Vẻ hào nhoáng sang trọng là thứ mà mọi người luôn ao ước, nhưng chính sự trưởng thành trong khó khăn mới thực sự làm người ta ngưỡng mộ.

Francis Bacon

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 168 / 18
Cập nhật: 2020-01-25 21:21:26 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7 - Làm Đẹp
ulia hét lên với em trai:
“Nhanh lên, đằng nào cũng chẳng có ai đâu!”
Jason thở hổn hển, nó đạp thêm một vòng nữa, khiến chiếc xe đạp mới kêu leng keng.
Chiếc xe mang đậm phong cách nhà Bowen với màu hồng rực, tay lái có hình con bướm và chi tiết trang trí cuối cùng là một loạt chuông nhỏ ồn ào treo lủng lẳng trên bàn đạp.
Vừa đến những ngôi nhà đầu tiên của Kilmore Cove, Jason đã nhảy phắt xuống đất.
“Chúng ta đến nơi rồi,” cậu nhóc quả quyết. “Mình sẽ đi bộ dẫn đường!”
Nhìn nó nhăn nhó như vậy, Julia phì cười.
“Nghiêm túc đấy!” Cậu em trai trả lời. “Em không thể để mọi người trông thấy em trên cái xe đạp này! Chị không thể đi nó sao? Đây là xe của BỌN CON GÁI!”
“Người làm hỏng xe là em. Vì thế cái xe của nhà Bowen dành cho em. Phải không, Rick?”
Cậu nhóc tóc đỏ khúc khích cười đồng tình với lý lẽ của Julia. Rick đã cầm chắc một chỗ trong sổ đen những người bạn phản bội của Jason Covenant.
Chúng đi qua một nhóm ngư dân đang ngồi chơi trên những chiếc ghế xếp xiêu vẹo tán chuyện phiếm với nhau. Jason cố bước đi với vẻ đường hoàng trước mặt họ, cậu tỉnh bơ đẩy chiếc xe đạp nữ, nhưng không sao kìm được ý nghĩ rằng tất cả những nụ cười phía sau đều hướng về mình.
Để Rick dẫn đường, hai chị em sinh đôi bỏ lại đại dương phía sau lưng, tiến vào một trong những con ngõ dẫn tới trung tâm ngôi làng.
Mặt đường lát đá, những ngôi nhà trắng với cửa sổ được trang trí bằng khung cửa sơn màu xanh da trời và vàng, những ban công tràn ngập các loại hoa thơm nức.
Chúng đi qua một cửa hàng bánh ngào ngạt một mùi hương khó cưỡng, rồi một cửa hàng bán rau quả với bà chủ đang ngồi bên ngoài phơi nắng. Bà nồng nhiệt chào Rick, cô bạn gái và cả thằng nhóc dắt cái xe đạp màu hồng nực cười...
Con đường nhỏ chia thành hai ngả đều dẫn đến bức tượng vua William Đệ Ngũ cưỡi trên lưng ngựa. Đó là một công trình uy nghi tráng lệ, khắc họa hình ảnh vị vua đang cưỡi ngựa phi ra biển. Jason và Julia, vốn chưa từng nhìn thấy bức tượng trước đó, thấy nó đặc biệt cuốn hút và thân quen đến lạ kỳ.
Rick dẫn chúng đi tiếp rồi dừng lại ở một quảng trường, nơi có những chiếc bàn xinh xắn của một quán trọ nhỏ. Sau khi định hướng xong, cậu bé lại tiếp tục đi.
“Đây rồi! Gwendaline Mainoff, hẳn là đây rồi,” bỗng cậu thốt lên khi dừng lại trước một cửa hàng với hai tấm biển.
Một tấm biển ghi: Uốn Tóc Thượng Hạng. Tấm còn lại là: Cạo râu và cắt tóc dành riêng cho nam giới.
Ở cửa hàng đó, dưới mỗi tấm biển có một cửa kính với lối vào riêng.
“Bọn mình vào bên nào trước đây?” Rick hỏi.
“Mình sẽ thử Uốn Tóc Thượng Hạng,” Julia nói.
Cô bé dựng xe đạp rồi vén tấm mành cửa được tạo thành từ những chuỗi ngọc trai nhựa.
