Số lần đọc/download: 2089 / 57
Cập nhật: 2015-11-21 22:31:26 +0700
Chương 9
H
ai đứa đi gần nhau. Trăng cuối năm sáng tỏ. Trăng mãi mãi sáng tỏ, ỡ đồng nội. Mưa dầm gió bấc đã qua rồi. Năm nay, mưa sớm, mưa nhiều, nên gần tết, trời tạnh ráo. Sáng sớm còn lạnh, nhưng cái lạnh dễ chịu, cái lạnh không nỡ xoáy buốt vào da thịt. Buổi trưa nắng. Nắng vàng đẹp, như rơm vụ mùa. Nắng cho cải trổ ngồng, để hoa cải vàng đua cùng nắng. Nắng cho lá cải héo, cho nải dưa nén hành thơm mùi tết. Nắng cho ấm một sửa soạn đón xuân. Ban đêm, lạnh hơn đôi chút. Lạnh cho bếp lửa gần người, cho ổ rơm ý nghĩa. Cho những người đi bên nhau nhìn rõ hơi thở của nhau. Trăng trải ánh bạc. Cũng lạnh. Khoa, mơ hồ, thấy ánh trăng bốc khói. Không phải trăng đượm hơi sương đâu. Chỉ biết trăng bốc khói. Khói gì, Khoa chẳng biết. Khoa đưa cho Liên gói lạc rang:
- Liên có lạnh hông?
Liên cầm gói lạc, bỏ vào túi áo len. Rồi, đôi bàn tay Liên không muốn rời túi áo.
- Lạnh chứ.
Khoa, thản nhiên, quàng tay bá vai Liên, như nó vẫn quàng tay bá vai Đường, những đêm tập kịch, về chung một lối. Khi Khoa kéo Liên sát bên nó, Khoa mới ngỡ ngàng. Bàn tay lạnh rượi của nó nóng ran. Trái tim nó ồn ào, cơ hồ tiếng trống đồng đại hội. Khoa không dám buông tay mình khỏi vai Liên. Không thể buông được. Vai Liên là thỏi nam châm, mà tay Khoa chỉ là miếng sắt mỏng. Thỏi nam châm im lặng cuốn hút. Miếng sắt đổ mồ hôi lo lắng.
- Khoa có lạnh không?
- Không.
- Mình lên cầu Chờ một chút, nhé!
- Làm gì?
- Ngồi chơi.
- Không lạnh nữa à?
Liên lặng thinh, để mặc cánh tay Khoa quàng qua cổ mình, bàn tay Khoa đặt lên vai mình, dìu mình đi. Chẳng ai thấy hai đứa đi, ngoài con đường, ánh trăng, và cỏ lá. Quãng đường rộng dần và, từ đây tới cầu Chờ, thẳng tắp. Đêm yên tĩnh. Khoa không hiểu nó đang đi vào một cuộc đời khác cuộc đời bình thường, tẻ nhạt. Đoạn đầu của một đời người, là cuộc đời xa lạ với cuộc đời nối tiếp. Khi bước chân niên thiếu bước nhẹ trên đường thơm hoa mộng, mấy ai biết mình đang sống cuộc đời có thật, mà trời đất dành riêng cho mình. Cuộc đời ấy qua đi rất nhanh. Nếu mình không hưởng vội, mình sẽ hối tiếc. Và rồi, đến một tuổi nào, cuộc đời ấy chỉ còn sống dậy bằng hồi tưởng phản phúc, bằng chiêm bao thiếu mầu sắc, âm thanh. Bất hạnh cho một người, cho những người chối bỏ ân huệ của trời đất ban phát cho tuổi niên thiếu của mình, hay không biết hưởng ân huệ tuyệt diệu đó. Họ là những người mà cuộc đời bị cắt mất đoạn đầu đời. Họ không có kỷ niệm để hồi tưởng, để chơi những trò chơi bằng trí nhớ. Con đường đất chỉ là con đường đất. Ánh trăng chỉ là ánh trăng. Lá cây, ngọn cỏ chỉ là lá cây, ngọn cỏ. Tiếng gió luồn qua bụi tre, khóm lá chẳng mang thêm một ý nghĩa nào. Nếu ở đoạn đầu đời, ta được hưởng ân huệ của trời đất, được khoác vai người con gái bé nhỏ, đi trên con đường đất tắm ướt ánh trăng, nghe tiếng gió luồn qua bụi tre, khóm lá, ngửi mùi hoa bưởi về khuya, thì ngay ngọn cỏ cũng ngậm sương mơ, thì ngay cánh hoa cũng dậy mùi hương mộng.
