Làm tốt thì tốt hơn là nói giỏi.

Benlamin Franklin

 
 
 
 
 
Tác giả: Aldous Huxley
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Brave New World
Dịch giả: Hiếu Tân
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 157
Cập nhật: 2023-07-16 17:10:04 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 8
ên ngoài, trong bụi bặm và ngập giữa rác rưởi (bây giờ có bốn con chó) Bernard và John đi đi lại lại.
“Thật khó cho tôi để nhận ra, để tái hiện” – Bernard nói – “Như thể chúng ta đang sống trên những hành tinh khác nhau, trong những thế kỷ khác nhau.
Một người mẹ, với những bùn đất ấy, và những vị thần, và tuổi già, và bệnh tật...” Gã lắc đầu. “Tôi hầu như không thể nào hiểu được. Tôi sẽ không thể hiểu, trừ phi cậu giải thích.”
“Giải thích cái gì?”
“Cái này”. Gã chỉ tay vào bản. “Cái đó”. Và đó là ngôi nhà nhỏ ngoài rìa làng. “Tất cả mọi thứ. Tất cả cuộc sống của cậu.”
“Nhưng cái đó có gì mà nói?”
“Từ đầu. Từ chỗ nào cậu còn nhớ được.”
“Từ chỗ nào tôi còn nhớ được”. John cau mày. Im lặng một lúc lâu.
Trời nóng quá. Họ đã ăn nhiều bánh mì ngô và ngô ngọt. Linda nói: “Vào đây và nằm xuống, Cưng”. Họ cùng nằm xuống trên chiếc giường to. “Hát đi” – và Linda hát. Hát “từ Liên cầu khuẩn-G đến Xoắn khuẩn-T” và “Bye Baby Bé con, con sắp cần phải gạn”. Giọng bà ta yếu dần, yếu dần...
Có tiếng ồn ầm ĩ, và cậu bật dậy. Một người đàn ông đang nói gì với Linda, và Linda cười. Bà ta kéo chăn lên che cằm, và người đàn ông kéo nó xuống. Đầu y giống như hai sợi dây thừng đen, và trên cánh tay y có chiếc vòng bạc đẹp gắn những viên đá xanh. Cậu thích chiếc vòng; nhưng dù sao, cậu đang sợ hãi; cậu giấu mặt đằng sau Linda. Linda đặt bàn tay lên người cậu, và cậu cảm thấy an toàn hơn. Bằng những lời lẽ của một ngôn ngữ mà cậu không hiểu lắm, bà ta nói với người đàn ông: “Không, John đang ở đây”. Người đàn ông nhìn cậu, rồi lại nhìn Linda, rồi nói vài lời bằng giọng dịu dàng. Linda nói: “Không”. Nhưng người đàn ông cúi xuống giường về phía cậu và mặt y to đùng, khủng khiếp; hai cuốn dây thừng đen của mái tóc chạm chiếc vòng trên cánh tay. “Không” – Linda lại nói, và cậu cảm thấy bàn tay bà ta ấn cậu xuống chặt hơn. “Không, không”. Nhưng người đàn ông nắm lấy một cánh tay của cậu, làm nó đau. Cậu thét lên. Người đàn ông nắm lấy tay kia và nâng cậu lên. Linda vẫn giữ cậu, vẫn kêu: “Không, không”. Người đàn ông nói câu gì ngắn và giận dữ, và bỗng nhiên bà ta buông tay ra. “Linda, Linda” – cậu quẫy đạp, quằn quại; nhưng người đàn ông vác cậu đi đến cửa, mở nó ra, đặt cậu xuống trên nền đất ở giữa một căn phòng khác, và bỏ đi, đóng cửa lại sau lưng y. Cậu đứng dậy, chạy đến bên cửa. Đứng nhón chân cậu chỉ vừa chạm đến chốt cửa bằng gỗ to. Cậu nâng nó lên và đẩy ra, nhưng cửa không mở. Cậu kêu to: “Linda”. Bà ta không trả lời.
Cậu nhớ lại một căn phòng lớn, khá tối; có nhiều đồ vật bằng gỗ to với những sợi dây thừng chằng buộc chúng, và nhiều phụ nữ đứng xung quanh, tạo thành những vòng người. Linda nói. Linda bảo cậu ngồi vào một góc với nhiều đứa trẻ khác, trong khi bà ta đi giúp những người phụ nữ. Cậu chơi với những đứa bé một lúc lâu. Bỗng nhiên mọi người bắt đầu nói chuyện rất to, và có những người phụ nữ đẩy Linda ra, và Linda bắt đầu khóc. Bà ta đi ra cửa và cậu chạy theo bà ta. Cậu hỏi bà ta tại sao họ giận dữ như thế. “Bởi vì mẹ đã làm hỏng một thứ” – bà ta nói. Rồi bà ta cũng giận dữ. “Làm sao tôi biết dệt những thứ đồ của loài vật ấy?” – bà ta nói. “Dã man như thú vật”. Cậu hỏi bà ta những người dã man nào. Khi họ trở về nhà, Popé đang đợi ở cửa, hắn cùng vào với họ. Hắn có một quả bầu đựng đầy một thứ trông giống như nước; nhưng không phải nước, chỉ là một chất có mùi cực khó chịu, nó làm bỏng mồm anh và khiến anh ho. Linda uống một ít và Popé uống một ít, rồi Linda cười rất nhiều và nói rất to; rồi bà ta và Popé sang một phòng khác. Khi Popé đi rồi, cậu bước sang phòng ấy. Linda nằm trên giường và ngủ say đến nỗi cậu không thể nào đánh thức bà ta dậy.