“Còn mình sẽ thử Cạo râu và cắt tóc dành riêng cho nam giới,” Rick quyết định.
Mặt mũi Jason tối sầm lại, vì phải ở bên ngoài trông xe.
“Xin chào quý bà!” Gwendaline bật dậy khi Julia vừa mới đặt chân vào bên trong cửa hàng. “À, chào cô em.”
Đó là một cô gái xinh đẹp, có nụ cười tươi và đôi mắt to. Mái tóc màu đen tuyệt đẹp rủ xuống hai bên má một cách hài hòa.
“Chào chị,” Julia chào đáp lại.
“Em ngồi đi,” cô thợ uốn tóc chỉ cho Julia một chiếc ghế bành loại nhỏ đặt trước một tấm gương. - Xin lỗi, em chờ một lát nhé...
Gwendaline biến mất phía sau cánh cửa hậu và xuất hiện ở cửa hàng liền kề, trước mặt Rick.
“Xin chào!” cô cất tiếng chào.
Sau khi nhìn cậu nhóc rồi suy xét một lát, cô nói:
“Chẳng phải em là con trai bà Banner sao?”
“Vâng, em đúng là...”
“À, mẹ em lúc nào cũng nói em là cục cưng của bà và em học rất giỏi! Em vui lòng ngồi chờ một lát được không? Chị đang có một khách hàng ở bên kia.”
Lúc ấy, Rick nhanh nhảu giải thích rằng nó và Julia đến cùng nhau. Ấy vậy mà Gwendaline lại hiểu nhầm thông tin đó và cất luôn nó vào kho những chuyện ngồi lê đôi mách của mình với tựa đề “đôi tình nhân nhỏ tuổi mới nổi”.
“Thế à... Vậy thì đi theo chị nào!” Cô nói rồi dẫn đường cho nó sang bên cửa hàng Uốn Tóc Thượng Hạng.
Khi tất cả đã ở đó, Rick mới hỏi cô:
“Sao chị lại mở đến hai cửa hàng làm gì ạ?”
Gwendaline bật cười:
“Đơn giản thôi, vì các quý bà không bao giờ chấp nhận để cánh đàn ông nhìn thấy họ trong bộ dạng còn nguyên những chiếc lô trên đầu, còn đàn ông thì không đời nào để một thợ uốn tóc nữ cạo râu cho mình cả.”
“Chị nói chí lý!” Julia đồng tình.
Gwendaline đã truyền cho cô cảm giác dễ mến ngay tức thì.
“Chị bắt đầu từ ai trong hai đứa nhỉ?” Gwendaline hỏi, tay đã cầm sẵn lược và kéo.
“Thực ra bọn em...”
Cô thợ uốn tóc gõ hai nhịp chân xuống đất rồi ngắm nghía kỹ nữ khách hàng trẻ tuổi của mình:
“Xin lỗi, nhưng em... chẳng phải em là một trong hai chị em sinh đôi người London ư?”
“Em là Julia Covenant, rất hân hạnh!”
Vừa bắt tay cô bé thật chặt, Gwendaline vừa quay ra nháy mắt với Rick đầy ẩn ý như để nói với nó “Cưa giỏi đấy, anh bạn trẻ ạ!”
“Còn em trai em đâu?”
“Em ấy đang ở ngoài ạ.”
Gwendaline vén tấm rèm mời cậu nhóc vào trong. Cho đến lúc đó, Jason vẫn còn tỏ ra miễn cưỡng dù chỉ là thò mặt vào một cửa hiệu uốn tóc nữ, nhưng ngay khi trông thấy vẻ xinh đẹp của cô thợ làm đầu, cậu đã bật dậy như một cái lò xo.
“Chỗ này dễ thương thật...,” cậu nhóc thầm thì với Rick khi bước vào trong.
Một lúc sau cậu đã yên vị trên chiếc ghế bành, với một chiếc khăn trắng quàng quanh cổ còn cây kéo của Gwendaline Mainoff đang nhảy múa trên mái tóc.
“Oblivia Newton ư?” Cô thợ uốn tóc hỏi, sau đó mười lăm phút, trong lúc nhét vào túi chỗ tiền công cắt tóc nhận từ Julia. “Tất nhiên là chị biết. Cô ấy là khách hàng của chị.”