- Khoa ạ!
- Gì?
- Mai, đừng cho Liên lạc rang nữa.
- Tại sao thế? Liên không thích ăn lạc rang của Khoa à?
- Thích lắm.
- Vậy Khoa cứ đem cho Liên. Mẹ Khoa rang đấy. Mẹ Khoa bảo tết này rủ Liên sang nhà Khoa, mẹ Khoa sẽ mừng tuổi Liên.
Đã đến cầu Chờ. Những chiếc cầu bắc ngang những khúc ngòi ở quê nhà Khoa, luôn luôn, là những phiến đá dầy, và lớn. Và, ngay cả những cây cột cao chống đỡ những phiến đá mặt cầu cũng bằng đá. Mặt cầu, qua nhiều năm tháng, phẳng lì, nhẵn bóng như mặt bàn gụ. Những bàn chân dính đất cát của người quê hương là thuốc đánh bóng mặt cầu đá. Buổi trưa có thể thấy rõ mặt mình trên cầu. Các cô thôn nữ thường dùng mặt cầu làm gương, sửa sang mớ tóc mai, chiếc khăn mỏ quạ, nếu quãng đường trước mặt đang đi tới mấy anh chàng xinh trai. Ngồi ở cầu, buông thõng hai chân, nhìn xuống con ngòi, để mộng mơ đôi chút. Tiếng sáo diều lơ lửng trời xanh. Những chiếc lá trang xanh non. Lũ gọng vó cứ thích bơi ngược dòng. Và, lá trang là chỗ nghỉ chân của những chú gọng vó dừng bước giang hồ. Đêm đêm, bất kể mùa xuân, hay mùa hạ, mùa thu, hay mùa đông, đều có một người ngồi trên cầu chờ đợi một gnười. Cầu, do đó, mang tên cầu Chờ. Cái tên thật lãng mạn. Lãng mạn như người quê hương, như người đã đặt tên cho chiếc cầu. Hẳn người này là thi sĩ, là tác giả những vần ca dao bồng bế, óng ả.
- Mình ngồi giữa cầu, Khoa nhé!
- Lạnh chết.
- Đã có lạc rang.
Khoa không muốn ngồi. Nó muốn đi mãi, đi suốt đêm, đi hết những con đường làng. Để, bàn tay nó nóng ran trên vai Liên.
- Khoa thích đi.
- Ngồi nghỉ chân một lát, rồi đi.
Khoa đành chiều Liên. Hai đứa ngồi giữa cầu, ngồi giữa một nơi mộng ảo, ngồi trên phiến đá thần, mà cả hai đều không biết. Hoạ chăng, là hồi tưởng mai sau. Cảnh tượng nào khác cảnh tượng trong chuyện thần tiên. Chiếc cầu. Dòng nước. Ánh trăng. Cơn gió. Cây cỏ. Sương khuya. Nhạc đêm. Sự im lặng, và hơi thở của hai tâm hồn. Ảo cảnh nào hơn ảo cảnh này? Ở ngay đây, trên chiếc cầu đá tầm thường của quê nhà, đã có. Hạnh phúc vốn đơn sơ. Không cần làm những chuyến đi xa, tìm kiếm, để trở về rã rời, mệt mỏi.
- Khoa ạ!
- Hở?
- Quê Khoa có nhiều tên hay ghê. Cầu Chờ, quán Nghỉ, hồ Mơ.
- Còn bến Đợi nữa.
- Ở đâu?