Popé đến thường xuyên. Hắn bảo chất trong quả bầu ấy gọi là mescal; nhưng Linda nói nên gọi nó là soma; chỉ có điều sau đó nó làm cậu cảm thấy bệnh. Cậu ghét Popé, cậu ghét tất cả bọn họ, tất cả những người đàn ông đến với Linda. Một buổi chiều, sau khi cậu đã chơi với lũ trẻ con khác. Cậu nhớ hôm đó trời lạnh, trên núi có tuyết, cậu về nhà và nghe thấy những giọng nói giận dữ trong buồng ngủ. Đó là những giọng phụ nữ, và họ nói những lời cậu không hiểu, nhưng cậu biết đó là những điều kinh tởm. Rồi bỗng nhiên, xoảng! Có cái gì đó đổ vỡ; cậu nghe tiếng chân người di chuyển rất nhanh, và một tiếng xoảng nữa, rồi tiếng ồn như người ta đang đánh đập một con la, rồi tiếng Linda hét. “Ôi, đừng, đừng, đừng!” – bà ta nói. Cậu chạy vào. Có ba người đàn bà đội khăn màu tối. Linda nằm trên giường. Một trong những người đàn bà nắm hai cổ tay Linda. Một người khác ngồi chặn lên cẳng bà ta, để bà ta không đá được. Người thứ ba đang quất bà ta bằng một cây roi. Một nhát, hai nhát, ba nhát, cứ mỗi nhát Linda lại thét lên. Cậu kêu lên, giật mạnh mép khăn của người đàn bà ấy. “Tôi xin, xin”. Bằng bàn tay rỗi mụ ta gạt cậu ra. Cây roi lại quất xuống, và Linda lại thét lên. Cậu tóm lấy bàn tay nâu to tướng của mụ ta bằng hai bàn tay của cậu và cố hết sức kìm nó lại. Mụ kêu lên, vặn tay thoát ra, và đẩy cậu ngã bổ chửng. Trong khi cậu nằm dưới đất, mụ quất cậu ba roi. Chưa bao giờ cậu thấy đau như thế – như lửa đốt. Cây roi lại vút lên, quật xuống, nhưng lần này là Linda thét lên.
“Nhưng tại sao họ lại muốn đánh mẹ, Linda?” – đêm ấy cậu hỏi. Cậu đang khóc, vì những lằn roi đỏ trên lưng cậu vẫn còn đau khủng khiếp. Nhưng cậu còn khóc vì người ta đã đối xử thật cục súc và bất công, bởi vì cậu chỉ là một đứa con trai bé bỏng và không làm gì được để chống lại họ. Linda cũng khóc. Bà ta là người lớn, nhưng bà ta cũng không đủ lớn để đánh lại ba người bọn họ. Chuyện ấy cũng bất công cả với bà nữa.
“Tại sao họ lại muốn đánh mẹ, Linda?”
“Mẹ không biết. Làm sao mẹ biết được?” Rất khó nghe những gì bà ta nói, bởi vì bà ta đang nằm sấp và úp mặt vào gối. “Họ bảo những người đàn ông ấy là của họ” – bà ta tiếp tục; và có vẻ như không phải bà ta đang nói chuyện với cậu; dường như bà ta đang nói chuyện với một kẻ nào đó bên trong bà ta. Một cuộc nói chuyện dài mà bà ta không hiểu, và cuối cùng bà ta bật khóc to hơn trước.
“Ôi, đừng khóc, Linda, đừng khóc.”
Cậu áp mình vào người mẹ. Cậu vòng tay quanh cổ bà. Linda kêu lên. “Ối, cẩn thận, cái vai tôi! Ối!”, và bà ta đẩy bật cậu ra. Đầu đã đập mạnh vào tường. “Thằng ngu!” – bà ta thét, và sau đó, bỗng nhiên bà ta vả cậu tới tấp.
“Linda” – cậu kêu lên. “Ôi, mẹ, đừng!”
“Tao không phải là mẹ mày. Tao sẽ không phải là mẹ mày.”
“Nhưng, Linda... Ôi!” Bà ta tát mạnh vào má cậu.
“Biến thành một kẻ hoang dã” – bà ta hét – “Có con như một con vật... Nếu hồi đó không phải vì mày, thì tao đã có thể đến với ngài Thanh tra, tao đã có thể ra đi. Nhưng không phải với một đứa bé. Điều ấy thật đáng xấu hổ.”