“Ôi! Ôi!” Trong lúc đó Jason cứ nhắc đi nhắc lại rồi thì làm dáng trước gương.
Trên đầu cậu là một tác phẩm điêu khắc kỳ quặc bằng tóc và keo vuốt tóc.
“Vậy chị có thể cho bọn em biết cô ấy sống ở đâu không?”
“Đương nhiên rồi,” Gwendaline vừa trả lời vừa bước ra khỏi cửa hàng. “Các em đi bộ hay...?”
“Xe đạp ạ.”
“Tuyệt, bởi vì nhà cô ấy khá xa. Đầu tiên các em phải quay trở lại con đường ven biển, phía sau bến cảng ấy. Hoặc là các em đi lên theo lối trên này rồi rẽ vào trước cửa hàng sách của chị Calypso...”
“Tốt hơn là không ạ! Bọn em nên tránh gặp cô Calypso...” Rick nhanh miệng nói khi nghĩ lại lời hứa với người thủ thư ngày hôm trước cốt để cô mở cửa Bưu điện cho chúng vào.
“Sao lại phải tránh mặt người phụ nữ nhỏ bé hiền lành như Calypso nhỉ?” Cô thợ uốn tóc tò mò hỏi.
“Vì bọn em đã hứa với cô ấy sẽ đọc ba cuốn sách trong vòng một tuần, nhưng đến giờ bọn em vẫn chưa bắt đầu.”
“Trong trường hợp này...” Gwendaline mỉm cười, “các em hãy quay lại quảng trường có tượng đức vua ấy. Rồi đâm thẳng ra con đường dọc bờ biển. Đến chỗ đó, các em rẽ phải. Dễ lắm! Chỉ cần đi làm sao cho biển lúc nào cũng nằm bên tay trái bọn em là được. Các em cứ ra khỏi làng rồi đi vài cây số, băng qua con đường đất Đồng Hồ Cú và đi tiếp thêm bốn, năm cây số nữa. Rồi đến một chỗ các em sẽ thấy một khu rừng nhỏ với những loài cây kỳ lạ. Thật ra chị chưa bao giờ nhớ được tên của chúng, nhưng Oblivia từng nói với chị là cô ấy mang chúng về từ một vài vùng đất ở nước ngoài... Nhà cô ấy đẹp và hiện đại lắm. Nó trông hệt như một cái bánh úp ngược, toàn màu tím. Các em không thể nào nhầm được đâu.”
Ba đứa trẻ cảm ơn rồi leo lên xe đạp. Jason hào hứng với diện mạo mới của mình tới mức quên bẵng cả chuyện lằng nhằng với cái xe đạp của ông bà Bowen, nó lên xe rồi đạp nhanh như tên, bấm chuông inh ỏi không dứt.
Gwendaline Mainoff nhìn bọn trẻ khuất bóng giữa những con đường làng, sau đó cô quay vào cửa hàng “hai trong một” của mình. Cô ngồi trước tấm gương lớn và bắt đầu đọc cuốn sách gần một nghìn trang về gia đình Buddenbrock (2)
2. Tiểu thuyết Gia đình Buddenbrock của Thomas Mann (1875-1955)
Rick, Jason và Julia đi qua bức tượng đức vua rồi lao thẳng vào con đường bên phải, một con ngõ nhỏ có những mái nhà gần như chạm vào nhau. Khi chúng tới đoạn đường được mở rộng, nơi có những ngôi nhà cũ kỹ bằng đá trông ra thì một người phụ nữ mặc nguyên đồ ngủ đứng chặn giữa đường ra hiệu cho chúng dừng lại.
“Đi chậm lại!” Bà hét lên. “Các cháu sẽ đâm phải Marco Aurelio mất thôi!”
“Bác Biggles!” Rick nhanh chóng nhận ra bà cụ, liền xuống xe ngay lập tức. “Chuyện gì xảy ra với bác vậy?”
Người phụ nữ đi loanh quanh khắp con phố trong bộ dạng tóc tai bù xù, mặc áo ngủ và chân vẫn còn xỏ dép lê, bà nhìn ngó xung quanh với vẻ bồn chồn lo lắng.