- Miễu Vang đi lên đê Trà Lý. Bến đò sang Tiên Hưng đó. Lâu lâu, mới có người qua sông, phải gọi đò bên kia sang. Đợi hàng giờ.
- Bến Đợi là bến đứng đợi đò. Ai đặt tên lạ nhỉ?
Bỗng Liên hỏi:
- Khoa lạnh không?
Khoa ngước mắt nhìn trăng:
- Không.
- Sao, lúc nãy, sợ lạnh chết?
- Giờ hết rồi.
Liên bốc cho Khoa một dúm lạc rang:
- Ăn đi.
Khoa đỡ lấy. Hai đứa vê vỏ thổi phù, rồi bỏ vào miệng nhai ròn. Đêm im lặng. Khoa nghe rõ tiếng súng đại bác từ Nam Định vọng sang. Tiếng súng, mấy hôm rầy, Khoa đã nghe nói. Đến nay, mới nghe thấy. Từ ngày thị xã Thái Bình tiêu thổ kháng chiến, giặc Pháp mới lướt qua một đêm, không bắn chết ai, rồi cút ngay về Nam Định. Giặc sợ hãi dân Thái Bình. Thái Bình là mồ chôn thực dân Pháp, cơ mà. Giặc sang ở lâu, sẽ bị tiêu diệt. Bọn Pháp giỏi cắn trộm thôi. Chưa chi đã rút vội. Tiếng súng vọng sang không làm ai nao núng. Đã quen rồi. Với lại, Thái Bình cách Nam Định mấy chục cây số, và con sông Hồng. Khoa tin chắc, giặc Pháp không thể chiếm Thái Bình. Hơn hai năm đóng quân, ở Nam Định, Pháp vẫn chẳng dám dòm ngó Thái Bình. Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Kiến An, Hưng Yên, Hà Nam,…, Pháp đã chiếm gọn. Thế mà, Pháp chỉ dám cho máy bay Bà Già bay cao tít tắp, trên vùng trời Thái Bình. Thỉnh thoảng, giặc thả truyền đơn, nói phét: Quỳnh Côi, Phụ Dực ra tro. Đống Năm, Trực Nội ăn no đạn đồng, để dọa dẫm dân Thái Bình.
Khoa nhớ, hôm trốn nhà theo bộ đội làm liên lạc viên, Vũ kéo Khoa ra vườn sau:
- Đêm nay anh đi.
- Đi đâu?
- Đánh nhau với tụi Pháp. Đại đội 4 đóng ở Thư Trì, đêm nào cũng vượt sông Hồng, qua Nam Định, đột kích đồn giặc. Bộ đội ta quấy phá giặc, ở Nam Định, bắt nó bỏ mộng chiếm Thái Bình. Anh phải bảo vệ thị xã.
- Em trốn với.
- Đại đội 4 nhận một mình anh thôi. Hai năm nữa, anh đủ tuổi vào bộ đội. Nhất định giữ Thái Nình. Anh sợ bố và dì biết, ngăn cấm. Khoa giúp anh bỏ hai bộ quần áo vào cái bị; đến tối, lẻn vất ở gốc cây bòng. Anh đã hứa đi chiến đấu.
- Với ai?
- Lớn lên em sẽ hiểu.
- Chắc chắn giữ được Thái Bình chứ, anh?
- Chắc chắn. Anh không còn phiêu lưu cống Đậu nữa. Anh không thích bị bố bắt về.
Khoa tin anh. Với Khoa, mãi mãi, Vũ là thần tượng. Vũ trốn nhà đi hai năm rồi. Hai năm, giặc Pháp chưa chiếm nổi Thái bình. Có lẽ, Vũ đã trở thành bộ đội, đêm đêm, vượt sông khuấy phá đồn giặc, để Khoa ngồi trên cầu Chờ với Liên.
- Liên có nghe thấy tiếng súng không?
- Không.
- Đạn đại bác đấy.
