Nguyên tác: The Gold Hunter
Số lần đọc/download: 1368 / 28
Cập nhật: 2016-11-21 01:11:22 +0700
Chương 8: Viên Đạn Bằng Vàng
N
gồi trước đống lửa, Rod và Wabigoon bắt đầu nhìn lại khía cạnh vui tươi của cuộc sống, và ngay khi Mukoki dựng xong túp lều trại bằng cây vân sam, họ cởi quần áo ra, quấn quanh người những tấm da thú, trong khi người lính già hong khô mớ quần áo ướt. Hai giờ sau họ mặc lại quần áo. Ngay khi họ vừa bước ra khỏi lều, Wabi băng vào bụi rậm và quay trở ra trong vài phút, cầm theo một nhánh bạch dương lớn. Không dấu hiệu đùa cợt nào trên nét mặt của anh khi anh nhìn Rod.
- Cậu thấy thân cây đó chứ? – Anh hỏi, chỉ vào một thân cây lớn ngã ở gần đống lửa – Điều này sẽ làm cậu vừa lòng, Rod. Tốt hơn là đá nhau. Đến đó, cúi người xuống, chổng mông lên. Tôi sẽ quất cậu trước vì tôi muốn cậu biết cậu sẽ quất tôi ra sao. Tôi muốn nó mạnh gấp đôi, vì tôi đáng trách hơn cậu.
Với đôi chút kinh ngạc, Rod gập người qua thân cây.
- Ui cha! Đừng mạnh quá Wabi!
Vút! Nhánh cây vụt xuống, và một tiếng kêu đau đớn thoát ra từ mồm chàng trai da trắng.
Vút! Vút!... Vút!
- Ui cha! Thôi đi!
Wabi hét lớn:
- Đừng động đậy! Nhận lấy nó như một người đàn ông – cậu xứng đáng nhận được điều này!
Nhánh cây liên tiếp vụt xuống. Rod rên rỉ đứng lên khi Wabi đã dừng lại.
- Ồ, đưa cho tôi cái gậy đó!
- Không mạnh quá, cậu biết đó.
Wabi nói, khi anh gập người qua thân cây.
- Tự cậu muốn chết đấy nhé – Rod nhắc nhở, co cánh tay lại.
- Chỉ mạnh gấp đôi thôi, không hơn!
Và nhánh cây bắt đầu vụt xuống.
Khi đã xong, Rod thấy cánh tay ê ẩm, và Wabi, dù có tính khắc kỷ của người da đỏ, cũng phải rú lên một tiếng dài với cú vụt cuối cùng.
Trước toàn bộ quang cảnh đó, Mukoki đứng như một người câm.
Wabigoon hứa, xoa nhẹ mông mình:
- Chúng tôi sẽ không hư nữa, Muky. Nghĩa là, nếu còn như thế, chúng tôi sẽ quất mình lần nữa, phải không, Rod?
Rod bảo đảm với sự nhấn mạnh:
- Không, miễn là tôi có thể chạy! Tôi sẵn lòng giúp cậu một tay bất cứ lúc nào cậu nghĩ cậu xứng đáng bị ăn roi, nhưng ngoài việc đó ra hãy để tôi ngoài cuộc!
Trong suốt một giờ sau cuộc tự trừng phạt của hai chàng thợ săn trẻ, cả ba thu nhặt củi cho buổi tối và những cành vân sam để làm giường. Trời đã tối khi họ ngồi ăn xúp, dưới ánh sáng của đống lửa lớn đốt bằng gỗ dương khô.
- Như thế này tốt hơn là chèo thuyền suốt đêm, dù cho chúng ta suýt chết.
Rod nói, sau khi họ đã dùng xong bữa và nằm nghỉ một cách thoải mái.
Wabi nhăn mặt và nhún vai.
- Cậu có biết cậu đã gặp nguy cơ thế nào không? Nó nguy hiểm đến mức chỉ có cơ may một phần mười ngàn cậu được cứu thoát. Tôi đã tự đu lên khỏi mặt băng bằng cách nắm vào mũi thuyền và khi Muky thấy rằng tôi đã an toàn ông ấy mới tìm kiếm cậu. Nhưng cậu không nhô lên. Chúng tôi tưởng là cậu đã chết cho tới khi những bọt nước hiện lên, và nhanh như chớp Muky thò tay xuống. Ông ấy nắm được tóc cậu khi cậu chìm xuống lần cuối. Hãy nghĩ tới điều đó, và mơ về nó đêm nay. Nó sẽ có ích cho cậu.