Rick bước lại gần để bà có thể nhận ra mình nhưng bà không thể tập trung vào cậu nhóc.
“Marco Aurelio sổng ra ngoài mất rồi!” Bà rền rĩ đưa hai tay ôm mặt.
“Bà già này chui từ đâu ra ấy nhỉ?” Jason hỏi chị gái.
“Suỵt!”
Sau nhiều lần cố gắng giải thích nhưng vô ích, bà Biggles chỉ cho bọn trẻ bóng dáng con mèo đang đứng chơ vơ trên đỉnh một cột đèn cong cong ở lề đường bên kia.
“Nó đang hoảng loạn! Nó chẳng muốn xuống khỏi chỗ đó!”
“Bác cứ yên tâm, để chúng cháu lo chuyện này,” Rick đề nghị giúp đỡ. “Chỉ loáng một cái là bọn cháu mang nó xuống cho bác thôi ạ.”
Trước tình huống chen ngang đột ngột đó, Jason càu nhàu:
“Thực ra bọn cháu phải đến nhà Oblivia Newton!”
Nghe thấy cái tên đó, bà Biggles đột nhiên ngoảnh mặt lại với ánh mắt còn lo lắng hơn lúc nãy.
“Cô Newton à?! Vậy thì các cháu đi đi, lẹ lên!”
“Bác biết Oblivia Newton à?” Julia tò mò hỏi.
“Tất nhiên là ta biết cô ta! Ta biết cô ta, ta biết cô ta chứ...” Bà Cleopatra Biggles lẩm bẩm.
Bà bịt hai tai lại rồi chạy nhanh về nhà.
Lúc về đến cửa ngôi nhà cũ bằng đá, bà quay mặt lại phía bọn trẻ và hét lên:
“Chính cô ta đã khiến Marco Aurelio và mấy cục cưng của ta hoảng sợ đến vậy! Là lỗi của cô ta và gã đàn ông đen sì ướt nhẹp!”
Thế rồi bà mở toang cánh cửa. Hàng chục con mèo kêu meo meo chạy túa ra, rối rít cọ cọ người vào chân rồi cào cào gấu váy ngủ của bà.
“Ngoan nào, ngoan nào!” Bà vuốt ve lần lượt từng con. “Rồi các con xem, Marco Aurelio sẽ quay về sớm thôi!”
“Nói lúc nào cũng dễ...” Rick giờ đã ở dưới chân cột đèn, hổn hển nói.
Con mèo đang bám vào tay đèn nhìn xuống nó với vẻ lãnh đạm và trịch thượng.
Nó không hề mắc bẫy trước những lời đường mật hay những mệnh lệnh kiên quyết và cũng chẳng thèm bận tâm khi Rick quyết định liều mạng trèo lên cột đèn.
Cuối cùng, trong khi bà Cleopatra Biggles còn đang bận thủ thỉ mấy lời dỗ dành với Cesare và Antonio, còn Rick với Julia đang cố thuyết phục Marco Aurelio leo xuống, thì Jason mất hết kiên nhẫn, cậu nhóc tung luôn một cú đá vào cột đèn.
Sợ hãi vì tiếng động bất ngờ, Marco Aurelio mất thăng bằng, dúi về phía trước, rơi xuống đất trong những tiếng gầm gừ đe dọa. Một lát sau nó chạy biến về nhà, luồn qua chân bà Biggles rồi chui tọt vào bên trong.
“Marco Aurelio!” Bà hân hoan nói. “Mày về rồi!”
“Đến lúc rồi đó...” Jason thêm vào.
Bà Biggles cứ khăng khăng mời bọn trẻ vào nhà và cảm ơn chúng bằng vài chiếc bánh quy. Mặc dù cả ba đứa đều từ chối nhưng người phụ nữ ấy vẫn kiên quyết mời bằng được.
“Lại đây nào các cháu! Hãy vào bếp nào!” Bà nói và dẫn đường cho bọn trẻ. “Ta còn bánh quy ngon lắm...”
Julia là đứa đầu tiên bước theo bà, cô tò mò muốn biết Oblivia Newton thì có liên quan gì đến việc con mèo chạy trốn. Rick, đứa không bao giờ biết từ chối bất cứ người nào lịch sự yêu cầu cậu làm việc gì đó, cũng bước vào ngay sau đó. Jason là đứa cuối cùng di chuyển, nó thở hắt ra thành tiếng.