Cậu thấy bà ta định đánh cậu nữa, nên giơ tay lên che mặt. “Ôi, đừng, Linda, xin đừng.”
“Thằng quái con!” – bà ta kéo tay cậu xuống, để lộ mặt ra.
“Đừng, Linda”. Cậu nhắm mắt lại, chờ đợi cái tát.
Nhưng bà ta không đánh nữa. Một lát sau, cậu lại mở mắt, và thấy bà ta đang nhìn cậu. Cậu cố mỉm cười với bà. Bỗng nhiên bà ôm lấy cậu và hôn cậu.
Có khi, trong nhiều ngày, Linda không hề dậy. Bà ta nằm trên giường, buồn phiền. Nếu không thì bà ta uống chất nước mà Popé mang đến và cười rất nhiều rồi ngủ. Đôi khi bà ốm. Thường thường thì bà quên tắm rửa cho cậu, và trong nhà chẳng có thứ gì để ăn ngoài bánh ngô lạnh. Cậu nhớ lần đầu tiên bà thấy những con vật nhỏ bé trong tóc cậu, bà đã gào thét liên hồi như thế nào.
Những lần hạnh phúc nhất là khi bà kể với cậu về Nơi Khác. “Và ta thật sự có thể bay đến đó, bất cứ khi nào ta muốn?”
“Bất cứ khi nào ta muốn”. Và bà đã kể với cậu về thứ âm nhạc tuyệt diệu bay ra từ một cái hộp, và tất cả những trò chơi thích thú mà cậu có thể chơi, và những thứ rất ngon để ăn và uống, và ánh sáng tràn đến khi cậu ấn vào một vật nhỏ ở trên tường, và những bức tranh mà cậu có thể sờ và nghe và ngửi, cũng như xem, và những cái hộp khác tạo ra mùi thơm, những ngôi nhà màu hồng, màu xanh cây, màu xanh dương, màu bạc cao như núi, và mọi người hạnh phúc và không ai buồn hay giận bao giờ, và mọi người thuộc về mọi người khác, và những cái hộp trong đó cậu có thể nhìn và nghe thấy những gì xảy ra ở chỗ khác của thế giới, và những đứa bé sơ sinh trong những cái chai sạch sẽ đáng yêu, mọi thứ đều sạch và không bốc mùi khó chịu, không có tí bụi nào và người ta không bao giờ cô đơn, mà sống với nhau vui vẻ và hạnh phúc, giống như những điệu nhảy mùa hè ở đây ở Malpais này, nhưng hạnh phúc hơn nhiều, và ở đó luôn luôn có hạnh phúc, mọi ngày, mọi ngày...
Cậu nghe cả giờ. Và đôi khi, khi cậu và những đứa trẻ khác đã mệt vì quá nhiều trò chơi, một trong những người già của bản sẽ nói với chúng, bằng những lời lẽ khác lạ ấy, về người vĩ đại làm Biến đổi Thế giới, về cuộc đấu tranh lâu dài giữa Tay Phải và Tay Trái, giữa Ướt và Khô, của Awonawilona 1, người làm ra màn sương lớn bằng cách suy nghĩ trong đêm, và sau đó làm ra cả thế giới từ màn sương ấy; về Mẹ Đất và Cha Trời, về Ahaiyuta và Marsailema, cặp song sinh của Chiến tranh và Cơ hội; về Jesus và Pookong 2, về Mary và Etsanatlehi, người đàn bà tự làm cho mình trẻ lại; về hòn Đá Đen ở Laguna và con Đại bàng Lớn và Đức Bà Acoma. Những câu chuyện kỳ lạ và tất cả tuyệt diệu hơn đối với cậu vì được kể bằng những lời lẽ khác, và vì thế không hiểu hết. Nằm trên giường, cậu nghĩ đến Thiên đường và London và Đức Bà Acoma, và từng hàng từng hàng trẻ sơ sinh trong các chai sạch và Jesus bay đến và Linda bay đến và ông Giám đốc vĩ đại của các Lò ấp Thế giới và Awonawilona.
Nhiều đàn ông đến với Linda. Những đứa con trai bắt đầu chỉ trỏ cậu. Bằng những lời lẽ khác, chúng bảo Linda là hư hỏng, chúng gọi bà bằng những cái tên mà cậu không hiểu, nhưng cậu biết đó là những cái tên rất xấu. Một hôm chúng hát một bài hát về bà ta, hát đi hát lại. Cậu ném đá bọn chúng. Chúng ném lại, một hòn đá sắc cạnh cứa đứt má cậu. Máu chảy ra không ngừng, người cậu bê bết máu.