Chàng trai da trắng rùng mình.
- Ừ! Chúng ta hãy nói chuyện gì đó vui vẻ hơn. Gỗ cây dương cháy thật rực rỡ
Muloki đồng ý:
- Sáng hơn một ngàn ngọn nến! Sáng thật đấy!
Wabigoon bắt đầu kể:
- Ngày xưa, cách đây nhiều năm, có một vị tù trưởng lớn ở vùng này, và ông ấy có bảy người con gái. Họ xinh đẹp đến nỗi chính Thần linh Vĩ đại cũng phải lòng họ. Và lần đầu tiên sau vô số tuần trăng, ngài xuống cõi trần, và bảo với vị tù trưởng rằng nếu ông ta giao bảy cô gái cho ngài, ngài sẽ ban cho ông ta bảy điều ước lớn. Và, vị tù trưởng, khi giao các cô con gái, yêu cầu được ban cho một ngày không có đêm, và một đêm không có ngày, và ước muốn của ông ta đã được thực hiện; các điều ước thứ ba, thứ tư, thứ năm là mảnh đất này luôn luôn phủ đầy cá và thú lớn, các cánh rừng mãi xanh tươi và dân của ông được cho lửa. Điều ước thứ sáu là ông xin một thứ củi có thể cháy ngay trong nước, và Thần linh Vĩ đại ban cho ông ta cây bạch dương. Điều ước thứ bảy là ông có được một loại gỗ khác, cháy không có khói và có thể mang lại niềm vui và sự thoải mái cho những túp lều của ông – thế là cây dương mọc lên trong các khu rừng. Và nhờ có vị tù trưởng đó cùng bảy cô con gái xinh đẹp, mọi thứ đó trở thành hiện thực cho đến tận ngày nay. Có phải vậy không, Mukoki?
Người lính già gật đầu.
Rod hỏi:
- Thế còn vị Thần linh Vĩ đại và bảy cô con gái xinh đẹp trở thành cái gì?
Mukoki đứng lên và rời đống lửa.
Wabi nói khẽ:
- Ông ấy tin vào điều đó như tin vào mặt trời và mặt trăng. Nhưng ông ấy biết cậu không tin, và tất cả mọi người da trắng chế giễu nó. Ông ấy có thể kể cho cậu nghe nhiều câu chuyện tuyệt diệu về sự sáng tạo ra những cánh rừng và những ngọn núi và vạn vật bên trong chúng nếu muốn. Nhưng ông ấy biết cậu không tin, và sau đó có thể chế giễu ông ấy.
Trong thoáng giây Rod đứng bật dậy.
- Mukoki! – Anh gọi – Mukoki!
Người da đỏ già quay lại và chậm rãi bước tới. Chàng trai da trắng đón ông ở giữa đường, mặt anh ửng đỏ, đôi mắt long lanh.
- Mukoki – Anh nói nhỏ nhẹ, xiết chặt bàn tay của người chiến binh – Mukoki, tôi yêu Thần linh Vĩ đại của ông! Tôi yêu người đã tạo nên những khu rừng rực rỡ, và mặt trăng rực rỡ trên kia, và những ngọn núi, những cái hồ, những con sông! Tôi muốn biết nhiều hơn về ngài. Ông phải kể cho tôi nghe, để tôi có thể biết khi ngài ấy nói với tôi trong những cơn gió, trong những vì sao, trong những cánh rừng! Ông sẽ kể chứ?
Mukoki nhìn anh, đôi môi mỏng của ông hé mở, vẻ mặt hung dữ của ông giãn ra, như thể ông đang đo lường sự chân thành trong lời của chàng trai da trắng.