Rồi cậu nhóc nghĩ, xét cho cùng cũng đã sắp đến giờ ăn trưa, và theo kế hoạch chúng sẽ còn phải đạp xe một quãng đường dài ra khỏi Kilmore Cove, nên có gì đó bỏ vào miệng cũng không phải là một ý tồi.
Chúng bước vào phòng khách, rồi đi qua hành lang ngăn giữa phòng khách và phòng bếp.
Đến giữa hành lang, Jason cảm thấy có những hạt cát lạo xạo dưới đế giày.
Ban đầu cậu nhóc chẳng để ý lắm. Rồi gần như vô thức, nó ngoảnh lại xem chúng từ đâu ra.
Bà Cleopatra Biggles vào bếp mở một chiếc hộp thiếc in hoa.
“Đây rồi! Bánh quy bơ nào!”
“Chết tiệt,” Jason nghĩ, tay vuốt mái tóc phủ đầy keo.
Nó quay gót bước trở lại và cúi xuống chạm vào lớp cát mỏng phủ trên sàn nhà. Những hạt pha lê bé xíu dính vào ngón tay nó, giống y hệt những hạt nó thấy trong căn phòng bằng đá ở Biệt thự Argo.
Cũng là loại cát mịn, gần như không thể sờ thấy đó.
Cát sa mạc. Và nó rơi ra từ khe của một cánh cửa cũ.
“Chết tiệt,” Jason ngẫm nghĩ và lại vò đầu bứt tóc “trông như là Cánh Cửa Thời Gian ở Biệt thự Argo!” Thế rồi nó bật dậy và hét lên:
“RIIIIIIICK! JUUUUUUUULIA!”
Cánh cửa trong hành lang nhà bà Cleopatra Biggles đã cũ rích, nó được làm bằng gỗ đã mòn và có hình dáng thô kệch. Cánh cửa bị đóng chặt và bà Biggles không nhớ đã từng mở nó ra bao giờ chưa hay đã từng sở hữu chiếc chìa khóa nào để mở nó không. Nhưng bà nhớ nó dẫn xuống tầng hầm, dù cho đó chắc hẳn là một căn hầm rất lạ lùng vì thi thoảng từ dưới khe cửa phụt ra những luồng cát và dòng khí nóng.
Bà Biggles chưa từng nghĩ đến việc xuống tầng hầm: có một thời gian, thậm chí bà từng che cánh cửa ấy sau một món đồ nội thất bằng gỗ. Nhưng lũ mèo cứ dùng nó để mài móng nên bà đành mang món đồ ấy đi phục chế.
Những điểm tương đồng với cánh cửa ở Biệt thự Argo thật đáng kinh ngạc: đặc biệt là những cái đinh cũ trên mặt trái ổ khóa đồ sộ giống hệt những cái đinh cố định bốn ổ khóa trên Cánh cửa Thời gian.
Khi Rick và Julia nhìn thấy nó, chúng như ngừng thở.
“Bác Biggles... Cháu không biết bác có thể giải thích rõ hơn cho bọn cháu điều gì đã xảy ra ngày hôm qua không ạ?” Rick lí nhí đầy lễ phép.
Bà chủ nhà bối rối kể lại chuyến viếng thăm lúc nửa đêm của Oblivia Newton và gã đàn ông đen sì ướt nhẹp.
“Là Manfred.” Julia đoán.
Có vẻ như Oblivia đã ngay lập tức tiến thẳng đến cánh cửa đó rồi nói gì đó mà bà Biggles không nhớ rõ, bà quá hoảng loạn nên chẳng thể hiểu được điều gì. Lúc ấy đang có một cơn bão lớn và lũ mèo thì hoảng loạn chạy tứ tán. Bà hoàn toàn không nhớ nổi những gì xảy ra sau đó. Khi bà tỉnh lại thì đã là giữa trưa. Bọn mèo dường như phát điêncòn Marco Aurelio cả ngày cứ đứng trên cột đèn, như thể riêng cái ý nghĩ trở về nhà thôi cũng đã khiến nó hoảng sợ lắm rồi.