Linda dạy cậu học đọc. Bằng một mẩu phấn bà vẽ những hình vẽ lên tường – một con vật ngồi, một đứa bé trong cái chai; rồi bà viết những chữ cái. CON MÈO TRÊN CHIẾC CHIẾU, ĐỨA BÉ TRONG CÁI CHAI. Cậu học nhanh và dễ dàng. Khi cậu đã biết cách đọc tất cả các từ mà bà viết trên tường, Linda mở chiếc hộp to của bà và lấy ra từ bên dưới chiếc quần nhỏ ngộ nghĩnh mà bà không bao giờ mặc một quyển sách nhỏ và mỏng. Cậu thường thấy nó trước đó. “Khi con lớn hơn” – bà ta nói – “con có thể đọc nó”. Được, thế bây giờ cậu đã lớn rồi. Cậu tự hào. “Mẹ sợ con không thấy nó thật thích thú” – bà nói. “Nhưng nó là vật duy nhất mà mẹ có”. Bà thở dài. “Giá mà con thấy những chiếc máy đọc đáng yêu mà chúng ta từng có ở London!” Cậu bắt đầu đọc. Điều kiện hóa Hóa học và Vi khuẩn học của Bào thai. Hướng dẫn thực hành cho Công nhân Beta Lưu trữ Bào thai. Chỉ riêng cái tựa đề cậu đã mất một phần tư giờ để đọc. Cậu ném quyển sách xuống sàn. “Đáng tởm, quyển sách đáng tởm!” – cậu nói, và bắt đầu khóc.
Mấy thằng con trai vẫn hát bài hát khủng khiếp của chúng nó về Linda. Đôi khi chúng còn cười cậu sao rách mướp như thế. Khi cậu xé rách quần áo của cậu, Linda không biết khâu vá thế nào. Ở Nơi Khác, Linda bảo cậu, người ta vứt bỏ quần áo khi chúng có lỗ thủng và kiếm những bộ mới. “Đồ giẻ rách, đồ giẻ rách!” – bọn chúng thường gào lên với cậu. “Nhưng tao biết đọc, và bọn mày không biết” – cậu tự nhủ. “Bọn nó còn không cả biết việc đọc sách là cái gì”. Sẽ khá dễ dàng, nếu cậu suy nghĩ đủ kỹ về việc đọc, để giả vờ là không thèm để ý khi chúng trêu chọc cậu. Cậu yêu cầu Linda đưa quyển sách lại cho cậu.
Bọn con trai càng chỉ trỏ và hát, thì cậu đọc càng chăm chú. Chẳng bao lâu cậu đã có thể đọc hết các từ thật trôi chảy. Ngay cả những từ dài nhất. Nhưng chúng có nghĩa gì? Cậu hỏi Linda, nhưng khi bà ta có thể trả lời thì cậu có vẻ như không rõ lắm, và nói chung thì bà ta không thể trả lời gì cả.
“Các chất hóa học là gì?” – Cậu hỏi.
“Ồ, những chất như là muối ma-giê, rượu để giữ cho các Delta và Epsilon bé và chậm tiêu, và calcium carbonate cho xương, và tất cả các loại chất.”
“Nhưng mẹ đã làm ra các hóa chất như thế nào, Linda? Chúng từ đâu đến?”
“À, mẹ không biết. Người ta lấy chúng từ các chai. Và khi các chai rỗng, người ta gửi chúng đến các Kho Hóa chất để lấy thêm. Chính các Kho Hóa chất đã tạo ra chúng, mẹ nghĩ thế. Nếu không thì họ gửi chúng đến các nhà máy để lấy. Mẹ không biết. Mẹ không bao giờ làm ra một hóa chất nào. Công việc của mẹ luôn luôn là với các bào thai”. Đó cũng chính là điều mà cậu hay hỏi cùng với những thứ khác. Linda không bao giờ tỏ ra là biết. Những người già của bản có những câu trả lời rõ ràng hơn nhiều.
“Hạt giống của con người và tất cả các loài khác, hạt giống của mặt trời và hạt giống của đất và hạt giống của trời – Awonawilona tạo ra tất cả từ Màn sương lan rộng ra. Bây giờ thế giới có bốn dạ con; và ngài đặt hạt giống trong dạ con thấp nhất. Và dần dần hạt giống bắt đầu lớn lên...”
Một hôm (sau này John tính ra là sau ngày sinh thứ mười hai của cậu), cậu về nhà và thấy một quyển sách cậu chưa bao giờ thấy trước đó nằm trên sàn trong buồng ngủ. Đó là một quyển sách dày và trông rất cũ. Bìa đã bị chuột gặm, một số trang đã mất hoặc nhàu nát. Cậu nhặt lên, nhìn vào trang đầu đề: Quyển sách có tên là Shakespeare toàn tập.
Linda đang nằm trên giường uống thứ mescal kinh tởm ấy từ một chiếc cốc.
“Popé mang đến” – bà nói. Giọng bà thô và khàn giống như giọng nói của một người khác. “Nó nằm trong cái rương của Kiva Linh dương. Dường như nó đã ở đó cả trăm năm rồi. Mẹ hy vọng điều ấy là đúng, bởi vì mẹ nhìn nó, và hình như trong đó đầy những điều vớ vẩn. Không văn minh. Dù sao, nó cũng tốt cho con tập đọc”. Bà uống một ngụm to, đặt cái cốc xuống sàn bên cạnh giường, lật người nằm nghiêng, nấc một hai cái rồi ngủ.