- Và tôi sẽ kể cho ông nghe về Thần linh Vĩ đại của chúng tôi, Thần linh Vĩ đại của người da trắng – Rod nói nhanh – Vì chúng tôi cũng có một Thần linh Vĩ đại, Mukoki, và ngài đã tạo ra thế giới của người da trắng cũng như Thần linh Vĩ đại của ông đã làm cho ông. Ngài tạo ra trái đất, bầu trời, biển và vạn vật trong sáu ngày. Vào ngày thứ bảy ngài nghỉ ngơi. Và ngày thứ bảy đó chúng tôi gọi là Chúa nhật, Mukoki à. Rồi ngài cũng tạo cho chúng tôi những cánh rừng, như Thần linh Vĩ đại của ông đã tạo chúng cho các ông, chỉ khác thay vì ban chúng để nhận lấy tình yêu của bảy người con gái xinh đẹp, ngài ban chúng vì tình yêu nhân loại. Tôi sẽ kể cho ông nghe những điều kỳ diệu về ngài, Mukoki, nếu ông cũng kể cho tôi nghe về Thần linh Vĩ đại của ông. Thế nhé?
- Được.
Người mở đường già chậm rãi đáp. Gương mặt ông dịu lại, và lần thứ hai Rod hiểu rằng anh đã chạm được vào những tình cảm sâu xa nhất của người đồng hành da đỏ. Họ quay trở lại đống lửa. Wabi dành chỗ cho họ trên khúc gỗ bên cạnh anh. Anh cầm trong tay bản sao của tấm bản đồ cũ bằng vỏ cây bạch dương.
- Tôi đã suy nghĩ về nó suốt cả ngày – Anh nói, trải nó ra để hai người kia có thể nhìn – Dù sao tôi không thể dứt khỏi ý nghĩ trong đầu rằng...
- Sao? – Rod hỏi.
- Ồ, không có gì.
Wabi vội vã nói thêm, như thể anh hối tiếc về điều anh đã nói:
- Tấm bản đồ này khá kỳ lạ, phải không? Tôi tự hỏi có bao giờ chúng ta biết toàn bộ câu chuyện của nó hay không.
Rod tuyên bố:
- Tôi tin rằng giờ đây chúng ta đã biết. Ở nơi đầu tiên, chúng ta tìm thấy nó được nắm chặt bởi một trong những bộ xương. Và chúng ta biết từ vết thương do dao đâm trong những bộ xương đó, và những vũ khí gần họ, rằng hai người đó đã đánh nhau và giết chết nhau. Họ đánh nhau vì tấm bản đồ, vì bí mật quý báu mà mỗi người đều muốn sở hữu một mình. Bây giờ...
Anh cầm lấy tấm bản đồ trong tay Wabi và trải nó ra giữa họ và đống lửa.
- Phần còn lại của nó rõ ràng không?
Cả ba im lặng nhìn vào nó một lúc.
Từ những phác thảo mờ nhạt của bản gốc, nó đã được vẽ lại với sự chính xác cẩn thận.
Với một mảnh gỗ vụn, Rod chỉ lên đầu tấm bản dồ, nơi có ghi những dòng chữ “Căn lều gỗ và đầu hẻm núi.”
Anh lặp lại:
- Còn gì rõ ràng hơn? Đây là căn lều trong đó hai người đã hạ sát lẫn nhau, và là nơi chúng ta tìm thấy bộ xương của họ, và ở đây họ đã đánh dấu hẻm núi trong đó tôi từng bắn con cáo trắng, và từ đó chúng ta phải đi tìm mỏ vàng. Theo đó, chúng ta phải đi cho tới khi chúng ta tới thác nước thứ ba, và tại đó chúng ta sẽ tìm thấy một căn lều gỗ khác, và mỏ vàng.
Wabi đồng ý:
- Mọi thứ dường như rất đơn giản, qua tấm bản đồ.
Bên dưới sơ đồ thô thiển có những dòng chữ. Đó là:
“Chúng tôi, John Ball, Henri Langlois và Peter Plante, đã khám phá ra vàng ở thác nước này, cùng đồng ý ở đây để chia phần bằng nhau và thế chấp chính bản thân chúng tôi để quên đi những khác biệt trong quá khứ và làm việc vì thiện chí và trung thành chung, cầu Thượng đế giúp cho. Đã ký.
JOHN BALL, HENNRI LANGLOIS, PETER PLANTE.”