“Thậm chí có ai đó đã mở cửa kính trong phòng khách nhà ta!” Bà than phiền. “Thật may là hắn không lấy cắp gì cả...”
“Nhưng bác Biggles ơi, sao bác lại để hai người đó vào nhà vào giữa đêm hôm khuya khoắt vậy?” Julia hỏi.
“Ừ thì, cô Newton thì lúc nào mà chả... khó đoán trước như vậy!”
“Vậy là bác có quen biết cô ta ạ?”
“À, ừ. Dù ta chưa bao giờ quý cô ta cả. Trái với một số người khác...”
“Ý bác là những ai ạ?”
“Chị gái ta. Cô ta là học trò cưng của chị ấy,” bà Biggles giãi bày.
“Học trò ạ? Cháu không hiểu rõ lắm…”
“Chị gái ta từng là giáo viên tiểu học… Ở Cheddar, nơi nổi tiếng với món phô-mai ấy!”
Bà Cleopatra Biggles đi ra phòng khách lấy một bức ảnh cũ được đóng khung, chụp chân dung hai cô bé ngồi cạnh nhau.
“Người trẻ hơn chính là ta. Còn người này... là chị gái Clio của ta. Tên đầy đủ của chị ấy là là Clitennestra Biggles. Chị ấy là người thông minh nhất trong gia đình, phải công nhận là như thế. Chị Clio thích đọc sách: những cuốn sách trong tủ kính đều do chị ấy tặng cả đấy. Và chị ấy còn muốn du ngoạn, khám phá thế giới. Vì thế chị ấy rời Kilmore Cove đến dạy học ở Cheddar. Oblivia Newton hồi ấy là một cô bé rất giỏi giang và đầy triển vọng. Đó chính là nơi họ quen nhau.”
“Rồi sao nữa ạ?”
“Chị gái ta vẫn luôn nhớ nhung Kilmore Cove. Sau nhiều năm, cuối cùng chị ấy cũng quyết định quay về. Vài năm trước, chị ấy thấy trên báo đăng một tấm hình của cô gái mà chị ấy quen biết ở Cheddar và được biết cô ấy đã tạo dựng nên sự nghiệp và trở thành một phụ nữ thành đạt. Clio rất hài lòng về cô học trò. Chị ấy là một người rất giàu tình cảm... Có lẽ chị ấy tin phần nào thành công của cô học trò yêu quý kia cũng có phần công lao của chị ấy... của cô giáo mà cô ta yêu mến! Thế rồi chị ấy gửi cho cô ta một món quà nhỏ. Một hôm Oblivia đã đến nhà cảm ơn chị ấy mà không hề báo trước. Kể từ bấy đến nay cô ta chưa hề ngừng làm như thế, ngay cả sau khi chị gái tội nghiệp của ta qua đời.”
Suốt thời gian bà Biggles kể cho Julia và Rick nghe về thành tích học tập của Oblivia Newton, Jason chỉ ngây người nhìn chằm chằm cánh cửa ở giữa hành lang, như thể bị thôi miên.
“Một Cánh Cửa Thời Gian khác... Thật quá bất ngờ!” Cậu vừa lẩm bẩm vừa vuốt ve mặt gỗ xù xì.
Cậu cảm thấy tim mình đập điên loạn và không còn biết mình đang nghĩ gì nữa. Một mặt cậu rất háo hức với điều vừa khám phá ra, mặt khác cậu lại thấy thất vọng khi biết còn tồn tại một cách cửa thứ hai như vậy ở ngoài nhà mình.
Khi hai đứa kia quay vào thuật lại những thông tin về Oblivia, hầu như Jason chẳng nghe nổi gì. Cậu cứ mải mê nghĩ về cánh cửa, và làm sao để mở được nó.
“Ý em là cánh cửa này cũng dẫn xuống một cái hang và một con tàu như dưới vách Salton Cliff ư? - Julia hỏi.”
“Em nghĩ là vậy.”
“Điều này ít ra cũng giải thích được vì sao Oblivia Newton cũng có mặt ở Ai Cập cổ đại...” Rick lẩm bẩm.