Cậu mở hú họa cuốn sách.
Không, nhưng để sống
Từng hàng mồ hôi trên một chiếc giường
Của nhà thổ, đang âu yếm và làm tình
Trên cái ổ lợn nhớp nhúa ấy... 3
Những lời lẽ kỳ lạ nhảy múa quay cuồng trong đầu óc cậu, giống như tiếng sấm, như tiếng trống trong những điệu vũ mùa hè, nếu như tiếng trống biết nói thành lời; giống như những người đàn ông đang hát Bài hát Ca ngợi, quá đẹp, đến mức cậu phát khóc lên, giống như lão Mitsima đang đọc thần chú trên những lông chim và chiếc gậy khắc hình và những mẩu xương và đá của lão – kiathla tsilu silokwe silokwe silokwe. Kiai silu silu, tsithl – nhưng hay hơn thần chú của Mitsima bởi vì nó có nghĩa hơn, bởi vì nó nói với cậu, nói một cách tuyệt vời và cậu chỉ hiểu một nửa, một ma thuật đẹp khủng khiếp, về Linda; về Linda đang nằm đó ngáy, với chiếc cốc rỗng trên sàn bên cạnh giường; về Linda và Popé, Linda và Popé.
Cậu ghét Popé, ngày càng ghét. Một người có thể cười hoài cười hoài và là một thằng vô lại. Một thằng vô lại trơ lì, xảo trá, dâm đãng, không tử tế. 4 Những từ ấy có ý nghĩa chính xác là gì? Cậu chỉ biết một nửa. Nhưng ma thuật rất mạnh và tiếp tục nhảy múa trong đầu cậu, và sao đó như thể cậu trước đây chưa bao giờ thật sự ghét Popé; chưa bao giờ thật sự ghét nó bởi vì cậu chưa bao giờ có thể nói cậu ghét nó đến mức nào. Nhưng bây giờ cậu đã có những từ ngữ, những từ ngữ như tiếng trống đầy ma lực và đang ca hát. Những từ ngữ và câu chuyện kỳ lạ, thật lạ mà những từ ngữ này làm thành (cậu không biết đâu là đầu đâu là đuôi của nó, nhưng dù sao nó cũng tuyệt diệu, tuyệt diệu) – chúng cho cậu một lí do để ghét Popé; và chúng làm cho lòng căm ghét của cậu thật hơn; chúng làm cho bản thân Popé thật hơn.
Một hôm, cậu đi chơi về, cửa buồng trong đang mở, và cậu thấy họ nằm với nhau trên giường, ngủ, Linda trắng và Popé đen bên cạnh bà, với một cách tay dưới vai của bà và một bàn tay đen đúa trên ngực bà, và một trong những bím tóc của hắn vắt ngang cổ họng bà, giống như một con rắn đen đang cố quấn cổ bà. Bầu rượu của Popé và một chiếc cốc đang đứng trên sàn gần giường. Linda đang ngáy.
Trái tim cậu dường như biến mất và để lại một cái hốc. Cậu thấy trống rỗng. Trống rỗng, lạnh, bệnh, và hơi choáng váng. Cậu dựa vào tường để đứng vững. Tàn nhẫn, xảo trá, dâm đãng... Giống như những tiếng trống, như người hát rong, như ma thuật, những từ ngữ ấy cứ lặp đi lặp lại trong đầu cậu. Từ chỗ đang lạnh cậu bỗng nhiên thấy nóng. Máu chạy rần rật nóng hai gò má cậu; trước mắt cậu căn buồng tối và ấm. Cậu nghiến răng: “Ta sẽ giết nó, ta sẽ giết nó, ta sẽ giết nó”, cậu nói mãi. Và bỗng nhiên có thêm nhiều từ khác.
Khi hắn say sưa ngủ, hoặc trong niềm đam mê,
Hoặc trong niềm hoan lạc vô luân trên chiếc giường của hắn. 5
Ma thuật ở bên cậu, ma thuật giải thích và ra lệnh. Cậu bước lui ra phòng ngoài. “Khi hắn uống say ngủ...” Con dao thái thịt đang nằm trên sàn gần lò sưởi. Cậu nhặt nó lên và nhón chân bước lại cửa. “Khi hắn uống say ngủ... uống say ngủ...” Cậu chạy ngang qua buồng và đâm – ồ, đâm, một cách khát máu, lại đâm nữa, khi Popé ráng sức tỉnh ngủ, cậu nâng bàn tay lên đâm thêm lần nữa, nhưng cảm thấy cổ tay cậu bị nắm lấy, giữ chặt, và – ồ, ồ, bị vặn. Cậu không nhúc nhích được, cậu bị kẹp, và có cặp mắt nhỏ đen của Popé nhìn trừng trừng vào mắt cậu. Cậu nhìn lảng đi. Trên vai trái Popé có hai vết cắt. “Ối nhìn kìa, máu!” Linda đang khóc. “Nhìn máu kìa”. Bà ta không bao giờ chịu nổi khi nhìn thấy máu.