Xuyên qua cái tên của John Ball, có một đường vạch đen đậm gần phá hủy đi những mẫu tự, và ở cuối vạch này, trong ngoặc kép, là một từ tiếng Pháp, mà Wabi đã dịch lớn hàng trăm lần: “Đã chết!”
Rod nói tiếp:
- Từ những chữ viết tay của bản gốc chúng ta biết rằng Ball là một người có đôi chút học thức. Và không còn nghi ngờ gì, tấm bản đồ bằng vỏ bạch dương do ông ta vẽ. Mọi chữ viết đều do một người, ngoại trừ những chữ ký của Langlois và Plante, và anh khó mà giải mã được những dòng chữ trong những chữ ký này nếu anh chưa biết tên của họ. Từ những dòng này, hoàn toàn chắc chắn rằng chúng ta đúng khi ở căn lều gỗ chúng ta đã kết luận rằng hai người Pháp đã giết chết người Anh để loại ông ấy ra khỏi số thành viên. Câu chuyện này đã đủ rõ ràng chưa?
Wabi đáp:
- Vâng, như cậu đã giải thích. Ba người này đã tìm ra vàng, đã cãi nhau, rồi đã ký kết bản thỏa thuận này, rồi Ball bị giết chết. Hai người Pháp, như Mukoki đã đề xuất, ra ngoài sau đó ít lâu để lấy thực phẩm, và mang chiếc túi da hươu đầy vàng theo. Họ đã đến căn lều gỗ ở đầu hẻm núi khi họ cãi nhau về quyền sở hữu tấm bản đồ và bản thỏa thuận, đã đánh nhau và chết. Từ những khẩu súng cổ và các chứng cứ khác chúng ta đã tìm thấy gần họ, chúng ta biết rằng tất cả những chuyện này đã xảy ra cách đây ít nhất nửa thế kỷ, có khi hơn. Nhưng...
Anh dừng lại, khe khẽ huýt sáo.
- Thác nước thứ ba ở đâu?
Rod đáp, hơi nổi nóng vì sự hoài nghi của người bạn đồng hành:
- Tôi nghĩ chúng ta đã giải quyết điều đó vào mùa đông vừa rồi. Nếu chữ viết chứng tỏ mọi thứ, Ball là một người có học, và ông ta vẽ tấm bản đồ theo một tỷ lệ xích nào đó. Thác nước thứ hai chỉ cách xa phân nửa đường từ thác thứ nhất giống như thác nước thứ ba từ thác thứ hai, đây là chứng cứ kết luận của điều này. Bây giờ Mukoki đã phát hiện ra thác nước thứ nhất cách hẻm núi năm mươi dặm!
Wabigoon đáp lại:
- Và chúng ta tìm ra từ những khoảng cách giữa các đánh dấu của John Ball trên tấm bản đồ, rằng thác thứ ba cách khu trại cũ của chúng ta ở đầu hẻm núi vào khoảng hai trăm năm mươi dặm. Có vẻ hợp lý đó.
- Nó hợp lý – Rod tuyên bố, mặt anh đỏ bừng vì kích động – Từ đầu hẻm núi, đường đi của chúng ta rõ như ban ngày. Chúng ta không thể lạc được.
Mukoki từ nãy im lặng lắng nghe, giờ tham gia vào cuộc trao đổi lần đầu tiên.
- Phải đến hẻm núi trước.
Ông mỉm cười, vặn lưng một cái, tỏ ra phấn chấn.
Wabi cất tấm bản đồ vào túi.
Anh cười lớn:
- Ông nói đúng, Muky. Chúng ta phải leo nhiều núi trước khi đến đó. Đến hẻm núi khá là vất vả đấy.
- Nhiều nước... rất nhanh. Con sông chảy nhanh như hai mươi ngàn con tuần lộc.
Rod nói:
- Tôi cuộc là sông Ombarika là một con sông chảy rất xiết.
Wabi đáp:
- Và chúng ta có bốn mươi dặm. Rồi chúng ta tới vùng núi. Sau đó các dòng sông đều chảy về hướng bắc, tới Vịnh Hudson, và khi tới đó, chúng ta sẽ thở ra và cầu nguyện thay vì chèo thuyền. Ồ, sẽ là một cuộc kỳ đua kỳ thú trên những dòng nước lũ.