- Thế à? Liên chỉ nghe tiếng lạc rang nhai ròn. Ai rang lạc khéo quá? Vỏ tróc ngon ơ…
- Mẹ Khoa rang đó. Rang lạc chung với cát. Mẹ Khoa đổ cả lạc lẫn cát nóng bỏng vào miếng vải, bảo Khoa đem ủ vào chăn bông. Lúc nào muốn ăn, lấy cái sàng đãi cát.
Liên cầm tay Khoa, kéo Khoa đứng dậy:
- Đi lên cầu đình.
Khoa ngoan ngoãn theo ý của Liên. Hai đứa song song bước. Khoa không bá vai Liên, như ban nãy. Tự nhiên, Khoa ngượng ngập, sợ hãi. Nó thọc cả hai tay vào túi quần. Và, cho sự ngượng ngập có chỗ trốn thoát, Khoa huýt sáo khúc hát hoài hương:
Nghiêng nghiêng dòng Đào tuôn về sông Cấm
Đưa bao buồm thuyền về nơi xa xăm
Thành Tô, thành Tô
Nhịp sống tưng bừng
Em nhớ bến đò quen
Nhớ bờ sông Lấp
Có bao nhiêu là thuyền
Liên hỏi:
- Bài gì buồn thế hở, Khoa?
Khoa rút tay khỏi túi, đưa lên kéo cổ áo, trùm kín gáy:
- Nhớ thành Tô 1
- Khoa thuộc hết không?
- Hết.
- Hát cho Liên nghe.
Khoa hát nhỏ, đủ để giọng mình lọt vào tai con bé đi cạnh mình:
Nhớ quê hương nhớ quê hương…
Quê hương ngàn đời lòng ta thương nhớ
Muôn chim lạc loài thành xưa khôn quên
Thành Tô, thành Tô
Thành Tô u huyền
Chiều thu rơi cùng lá vàng rơi
Làn mây thu theo gió chơi vơi
Nhà anh xa khói lam mờ vương
Cùng chiều thu khiến xui lòng người sầu thương
…
Ngồi đăm nhìn bóng chiều êm
Dần đi trong tiếng lá rơi đầy thềm
Này em bé ơi cớ sao em buồn
Hay em chạnh lòng nhớ tới quê hương
Tiếng hát của Khoa tưởng chỉ một mình Liên nghe rõ, ai ngờ, nó theo gió lan tỏa trên mặt nước, lướt trên mặt cỏ, luồn qua bụi cây.
- Thành Tô ở đâu hở, Khoa?
- Hải Phòng.
- Làm Liên nhớ Hà Nội. Khoa hát hay ba chê.
- Có anh Vũ thổi ác mô ni ca, Liên sẽ khóc.
- Anh Vũ nào?
- Anh của Khoa. Anh ấy theo bộ đội rồi. Anh Vũ đã lên Hà Nội học.
Liên thôi hỏi. Con bé quàng tay đặt lên vai Khoa:
- Lạnh quá. Về đi.
Vai Khoa, bây giờ, là thỏi sắt lạnh được ấm lên bởi thỏi nam châm Liên. Và, Khoa để mặc Liên dẫn mình trở lại khúc đường mình vừa đi qua. Đến con ngõ chia đôi hai lối, hai đứa dừng lại. Liên nói:
- Tối mai, hết dạy học đấy, nhé! Mãn khóa rồi. Khoa thắng giải thi đua rồi.
Khoa ngó Liên:
- Khoa vẫn đem lạc rang cho Liên.
Hai đứa chia tay. Liên mới bước vài bước, Khoa chợt nhớ:
- Để Khoa dẫn Liên về, kẻo gặp ma!
Liên cười:
- ừ nhỉ, suýt quên.
Liên đẩy nhẹ cánh cổng, lách vào. Khoa đứng bâng khuâng trước ngõ nhà Đường. Nó ngẩng đầu ngắm trăng qua khóm lá. Bắt đầu một nỗi nhớ nhung. Bưởi đã kết trái, mà sao còn phảng phất mùi hoa. Hoa bưởi thơm. Đêm đã khuya lắm rồi.
--------------------------------
1 Trích trường ca Nhớ thành Tô, của Tô Vũ.