Popé giơ tay kia lên. Để đánh cậu, cậu nghĩ. Cậu gồng người lên nhận cú đánh. Nhưng bàn tay chỉ chạm dưới cằm cậu và xoay mặt cậu đi, để cậu buộc phải nhìn vào mắt Popé một lần nữa. Một lúc lâu, tưởng như nhiều giờ trôi qua. Rồi bỗng nhiên, không nén được nữa, cậu bật khóc. Popé phá ra cười. “Đi” – hắn nói, bằng từ ngữ khác của người da đỏ. “Đi, Ahaiyuta can đảm của ta”. Cậu chạy sang một phòng khác để giấu nước mắt.
“Mày đã mười lăm” – Già Mitsima nói bằng tiếng da đỏ – “Bây giờ tao dạy mày làm đất”.
Ngồi xổm bên sông, hai người cùng làm.
“Trước hết” – Mitsima vừa nhào một cục đất sét ướt giữa hai bàn tay vừa nói – “chúng ta làm một mặt trăng nhỏ”. Ông già ép cục đất thành chiếc đĩa, rồi uốn cong các mép lên, mặt trăng biến thành một chiếc cốc nông. Chậm chạp và vụng về cậu bắt chước những động tác tinh tế của ông già. “Một mặt trăng, một chiếc cốc, và bây giờ một con rắn”. Mitsima lăn một cục đất sét khác thành một hình trụ dài linh động, uốn nó thành một vòng tròn và ép nó lên vành chiếc cốc. “Rồi một con rắn nữa. Một con nữa. Và một con khác nữa”. Hết vòng này đến vòng khác, Mitsima làm thành những mặt bên của chiếc bình; nó hẹp, phình ra rồi hẹp lại về phía cổ. Mitsima ấn và vỗ, đánh và nạo, và cuối cùng nó đứng được, có dạng một chiếc bình nước quen thuộc của Malpais, nhưng màu trắng kem chứ không phải màu đen, và sờ vào còn mềm lắm. Chiếc của cậu đứng bên cạnh, vặn vẹo nhái theo chiếc bình của Mitsima. Trông hai chiếc bình, cậu phải bật cười. “Nhưng chiếc sau sẽ tốt hơn” – cậu nói và lại bắt đầu nhào nước một tảng đất sét khác.
Nặn, tạo hình, cảm thấy mấy ngón tay mình có được sự khéo léo và quyền năng, cậu thấy thích thú lạ thường. “A, B, C, vitamin D” – cậu hát một mình khi làm. “Mỡ trong gan, cá tuyết ngoài biển”. Và Mitsima cũng hát, một bài hát về giết một con gấu. Họ làm việc cả ngày, và cả ngày họ tràn ngập một niềm hạnh phúc mạnh mẽ, mê say. “Mùa đông sau, ông sẽ dạy cháu làm cái cung” – Mitsima nói.
Cậu đứng rất lâu bên ngoài nhà, và cuối cùng những nghi lễ bên trong kết thúc. Cửa mở, họ đi ra. Kothlu ra trước, bàn tay phải của ông ta dang ra và nắm chặt, như thể giữ một đồ trang sức quý báu. Bàn tay gập của bà ta cũng dang ra tương tự, Kiakimé theo sau. Họ bước đi trong im lặng, và im lặng theo sau họ, là những anh em, chị em, họ hàng và cả một đoàn lũ những người già.
Họ đi ra khỏi bản, ngang qua núi mặt bàn. Đến mép vách đá cheo leo, họ dừng lại, ngước mắt lên nhìn mặt trời buổi sớm. Kothlu mở bàn tay ra. Một nhúm bột ngô trắng trong lòng bàn tay; ông thở lên nó, thầm thì một vài lời, rồi ném đi, một nhúm bụi trắng, về phía mặt trời. Kiakimé làm theo đúng như thế. Rồi cha của Kiakimé bước lên, tay giơ lên một chiếc gậy cầu nguyện gắn lông chim, cầu nguyện hồi lâu, rồi ném chiếc gậy theo bột ngô.
“Thế là xong” – Già Mitsima nói to – “Họ đã lấy nhau”. “À” – Linda nói khi họ quay trở về – “tôi chỉ có thể nói là, thật đã quá ầm ĩ chỉ vì một chuyện cỏn con. Ở các nước văn minh, khi một người con trai muốn có một cô gái, cậu ta chỉ... Nhưng con đi đâu, John?”. Cậu không để ý gì đến tiếng gọi của mẹ, mà chạy đi, xa, thật xa, thật xa, để được một mình.
“Thế là xong” – những lời của già Mitsima cứ tự lặp lại trong đầu cậu. Thế là xong, thế là xong... Lặng lẽ và từ xa, cậu đã yêu Kiakimé, yêu liều lĩnh, vô vọng, nhưng mãnh liệt. Và bây giờ, thế là hết. Cậu đã mười sáu.