Rod nói:
- Nhưng còn công việc trước mắt chúng ta... ngày mai... công việc nặng nhọc. Và tôi buồn ngủ. Chúc ngủ ngon.
Mukoki và Wabigoon chẳng bao lâu cũng theo gương người bạn. Nửa giờ sau chỉ còn tiếng lửa nổ tí tách khuấy động sự im lặng của khu lều trại. Mukoki luôn thức giấc đúng giờ, và một giờ trước lúc rạng đông ông thức dậy, chuẩn bị bữa ăn sáng.
Khi các đồng đội trẻ của ông thức giấc, họ nhìn thấy những con vịt mà họ săn được ngày hôm trước đang được nướng trên đống lửa, và cà phê đã sẵn sàng. Rod cũng lưu ý rằng một phần của các đồ vật trong thuyền đã biến mất.
- Mang chúng ra sông.
Mukoki giải thích để đáp lại sự dò hỏi của chàng trai.
Wabi càu nhàu:
- Làm việc trong khi chúng tôi ngủ, như thường lệ. Nếu việc này tiếp diễn, chúng ta xứng đáng bị quất một trận nữa, Rod ạ!
Mukoki xem lại một con vịt, nướng cho nó chín vàng, rồi đưa cho Rod. Ông đưa một con khác cho Wabigoon, và với con thứ ba trong tay, ông ngồi lên mặt đất gần chỗ để cà phê.
- Ồ, còn hơn cả bữa ăn của vua chúa!
Rod kêu lên, ngấu nghiến gặm con vịt nằm ở đầu chiếc nĩa.
Nửa giờ sau, cả ba đi xuống chỗ chiếc thuyền. Mukoki đã đóng gói một số vật dụng đưa ra sông, cách đó một phần tư dặm, giờ đây ông mang những thứ còn lại trong khi hai chàng trai vác chiếc thuyền độc mộc trên vai. Khi Roderick nhìn thấy sông Ombarika trong ánh nắng rực rỡ, anh kêu lên kinh ngạc. Khi anh đi ngược dòng sông trong mùa đông trước, nó chỉ rộng khoảng chiều dài của mười khẩu súng trường. Giờ đây nó trở thành một con sông Amazon mênh mang. Dòng nước đen, như một chất lỏng đặc sệt đang sôi trên ngọn lửa. Nó không vội vã, không điên cuồng mà chảy lặng lẽ mênh mang. Rod đã chờ mong để nhìn thấy điều này, và lẽ ra anh phải giật mình.
Nhưng có một cái gì kinh khủng hơn nhiều trong dòng chảy đang chầm chậm cuộn đi trước mắt anh, những xoáy nước lười biếng xoay tròn, hàng ngàn dòng chảy vô hình, cuộn tròn mặt nước ở chỗ này chỗ khác như sự phun trào mà anh thường quan sát trong một nồi cháo yến mạch đang sôi. Có một cái gì huyền bí bên trong nó, một cái gì gợi lên một cách kinh khủng hình ảnh những bàn tay khổng lồ bên dưới mặt nước đang chờ để lôi họ xuống. Anh biết, không ngờ vực gì, rằng có nhiều sức mạnh chết chóc trong dòng nước lờ đờ đó hơn là trong một tá các dòng nước dữ dội gầm thét đổ xuống từ những ngọn núi. Trong nó là những dòng nước tích lũy sức mạnh, và trong lòng chảy rộng, sâu cuốn vào chiếc hồ lớn, những dòng nước và những hiểm họa kết hợp với nhau thành một thế lực đe dọa lớn.
Những ý nghĩ trong đầu Rod tự để lộ chúng khi anh nhìn các bạn đồng hành. Mukoki đang hạ thủy chiếc thuyền. Wabi quan sát dòng nước lũ.
Chàng trai da đỏ nói một cách ngờ vực:
- Nó chảy khá mạnh. Ông nghĩ thế nào về nó, Muky?
Người chiến binh già đáp, không dừng công việc của ông:
- Giữ thuyền sát bờ. Chúng ta sẽ an toàn!
Có rất nhiều an ủi trong lời của Mukoki, vì cả hai chàng trai vẫn nhớ những lời nhắc nhở khôn ngoan trong sự cảnh giác và phán đoán tốt của ông. Trong một thời gian ngắn, chiếc thuyền độc mộc được hạ thủy an toàn ở một vụng nước nhỏ sát bờ. Và ba nhà mạo hiểm nắm lấy tay chèo.