Bà Biggles nhìn bọn trẻ như bị thôi miên. Sau đó, bà lắc đầu buông lời nhận xét:
“Ôi, lũ trẻ thời nay! Tưởng tượng mới phong phú làm sao!”
Rồi bà rời đi để vào cất mấy cái bánh quy khỏi sự chú ý của lũ mèo.
Bà Biggles vừa đi khỏi, Julia liền rút từ trong túi ra những chiếc chìa khóa của Cánh Cửa Thời Gian.
“Bọn mình thử nhé?”
Cả bốn chiếc đều đút lọt ổ khóa nhưng khi chúng xoay vòng thì chẳng có điều gì xảy ra. Cánh cửa vẫn đóng im ỉm.
“Không ăn thua.” Rick nói.
“Mình nghĩ những chiếc này không phải chìa của cánh cửa ở đây.”
“Mình dám cược là Oblivia đang giữ chiếc chìa có thể mở được cánh cửa này.”
Dù rất chậm chạp nhưng mọi thứ đang bắt đầu được xâu chuỗi lại.
“Bọn mình nhất định phải tìm ra cô ta. Giờ này chắc hẳn cô ta đã quay về rồi!”
“Sao em dám chắc điều đó?” Julia xen vào. “Có thể cô ta vẫn đang ở đó. Chẳng phải mọi người nói là cô ta đang tìm kiếm thứ gì đó sao?”
“Đúng, nhưng cô ta đã tìm thấy rồi: chính là tấm bản đồ!”
“Chính xác. Nhưng giờ cô ta đã tìm được nó, có thể cô ta đang chuyển qua tìm thứ gì đó khác ở dưới đó thì sao.”
Rick gật gù.
“Cũng có thể là vậy... Tại sao lại không nhỉ?”
Ngược lại, Jason xem ra rất băn khoăn.
“Mình nhắc các cậu nhớ rằng đó chính là tấm bản đồ đầu tiên và duy nhất về Kilmore Cove, chứng minh nơi này có tồn tại. Nó thuộc về ông bà Moore, và chính ông bà Moore đã mang nó đến Ai Cập để cất giấu nó trong Bộ Sưu Tập. Giờ chúng ta đã có thể chắc chắn về điều đó.”
“Nếu như em nói vậy...” Cô chị lẩm bẩm.
“Tấm bản đồ đó chẳng có tác dụng gì ở Ai Cập cổ đại. Chỉ có ở đây, ở thời đại này, thì nó mới hữu dụng,” Jason vừa nói vừa chỉ vào cánh cửa gỗ. Có đến hai cánh cửa cũ kỹ trong cùng một ngôi làng cổ. Theo mình thì đây không phải là chuyện trùng hợp ngẫu nhiên.
Rồi cậu bỏ lửng những suy nghĩ khác của mình.
“Vậy theo ý cậu là... có thể còn những cánh cửa khác?”
“Tại sao lại không cơ chứ?”
“Trong trường hợp đó thì tấm bản đồ có lẽ mang một ý nghĩa đặc biệt,” Rick khẳng định.
“Điều đó có thể lý giải cho giá trị và niên đại của nó.”
“Thú thật là mình không biết đâu...”
“Cậu còn nhớ nó được vẽ vào ngày nào không, Rick?”
“Năm một nghìn bảy trăm gì đó, nếu mình nhớ không nhầm,” Rick trả lời.
“Các cậu không thấy chuyện đó rất kỳ lạ sao? Ở đây cái gì cũng cổ xưa: ngôi làng cổ, những cánh cửa cũ kỹ, tấm bản đồ lâu năm, và cả... người chủ cũ của Biệt thự Argo!” Jason cười, nó gần như sợ hãi với điều mình đang nghĩ. “Một vòng tròn trọn vẹn.”
“Các cháu có muốn uống một tách trà không, mấy đứa?” Bà Biggles ngó ra từ căn bếp mời chào. “Hay các cháu vẫn muốn tưởng tượng tiếp về Ai Cập cổ đại?”
Mười lăm phút sau, ba đứa rời nhà bà Biggles. Bất chấp những lời từ chối rất buồn cười của bà Cleopatra, rốt cuộc bọn trẻ vẫn thuyết phục được bà kê một cái tủ ngăn kéo trước cửa tầng hầm và chặn không để nó mở ra.