Vào những dịp trăng tròn, ở Kiva 6 Linh dương, người ta thì thầm những lời bí mật, làm những chuyện bí mật, và sinh ra trong bí mật. Những cậu trai xuống kiva, và khi trở lên, đã là những người đàn ông. Và cuối cùng ngày ấy đã đến. Tất cả các cậu trai đều sợ hãi nhưng đồng thời cũng nóng ruột. Mặt trời lặn, mặt trăng lên. Cậu đến cùng với những người khác. Đàn ông đứng đen ở lối vào kiva. Chiếc thang đưa xuống những độ sâu nguy hiểm. Những cậu trai hàng đầu đã bắt đầu leo xuống. Bỗng nhiên có một người đàn ông bước đến nắm lấy cánh tay cậu và kéo ra khỏi hàng. Cậu giằng ra và chạy lắt léo trở lại chỗ cũ giữa những người khác. Lần này người đàn ông đánh cậu, kéo tóc cậu – “không phải dành cho mày, thằng tóc trắng”. “Không phải cho thằng con của con chó cái” – một người đàn ông khác nói. Lũ con trai cười. “Đi!” Và vì cậu vẫn quanh quẩn bên rìa của nhóm, ông ta lại quát – “Đi!”. Một trong số người ấy cúi xuống, nhặt một hòn đá và ném. “Đi, đi, đi!” Cả một trận mưa đá. Bị chảy máu, cậu chạy vào bóng tối. Có tiếng hô nhịp nhàng từ chiếc kiva nắp đỏ vọng đến. Cậu trai cuối cùng đã xuống thang. Cậu còn lại trơ trọi một mình.
Cô độc, trên chỗ bằng phẳng của núi mặt bàn bên ngoài bản. Dưới ánh trăng, tảng đá trông giống như đống xương được tẩy trắng. Dưới thung lũng, những con sói đồng hoang đang ngửa cổ hú trăng. Những vết thâm tím làm cậu đau. Những chỗ rách vẫn còn chảy máu; nhưng không phải vì đau mà cậu thổn thức, cậu thổn thức vì cậu hoàn toàn cô độc, vì cậu bị đuổi ra chỗ hoang vắng này, một mình, nơi chỉ có đá và ánh trăng. Ở mép một vách đứng, cậu ngồi. Mặt trăng sau lưng cậu; cậu nhìn xuống cái bóng tối đen của đá mặt bàn, vào cái bóng tối đen của cái chết. Chỉ cần bước thêm một bước, một cú nhảy. Cậu giơ bàn tay phải ra dưới ánh trăng. Từ vết đứt trên cổ tay máu vẫn rỉ ra. Mỗi giây lại vài giọt nhỏ ra, tối, hầu như không màu, trong ánh sáng chết chóc. Giọt, giọt, giọt. Ngày mai và ngày mai và ngày mai. 7 Cậu đã khám phá ra Thời gian và Cái Chết và Thượng đế.
“Cô độc, lúc nào cũng cô độc” – người trai trẻ nói.
Những từ này đánh thức một tiếng vọng buồn bã trong tâm trí Bernard. Cô độc, cô độc... “Tôi cũng vậy” – gã nói, bộc lộ sự tin cậy tràn trề – “Cô độc khủng khiếp”. “Anh ấy à?” – John có vẻ ngạc nhiên. “Tôi nghĩ rằng ở Nơi Khác… Ý tôi muốn nói, Linda luôn nói rằng ở đó không một ai cô độc cả”. Bernard đỏ mặt khó chịu. “Cậu biết không” – gã lầm bầm mắt nhìn đi chỗ khác – “Tôi hơi khác với phần lớn mọi người, tôi nghĩ thế. Nếu người ta chẳng may bị gạn khác...”
“Vâng, chính thế” – chàng trai trẻ gật đầu. “Nếu người ta khác, người ta buộc phải cô độc. Họ là thú vật đối với một người. Anh biết không, họ tuyệt đối không cho tôi vào bất cứ thứ gì. Khi những chàng trai khác được đưa ra để qua đêm trên núi – anh biết không, khi anh phải mơ con vật thiêng của anh là con vật nào – họ không để tôi đi với những người khác, họ không nói với tôi về bất kỳ bí mật nào. Tuy vậy, tôi tự tìm biết” – anh nói thêm – “Không ăn gì trong năm ngày và rồi một đêm một mình đi vào vùng núi kia” – anh chỉ.
Bernard mỉm cười vẻ kẻ cả. “Cậu có mơ thấy gì không?” – Gã hỏi.
Anh ta gật đầu. “Nhưng tôi không thể kể cho anh tôi mơ thấy gì.”
Anh ta im lặng một chút, rồi hạ thấp giọng: “Có lần” – anh tiếp tục – “tôi làm một việc mà không có ai khác từng làm. Tôi đứng tựa một vách đá vào giữa trưa, mùa hè, hai tay giang ra, như Jesus trên thánh giá”.
“Để làm quái gì vậy?”
“Tôi muốn biết bị đóng đinh trên thánh giá nó như thế nào. Treo ở đó dưới mặt trời...”
“Nhưng tại sao?”