Mukoki, người giữ vị trí quan trọng ở đuôi thuyền, giữ cho mũi thuyền luôn cách bờ sông chừng năm mét, và theo ý của Rod, họ ngược dòng với một tốc độ và sự khó khăn đáng kinh ngạc. Thỉnh thoảng một trong những ngọn sóng bắt kịp con thuyền, và theo cách thức nó lướt từ phía này sang phía khác, Rod dễ dàng đoán ra những hiểm họa mà giữa dòng sông có thể mang lại cho họ. Hành động nhanh nhẹn của Mukoki và Wabigoon luôn luôn cần thiết để đối phó với những ngọn sóng này, và ở bên mạn thuyền Wabi thường xuyên trong tình trạng cảnh giác. Họ không thể biết khi nào sẽ có những cuộc tấn công từ các lực lượng vô hình bên dưới. Cách năm thước trước mặt, nước có thể chảy êm ả như dầu, rồi, một cái bong bóng khổng lồ nổi lên, như thể một con cá to vừa thở ra một luồng không khí. Và trong nháy mắt nước có thể sôi lên ùng ục như một xoáy nước nhỏ.
Rod nhận thấy mỗi lần họ đến gần một trong những chỗ như vậy, chiếc thuyền sẽ ngập xuống sâu hơn vài tấc so với nơi nước lặng. Phát hiện này làm anh rùng mình, và anh tự hỏi nếu đi giữa dòng sông, một trong những xoáy nước lớn sẽ làm gì với họ. Những hiểm họa mở ra luôn ở gần bên họ. Những khúc gỗ trôi và những đống cành cây và các mảnh vụn khác bị cuốn theo dòng nước, và tiếng hét cảnh báo của Wabi – “phải”, “trái”, “sau lưng” lặp lại thường xuyên đến mức hai cánh tay Rod đau ê ẩm vì những nỗ lực mà anh thực hiện với chiếc chèo để đáp ứng những cảnh báo đó. Một lần nữa, dòng sông sôi lên với cơn cuồng nộ ở phía trước mặt họ đến mức Mukoki phải hướng vào bờ, và việc chuyển tải được tiến hành bên ngoài chỗ nguy hiểm. Năm lần trong ngày đó chiếc thuyền và đồ đạc bên trong được vận chuyển theo cách đó. Bao gồm tất cả những thời gian đã mất, vận tốc của họ không hơn hai dặm/giờ. Tuy nhiên, khi trại đã dựng lên vào cuối chiều hôm đó, Mukoki nhận định rằng họ đã vượt qua phân nửa quãng đường ngược sông Ombabika.
Tiến trình của ngày hôm sau thậm chí còn chậm hơn. Từng dặm một, dòng nước trở nên hẹp và chảy xiết hơn. Những dòng xoáy không còn quấy rầy họ, nhưng những thân cây và mảnh vụn trôi qua với tốc độ lớn hơn. Nhiều lần chiếc thuyền thoát khỏi việc bị vỡ tan chỉ nhờ hành động nhanh nhẹn và đoàn kết của cả ba. Lúc này họ làm việc như một cỗ máy được vận hành tốt, động cơ là Wabigoon, với đôi mắt nhạy bén trong việc báo động cho nguy cơ trước mặt.
Ngày thứ hai này là một ngày đầy rẫy căng thẳng đối với Rod, và anh vui mừng khi nó đã kết thúc.
Trời vẫn còn sớm, mặt trời vẫn còn cao hai giờ nữa khi họ dừng lại hạ trại.
Mukoki chọn một trảng trống, tựa lưng vào một đỉnh núi phủ đầy cây dương, và mũi thuyền được cặp sát bờ khi Wabi kêu lên một tiếng cảm thán, giơ khẩu súng trường lên, và bắn ba phát nhanh về hướng của một lùm cây linh sam gần chân núi.
Anh rên rỉ:
- Trật rồi, một con thật to! Nhanh lên, Mukoki, kéo thuyền vào bờ! Đó là con gấu lớn nhất tôi từng thấy trong đời!
