỏ ven sông; dưới những lùm cây du và cây đước phía xa xa là một làng của những người bận rộn, đối với tôi cũng kì lạ như thể họ là những con chó đồng hoang, mỗi con ngồi trên miệng hang của mình, hoặc chạy sang nhà hàng xóm để chuyện vãn. Tôi thường xuyên đến đó để quan sát những thói quen của họ. Với tôi làng giống như một phòng thông tin lớn; ở một phía của nó, để sinh sống, như trước đây ở Redding & Company's trên State Street [319], họ bán quả hạch nho khô, muối, bột và các hàng tạp phẩm khác. Một số người rất thích đồ cũ, tức là những tin tức cũ, và có những cơ quan tiêu hóa khỏe đến mức họ có thể ngồi mãi trên những phố đông người mà không hề động đậy, và để nó sôi sục và xì xào qua họ như những ngọn gió Etesia [320] hay như thể hít ête, chỉ để gây tê và làm mất cảm giác đau – nếu không sẽ thường xuyên đau khi nghe mà không động đến ý thức. Những khi ngao du qua làng, tôi luôn thấy một hàng những người đáng kính như thế, hoặc ngồi trên một cái thang để sưởi nắng, cả thân người nhao tới trước, mắt thì dán vào hàng chữ với vẻ khoái chí, hoặc nếu không thì tựa người lên kho thóc, hai tay thọc vào túi, giống như những cột tượng đàn bà, như thể muốn đỡ nó. Họ thường ở ngoài đường, nghe bất cứ tin tức nào trôi nổi. Đó là những máy nghiền thô nhất, trong đó tất cả những chuyện tầm phào trước hết được tiêu hóa một cách sống sượng, hay được nghiền giập trước khi được đẩy vào những cái phễu tinh xảo hơn bên trong những cánh cửa. Tôi đã thấy rằng phần nhu yếu của làng là những hiệu tạp hóa, những tiệm rượu, nhà bưu điện và nhà băng; và, như một phần cần thiết của bộ máy, họ giữ một cái chuông, một khẩu súng lớn, một xe cứu hỏa, ở những nơi thuận tiện; và những ngôi nhà được bố trí sao cho để nhìn rõ nhất những người từ nơi khác đến, đi thành hàng và đối đầu nhau, và mỗi du khách phải chịu hình phạt, để cho mọi đàn ông đàn bà và trẻ nhỏ có thể cho anh ta một cú đấm hay đá [321]. Tất nhiên những người đứng gần đầu hàng nhất, nơi họ có thể nhìn và bị nhìn nhiều nhất, chịu những đòn đầu tiên đánh vào anh ta, trả giá cao nhất cho vị trí của mình, còn số rời rạc lộn xộn ở ngoài rìa, nơi hàng bắt đầu thưa thớt hơn, thì có thể vượt qua những bức tường hoặc lách ra ngoài vào những con đường của bò ngựa và trốn thoát, chỉ phải trả khoản phí rất nhẹ [322]. Những bảng hiệu được treo lên ở mọi phía để cám dỗ anh ta, một số tóm được anh ta bằng sự thèm ăn, như các tiệm rượu và quán ăn, một số bằng sở thích, như các cửa hàng đồ khô và đồ trang sức, số khác bằng tóc hay chân hay váy, như tiệm cắt tóc, tiệm giày, tiệm may. Ngoài ra còn có những lời mời đáng sợ hơn, mời vào thăm mọi người trong những ngôi nhà ấy, và những cuộc hội họp bạn bè được mong đợi trong những thời gian ấy. Phần lớn tôi thoát một cách kì diệu khỏi những nguy hiểm ấy, hoặc bằng cách tạo ra ngay lập tức một mục tiêu ngẫu hứng, và, như một lời khuyên cho ai bị rơi vào hình phạt này, hoặc để đầu óc nghĩ đến những điều cao siêu, như Orpheus [323], người "Cất cao giọng hát ca ngợi các vị thần bằng chiếc đàn lyre của mình, nhấn chìm những giọng hát của các Nàng tiên cá [324], và thoát khỏi nguy hiểm". Đôi khi tôi bỏ trốn, và không ai biết tôi đang ở đâu, vì tôi không cố tỏ ra phong nhã, và không ngần ngại trước một lỗ hổng trong hàng rào. Thậm chí tôi còn quen với việc ghé chớp nhoáng vào một ngôi nhà, ở đó tôi được tiếp đón tử tế, và sau khi đã biết những cốt lõi, và cả một sàng những tin tức cuối cùng, đã được tóm lược, những viễn cảnh chiến tranh và hòa bình, và liệu thế giới có được gắn kết lâu dài hơn không, tôi liền rút ra qua những con đường bên cửa hậu, và thoát trở lại rừng.