“Tại sao à? Ờ…” – anh ngập ngừng. “Bởi vì tôi cảm thấy tôi nên làm. Nếu Jesus có thể chịu được. Và rồi, nếu ai đó làm gì sai... Ngoài ra, tôi bất hạnh, đó là một lý do khác.”
“Nó có vẻ là một cách ngộ nghĩnh để chữa sự bất hạnh của cậu”. Nhưng nghĩ lại gã thấy, rốt cuộc, trong đó có một ý nghĩa. Tốt hơn là uống soma...”
“Một lúc sau tôi chóng mặt” – chàng trai nói. “Ngã sấp mặt xuống. Ông có thấy dấu tôi bị cứa không?” – anh nâng mớ tóc dày màu vàng lên khỏi trán. Vết sẹo lộ ra, nhợt nhạt và nhăn nheo, ở thái dương bên phải.
Bernard nhìn, và sau đó nhanh chóng quay đi, hơi rùng mình. Sự đào luyện của gã khiến gã không quá thương hại mà chỉ buồn nôn. Chỉ cần gợi đến ốm đau hay vết thương, đối với gã không chỉ kinh hãi, mà thậm chí còn gớm guốc và ghê tởm.
Giống như bùn bẩn, hay dị dạng, hay tuổi già. Gã vội vã đổi đề tài.
“Tôi tự hỏi cậu có thích quay về London với chúng tôi không?” – gã hỏi, làm cái động thái đầu tiên trong chiến dịch đã được soạn thảo công phu ngay từ lúc trong ngôi nhà nhỏ, gã đã nhận ra ai phải là người “cha” của cậu bé dã man này. “Cậu có thích thế không?”
Mặt chàng trai sáng lên. “Ông nói thật chứ?”
“Tất nhiên, tức là, nếu tôi có thể xin được giấy phép.”
“Cả Linda nữa?”
“Ờ...” – gã ngập ngừng nghi ngại. Con mụ nổi loạn ấy. “Không, không thể, không thể...”
Bỗng nhiên Bernard chợt nảy ra ý nghĩ rằng chính sự nổi loạn của mụ có thể chứng tỏ một tài sản khổng lồ.
“Nhưng tất nhiên!” – gã kêu lên, trang điểm cho những do dự ban đầu của gã một vẻ thân ái ồn ào quá mức.
Chàng trai trẻ hít một hơi thở sâu. “Nghĩ nó sẽ thành sự thật – những gì tôi đã mơ cả đời. Ông có nhớ Miranda 8 đã nói gì không?”
“Miranda là ai?”
Nhưng rõ ràng chàng trai không nghe câu hỏi. “Ôi tuyệt diệu” – anh nói, và mắt cậu lóe sáng, mặt anh đỏ bừng rạng rỡ. “Ở đây có bao nhiêu là người tốt! Loài người đẹp đẽ làm sao!” Sự bừng đỏ bỗng trở nên sâu hơn; anh đang nghĩ về Lenina, một thiên thần trong chai viscose-xanh, lộng lẫy với tuổi trẻ và kem dưỡng da, nụ cười mũm mĩm, nhân hậu. Giọng anh ấp úng.
“Ôi thế giới mới tươi đẹp” – anh bắt đầu, rồi bỗng nhiên dừng lại; máu rời bỏ các gò má, anh xanh như tàu lá.
“Anh kết hôn với cô ấy chưa?”
“Tôi làm sao?”
“Kết hôn. Anh biết là mãi mãi. Người ta bảo mãi mãi trong tiếng người da đỏ là không bị vỡ.”
“Ford, không” – Bernard không nhịn được cười.
John cũng cười, nhưng vì lý do khác – cười vì niềm vui thuần túy.
“Ôi thế giới mới tươi đẹp” – anh nhắc lại – “Ôi thế giới mới tươi đẹp, có những con người này trong ấy. Chúng ta hãy khởi hành ngay”.
“Đôi khi cậu có cách nói đặc biệt thật đấy” – Bernard nói, nhìn chằm chằm chàng trai với vẻ ngạc nhiên lúng túng – “Và, dù sao, cậu hãy chờ đến khi thật sự thấy thế giới mới không tốt hơn sao?”
--------------------------------
1 Theo huyền thoại của người da đỏ Zuni ở New Mexico, Awonawilona là đấng sáng tạo thế giới. (ND)
2 Pookong: Thần chiến tranh trong huyền thoại của thổ dân Mỹ ở New Mexico. (ND)
3 William Shakespeare, Hamlet. (ND)
4 William Shakespeare, Hamlet. (ND)
5 William Shakespeare, Hamlet. (ND)
6 Kiva: căn phòng có một phần dưới đất dùng cho những buổi tế lễ. (ND)
7 William Shakespeare, Macbeth. (ND)
8 Miranda: nhân vật nữ trong vở kịch Bão tố của Shakespeare, người đã nói: “Ôi thế giới mới tươi đẹp, với những con người như thế này trong đó”. (ND)
Thế Giới Mới Tươi Đẹp Thế Giới Mới Tươi Đẹp - Aldous Huxley Thế Giới Mới Tươi Đẹp