Rod hỏi:
- Ở đâu? Nó ở đâu?
Anh buông mái chèo và vớ lấy khẩu súng của mình trong lúc Mukoki vẫn giữ sự tự chủ, đưa thuyền cặp vào bờ để Wabi có thể nhảy lên bờ. Rod nhảy theo anh như một ánh chớp, và hai chàng trai trẻ kích động chạy về hướng con gấu, bỏ lại người lính già tự chăm sóc cho mình và chiếc thuyền nặng nề. Họ chạy tới rìa của cụm linh sam, và với trái tim đang đập thình thịch, cả hai quan sát phía trống cằn cỗi của ngọn núi trước mặt. Không có dấu vết gì của con gấu.
Wabi la lên:
- Nó đã quay ngược xuống! Chúng ta phải...
Rod thì thào:
- Nó kia rồi.
Ngay tại nơi chân dốc của ngọn núi, phía dưới họ khoảng bốn năm trăm thước Anh, là con gấu. Ngay cả ở khoảng cách đó Rod cũng phải kinh ngạc với kích thước của nó.
Anh thở mạnh:
- Thật là một con quái thú!
Wabi nôn nóng:
- Bắn liên tục! Nhắm vào đầu lưng nó và cậu sẽ hạ được nó!
Nói xong, anh bắn hai phát đạn còn lại trong hộp đạn, và khi anh đang nạp đạn mới vào hộp đạn, Rod tiếp tục chuỗi bắn liên tiếp. Phát thứ nhất và thứ hai chẳng có tác dụng gì. Ở phát thứ ba, con vật đang chạy dừng lại một lúc và nhìn xuống chỗ họ, và chàng thợ săn trẻ nắm lấy cơ hội để ngắm cẩn thận.
Với cú giật của khẩu súng, con gấu giật mạnh người về phía trước, quỵ xuống giữa đống đá, rồi biến mất.
- Cậu bắn trúng nó rồi!
Wabi hét lên, chạy như điên từ cụm linh sam đến ngọn núi.
Trong giây lát, Rod xem xét tình huống khi anh nạp đạn lại. Con gấu chạy gần đỉnh núi. Do chạy nhanh, Wabigoon có thể bắn trúng một phát trước khi con vật ra khỏi dãy núi. Nếu phát đó trật, họ có thể bỏ lỡ cuộc săn. Trong một chớp mắt, anh thấy một khe hở trên núi. Nếu anh tới đó được, và con gấu quay về theo hướng của anh...
Không nghĩ ngợi thêm, anh chạy tới khe hở. Anh nghe tiếng súng của Wabi sau lưng, nhưng không quay lại để xem hiệu quả của phát súng. Nếu nó lại hụt, mỗi giây đều phải tính. Khe hở trên núi rất rõ ràng. Anh nín thở băng qua đó và dừng lại ở phía đối diện, đôi mắt quan sát một cách nôn nóng đỉnh núi đá. Anh không cố đè nén sự hân hoan bật khỏi đôi môi khi, cách chừng tám trăm thước, anh thấy con gấu đi xuống lưng núi, và theo hướng của anh. Rod nấp sau một tảng đá lớn chờ đợi. Bảy trăm thước, sáu trăm thước, năm trăm thước, và con gấu quay lưng, lần này đi vào rìa của cánh đồng trống. Con vật đi chầm chậm, thỉnh thoảng dừng lại, và Rod biết nó đã bị thương nặng. Khi thấy rằng nó không thể tiến gần hơn, anh đưa súng lên vai.
Năm trăm thước Anh, hơn một phần tư dặm!
Đó là một phát bắn tuyệt vọng, phát bắn làm cả người Rod rùng mình ớn lạnh. Khẩu súng trên vai anh tương ứng với nhiệm vụ này. Nó có thể hạ con thú dễ dàng trong khoảng cách này. Nhưng nếu anh bắn hụt? Anh tin rằng phát thứ nhất của anh ăn cao. Phát thứ hai không hiệu quả. Phát thứ ba có sự hưởng ứng của một phát súng thứ tư từ đỉnh núi. Wabigoon đã lên tới đỉnh, và đang bắn ở quãng cách sáu trăm thước!