Thật thú vị khi tôi nán lại khuya trong thành phố, lao mình vào bóng đêm, nhất là những khi trời tối và dông bão, và từ một phòng trọ sáng sủa trong làng hay một phòng giảng kinh, với một bao lúa mạch đen hay bột xay thô trên vai, căng buồm phóng về bến cảng ấm cúng của tôi trong rừng, và sau khi đã cài chặt cửa ngoài, rút xuống hầm tàu với cả một thủy thủ đoàn những ý nghĩ vui vẻ, chỉ để lại con người bên ngoài của tôi ở khoang lái, hoặc buộc tay lái lại khi tàu chạy thẳng. Tôi có một ý nghĩ vui tươi bên lò sưởi trong nhà khi tôi "căng buồm lướt sóng". Tôi không bao giờ bị ném ra khỏi khoang, cũng không đau buồn trong bất kì thời tiết nào, mặc dù tôi đã đụng với vài cơn bão khốc liệt. Ngay cả trong những đêm bình thường, trong rừng trời cũng tối hơn phần lớn người ta nghĩ. Tôi phải thường xuyên nhìn lên qua khoảng trống giữa các cây bên đường để biết lối đi, và vì không có đường xe chạy, tôi phải để bàn chân cảm được mặt đường không rõ của con đường mà tôi đã đi mòn, hoặc được dẫn hướng bằng những cái cây quen thuộc mà tôi phải sờ bằng tay, chẳng hạn đi giữa hai hàng thông, cách nhau không quá mười tám inch, ở giữa rừng, lúc nào cũng thế trong những đêm trời tối nhất. Đôi khi, sau khi về đến nhà khuya khoắt trong một đêm tối đen và lầy lội, khi chân tôi phải tìm đường khi mắt không nhìn thấy gì, tôi mơ đi và hoàn toàn lãng trí cho đến khi thức tỉnh vì phải giơ tay nâng then cửa, tôi không thể nhớ lại nổi một bước chân trong cả quãng đường tôi đi, và tôi đã nghĩ rang có lẽ cơ thể tôi có thể tìm thấy đường về nếu chủ của nó bỏ rơi nó, như bàn tay biết đường đưa tới mồm không có gì trở ngại. Nhiều lần, khi một vị khách tình cờ ở lại đến tối và ngoài trời thì rất tối, tôi phải dẫn ông ta ra con đường xe chạy sau nhà, và chỉ hướng ông ta sẽ phải đi, và nhắc ông phải chú ý dò đường bằng chân hơn là bằng mắt. Một đêm tối trời như thế tôi đã chỉ đường cho hai thanh niên sau khi họ câu cá trên đầm. Họ sống cách khoảng một dặm phía bên kia rừng, và rất quen con đường này. Vài hôm sau đó một trong hai người kể với tôi rằng họ đã lang thang trong rừng gần hết đêm, gần nhà rồi mà mãi sáng hôm sau mói về đến nhà, trong thời gian đó, có nhiều trận mưa rào nặng hạt, lá cây rất ướt, và họ bị ướt sạch. Tôi nghe nói có nhiều người lạc đường ngay trong thị trấn, khi bóng đêm tối tưởng có thể cắt ra từng miếng, như người ta thường nói. Một số người sống ở ngoại ô, vào thị trấn bằng những xe bò của họ để mua hàng, đã phải trọ lại qua đêm, và những quý ông quý bà đi thăm nhau đã đi lạc cả nửa dặm, phải lay chân dò tìm vỉa hè, và không biết phải rẽ khi nào. Đi lạc trong rừng bất cứ lúc nào, cũng là một sự ngạc nhiên đáng ghi nhớ, cũng như là một kinh nghiệm quý. Thường trong những trận mưa tuyết, ngay giữa ban ngày, người ta sẽ đi chệch ra khỏi con đường quen thuộc, và không biết đường nào dẫn đến thị trấn. Mặc dù anh biết anh đã đi nghìn lần qua đó, anh không nhận ra được một đặc điểm nào, và anh cảm thấy lạ lùng như đang đi trên một con đường ở Siberia. Ban đêm, tất nhiên tình trạng lúng túng còn khiếp hơn. Trong những cuộc dạo bộ tầm thường nhất của chúng ta, dù không ý thức, chúng ta thường lái như những hoa tiêu nhờ những đèn hiệu à những mũi đất, và nếu đi ra ngoài hành trình thông thường chúng ta vẫn mang trong tâm trí phương vị của môt số mũi đất kề cận; và chỉ đến khi hoàn toàn mất phương hướng, hoặc quay tròn - vì mỗi người sẽ một lần được quay tròn với đôi mắt nhắm khi họ mất đi trong thế giới này - chúng ta mới biết cảm kích cái bao la và cái kì lạ của Thiên nhiên. Mọi người đàn ông phải biết những điểm trên la bàn mỗi khi thức dậy, từ giấc ngủ hay từ sự lơ đãng. Chỉ đến khi bị lạc, nói cách khác, chỉ đến khi ta bị lạc mất thế giới này, chúng ta mới bắt đầu đi tìm bản thân mình, và nhận ra chúng ta đang ở đâu, nhìn thấy khoảng rộng vô hạn của những mối quan hệ của chúng ta.