“Chỉ vài ngày thôi ạ,” Rick năn nỉ bà. “Rồi bọn cháu sẽ đến khênh nó ra.”
“Ý tưởng mới kỳ cục làm sao!” Bà vừa cười vừa vuốt ve Marco Aurelio và Cesare, chúng đang ganh với nhau để tranh giành sự quan tâm của bà.
“Và bác nhớ đừng nói chuyện này với ai nhé, bác hiểu ý bọn cháu chứ ạ?” Julia nhắc bà.
Bà Biggles đứng ở cửa chào chúng, sau đó quay trở vào dọn dẹp căn bếp, xếp vào bồn rửa mấy tách trà để đến chiều sẽ rửa, rồi đặt lại hộp bánh quy vào chính giữa cái bàn.
Xong xuôi mọi việc, bà đi qua hành lang và dừng lại một lát trước cái tủ ngăn kéo. Dù tin chắc là nó không hợp với vị trí này, bà vẫn quyết định làm theo lời khuyên của mấy đứa trẻ dễ mến kia.
Trong lúc bước lên tầng trên, giữa âm thanh huyên náo của lũ mèo, bà nghĩ bụng cô bé với cái cậu có mái tóc đỏ trông rất giống nhau.
“Có thể chúng là anh em,” bà tự nhủ. “Dù mình không nhớ là nhà Banner có đến hai đứa con...”
Bà đi về phía phòng tắm, mở toang cánh cửa chớp và bắt Nerone và Caracalla ra khỏi bồn tắm:
“Chúng mày đã tắm hôm qua rồi! Mèo gì mà ưa nước như cá ấy!”
Khi ngước mắt lên tấm gương, bà nhăn mặt lại. Bà bật hết cả hàng bóng đèn bao quanh tấm gương và lơ đễnh chải tóc: nhưng cứ mỗi một lần chải, chiếc lược lại bị mắc kẹt như ở trong bụi rậm. Rồi bà cứ để nó vướng vào tóc như vậy mà đi vào phòng ngủ để thay đồ. Bà phát hiện mình vui vẻ một cách khác thường. Giống như sau cơn sốc và nỗi hoảng sợ tối hôm trước, chuyến viếng thăm của mấy đứa trẻ cuối cùng cũng khiến bà bình tâm trở lại. Thái độ lễ phép của chúng và những câu chuyện kỳ lạ tuổi mới lớn luôn kiếm tìm những cuộc phiêu lưu khiến bà cảm thấy khá hơn.
Và cả cái kiểu làm ra vẻ bí ẩn...
“Bác nhớ đừng nói chuyện này với ai nhé!” Bà Cleopatra Biggles nhại lại giọng nói lo lắng của Julia.
Cô bé đó thật là đáng yêu: Julia khiến cho bà nhớ lại mình hồi bằng tuổi cô bé.
“Mình biết mình cần gì rồi!” Bà Biggles bất chợt thốt lên trong lúc đang mặc váy. “Một kiểu tóc uốn thật đẹp ở chỗ Gwendaline!”
Khi bà chuẩn bị ra khỏi nhà thì điện thoại đổ chuông. Lâu lắm rồi bà không nghe thấy nó kêu, nên ngay khi tiếng chuông đầu tiên cất lên, bà Cleopatra Biggles đã nhảy dựng lên. Bà thậm chí còn mất khá lâu mới nhớ ra đã đặt điện thoại ở đâu.
“Tới đây! Tới đây!” Bà nói với cái điện thoại bằng nhựa màu đen dường như vẫn chưa ngừng đổ chuông. “Alô? Ai đấy?”
Bà nhăn trán một lúc lâu trước khi nở một nụ cười tươi.
“À, anh Nestor! Tất nhiên là tôi còn nhớ anh!” Bà thốt lên. “Thật vinh hạnh được nói chuyện với anh! Không, có chi đâu, anh không hề quấy rầy gì cả...”
Ulysse Moore Tập 3 - Ngôi Nhà Gương Ulysse Moore Tập 3 - Ngôi Nhà Gương - Pierdomenico Baccalario Ulysse Moore Tập 3 - Ngôi Nhà Gương