Con gấu dừng lại. Với sự chính xác chết người, Rod ngắm kỹ con vật đang bất động. Một thoáng giây sau khi bắn, một tiếng kêu to mừng rỡ thoát ra từ cổ họng anh, và được đáp lại bằng tiếng reo mừng của Wabiggoon từ đỉnh núi. Đó là một phát súng cừ khôi, và con gấu ngã xuống!
Con vật đã chết khi hai chàng thợ săn chiến thắng tới bên nó. Cả hai lặng im một lúc. Thở hổn hển vì mệt nhọc, cả hai lặng lẽ nhìn xuống con gấu khổng lồ nằm dưới chân họ. Rod nhìn thấy vẻ tán thưởng phát súng tuyệt vời của anh trong ánh mắt của Wabigoon. Họ vẫn còn đứng lặng nhìn con thú đã chết khi Mukoki băng qua kẻ núi trên đỉnh và đi nhanh về phía họ. Cả gương mặt của ông cũng hiện lên vẻ kinh ngạc khi trông thấy con gấu.
Ông cảm thán:
- Gấu lớn!
Trong lời của ông ẩn chứa nhiều ý nghĩa, và Rod đỏ mặt vì sung sướng.
Wabi nói:
- Nó phải nặng đến năm trăm cân Anh, và nó đứng cao tới bốn bộ.
Mukoki nhe răng cười:
- Một tấm chăn tốt đấy!
- Chúng ta hãy chờ xem, Rod, ông ấy sẽ làm một tấm chăn.
Wabi đi xem xét vòng quanh con gấu.
- Ông ấy sẽ làm cho anh một tấm chăn dài tám bộ và rộng khoảng sáu bộ Anh. Không biết nó trúng đạn ở chỗ nào nhỉ?
Một cuộc kiểm tra chóng váng cho thấy nếu niềm vinh dự của phát súng giết chết con thú thuộc về Rod, thì ít nhất một, có lẽ hai phát của Wabi cũng trúng mục tiêu. Phát cuối cùng của chàng trai da trắng đã trúng vào con gấu ngay phía dưới tai phải, gây nên một cái chết tại chỗ. Ở cùng một phía lộ diện trước Rod, là những phát súng làm nó bị thương, chắc chắn là do phát súng trên sườn núi. Khi con gấu bị lật sang phía kia, ba người phát hiện hai vết thương nữa ở phía bên trái, gần như là phía lộ diện trước Wabigoon. Trong lúc đang xem xét, đôi mắt tinh nhanh của Mukoki ánh lên vẻ ngạc nhiên.
- Nó đã bị bắn từ trước, cách đây lâu rồi! Vết thương cũ... tìm đạn!
Ông sờ những ngón tay lên phía sau của chân trước con gấu. Vết sẹo của một vết thương cũ có thể nhìn thấy lờ mờ, cả Rod và Wabi có thể cảm thấy đầu đạn bên dưới lớp da. Có một điều gì đó làm mê hoặc người thợ săn thú lớn trong việc phát hiện ra một vết thương cũ trong con mồi của ông, đặc biệt ở vùng đất quạnh hiu miền Bắc, nơi ít có thợ săn tìm đến. Nó gợi lại một hình ảnh sống động về điều xảy ra cách đây đã lâu, sự kích động của một cuộc truy đuổi khác, phát súng khá tuyệt, và cuối cùng là sự đào thoát của con thú. Đầu của Rod và Wabigoon nghiêng sát bên vai Mukoki trong khi người da đỏ già moi viên đạn ra bằng con dao của ông. Một tiếng lẩm bẩm kinh ngạc khác bật khỏi đôi môi Mukoki khi ông buông viên đạn xuống lòng bàn tay. Nó là một vật lạ lùng, láng, và bẹt ra một đáng ngờ.
Mukoki nói:
- Viên đạn rất mềm! Chưa từng biết chì lại mỏng như thế này.
Ông dùng dao cào một lớp mỏng trên đầu đạn.
- Nó....
Ông giơ ra hai mảnh. Dưới ánh nắng chúng ánh lên một màu vàng lóng lánh.
Ông thở mạnh, gần như là một tiếng huýt sáo:
- Viên đạn này làm bằng vàng! Không phải chì màu vàng. Đây là vàng, vàng ròng!