Một buổi chiều gần cuối mùa hè đầu tiên, khi vào làng để lấy chiếc giày từ thợ chữa giày, tôi bị bắt giữ và đưa vào nhà giam vì, như đã kể ở một chỗ khác [325], tôi không đóng thuế cho, hay thừa nhận thẩm quyền của, cái nhà nước mua bán đàn ông, đàn bà, trẻ em, như bán trâu bò ngay bên cửa của nhà Thượng viện. Tôi đã đi vào rừng vì những mục đích khác. Nhưng một con người đi bất cứ đâu, thì sẽ có nhiều người đuổi theo hắn và quấy rối hắn bằng những thể chế bẩn thỉu của họ, và, nếu có thể, họ sẽ bắt hắn theo cái hội những người kì quặc [326] ghê gớm của họ. Thật ra, tôi có thể phản kháng mãnh liệt với ít hay nhiều hiệu quả, có thể điên cuồng chống đối cái hội ấy; nhưng tôi thích rằng cái hội ấy, cái đảng tuyệt vọng ấy điên cuồng chống lại tôi hơn. Tuy nhiên, hôm sau tôi được thả, lấy được chiếc giày đã chữa và trở về kịp bữa tiệc việt quất trên đồi Fair-Haven [327]. Nó không bao giờ bị quấy nhiễu bởi bất cứ ai trừ những người đại diện cho nhà nước. Tôi không có chiếc khóa hay chiếc then cửa nào ngoài bàn viết, nơi cất giữ nhiều giấy tờ của tôi, không có ngay cả một cái đinh đóng trên các cửa sổ. Cả ngày lẫn đêm tôi không bao giờ chốt cửa, mặc dù tôi có thể vắng nhà nhiều ngày liền, ngay như mùa thu khi tôi ở lại trong rừng Maine hai tuần. Thế nhưng nhà tôi được tôn trọng hơn là nếu có hai hàng lính gác. Những người khách bộ hành mệt nhọc có thể nghỉ và sưởi ấm bên bếp lửa nhà tôi, người có học thì tìm thú vui cho mình với mấy quyển sách trên bàn của tôi, hay người tò mò, mở chạn xem còn gì sót lại sau bữa ăn của tôi, hoặc tôi có gì để cho bữa tối. Tuy nhiên, mặc dù nhiều người thuộc mọi tầng lớp đi theo lối này ra đầm, tôi không gặp chuyện gì bất tiện từ họ, và tôi không bao giờ mất thứ gì trừ một cuốn sách nhỏ, một tập Homer có lẽ do mạ vàng quá nhiều, mà tôi cho là đã bị lọt vào mắt một người lính trong doanh trại. Tôi tin rằng nếu tất cả mọi người đều sống đơn giản như tôi đã sống thì chẳng ai biết đến trộm cắp nữa. Trộm cắp chỉ xảy ra trong những cộng đồng khi một số người quá thừa thãi trong khi những người khác quá thiếu thốn. Những cuốn Homer của Pope [328] sẽ được phân phát thích hợp:
Nec bella fuerunt,
Faginus astabat dum scyphus ante dapes.
Con người sẽ chẳng biết đến chiến tranh
Khi họ chỉ cần những chiếc bát bằng gỗ sồi.
“Người cai trị, người cần gì dùng hình phạt? Hãy yêu đức hạnh, thì dân sẽ có đức hạnh. Những đức hạnh của người bề trên thì như gió vậy, đức hạnh của người bé mọn thì như cỏ, cỏ sẽ rạp mình khi có gió thổi qua" [329].