Ancient lovers believed a kiss would literally unite their souls, because the spirit was said to be carried in one’s breath.

Eve Glicksman

 
 
 
 
 
Tác giả: Mary Norton
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: The Borrowers (The Borrowers #1)
Biên tập: Lê Huy Vũ
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2675 / 62
Cập nhật: 2018-03-18 01:33:44 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 9
ó là một con mắt. Hay nó trông giống như một con mắt. Trong veo và sáng ngời như màu trời. Một con mắt như mắt của cô bé nhưng thật khổng lồ. Một con mắt trừng trừng. Nín thở vì sợ hãi, cô bé ngồi dậy. Và con mắt chớp. Một giàn lông mi vĩ đại cong xuống rồi lại bay lên vượt khỏi tầm mắt. Một cách thận trọng, Arrietty nhúc nhích đôi chân: cô bé khẽ khàng trượt vào giữa những cọng cỏ và tuột xuống bờ cỏ.
“Đừng nhúc nhích!” một giọng nói vang lên, và giọng nói, như con mắt, thật to nhưng vì lý do nào đó bị nén xuống - và khàn khàn như cơn gió ùa qua lưới sắt trong một đêm bão tháng Ba.
Arrietty cứng đờ người. “Thế ra chuyện này là vậy,” cô bé nghĩ, “điều tệ nhất và kinh khủng nhất của mọi điều: mình đã bị ‘nhìn thấy’! Chuyện gì đã xảy ra với Eggletina giờ gần như chắc chắn sẽ xảy ra với mình.”
Có một quãng ngừng và Arrietty, tim đập thình thịch trong tai, nghe thấy hơi thở hít nhanh trở vào cái phổi lớn. “Nếu không,” giọng đó nói, vẫn thì thầm, “tôi sẽ đánh cậu bằng chiếc gậy gỗ tần bì của tôi.”
Chợt Arrietty trở nên bình tĩnh. “Tại sao?” cô bé hỏi. Tiếng nói của cô bé nghe mới lạ làm sao! Mong manh như pha lê và rõ ràng như hoa chuông, nó lanh canh trong không khí.
“Nếu,” cuối cùng giọng thì thầm ngạc nhiên vang lên, “cậu chạy về phía tôi, nhanh, qua cỏ... nếu,” nó tiếp tục, hơi run run, “cậu đến và cào tôi bằng đôi bàn tay nhỏ tí bẩn thỉu của cậu.”
Arrietty nhìn chằm chằm vào con mắt; cô bé vẫn khá bình tĩnh. “Tại sao?” cô bé lại hỏi, và một lần nữa câu nói lại lanh canh - lần này lạnh như đá, và sắc như kim.
“Mọi thứ đều làm thế,” giọng nói bảo. “Tôi đã thấy chúng. Ở Ấn Độ.”
Arrietty nghĩ đến bộ sách Từ điển Địa lý Thế giới của mình. “Giờ cậu không ở Ấn Độ,” cô bé nói.
“Cậu vừa đi từ nhà ra ngoài phải không?”
“Phải,” Arrietty nói.
“Từ đâu trong nhà?”
Arrietty nhìn con mắt. “Tôi sẽ không kể cho cậu biết đâu,” cuối cùng cô bé dũng cảm nói.
“Thế thì tôi sẽ đánh cậu bằng chiếc gậy gỗ tần bì của tôi!”
“Được,” Arrietty nói, “đánh tôi đi!”
“Tôi sẽ tóm cậu lên và bẻ cậu ra làm đôi!”
Arrietty đứng dậy. “Được,” cô bé nói và tiến lên hai bước.
Có một tiếng thảng thốt và một cơn động đất trong cỏ: cậu bé quay đi và ngồi dậy, một ngọn núi khổng lồ trong cái áo len chui đầu màu xanh lục. Tóc cậu thẳng, màu vàng và lông mi màu ánh kim. “Dừng lại đó!” cậu bé kêu lên.
Arrietty chăm chú nhìn lên cậu. Thế ra đây là “cậu bé”! Cô bé cảm thấy chết lặng và hơi sợ hãi. “Tôi đoán cậu khoảng chín tuổi,” cô bé thốt lên sau giây lát.
Cậu bé đỏ mặt. “Không phải, cậu nhầm rồi, tôi mười tuổi.” Cậu nhìn xuống cô bé, hít sâu. “Cậu bao nhiêu tuổi?”
“Mười bốn,” Arrietty nói. “Tháng Sáu tới,” cô vừa nói thêm vừa nhìn cậu.
Sự im lặng bao trùm trong khi Arrietty chờ đợi, hơi run run. “Cậu có biết đọc không?” cuối cùng cậu bé hỏi.
“Tất nhiên,” Arrietty nói. “Thế cậu thì không à?”
“Không,” cậu bé ngập ngừng nói. “Ý tôi là - có. Ý tôi là tôi vừa từ Ấn Độ tới.”
“Chuyện đó thì liên quan gì?” Arrietty hỏi.
“Ừ thì, nếu được sinh ra ở Ấn Độ, cậu sẽ nói hai thứ tiếng. Và nếu nói hai thứ tiếng thì cậu không biết đọc. Không thạo lắm.”
Arrietty nhìn chằm chằm lên cậu bé: thật là một con quỷ, cô bé nghĩ, đen tối trước bầu trời.
“Thế rồi khi lớn thì có thay đổi không?”
Cậu bé hơi nhúc nhích và cô bé cảm thấy cái lạnh trong bóng râm của cậu.
“Có chứ,” cậu bé nói, “điều đó sẽ mất dần đi. Các chị tôi đều biết hai thứ tiếng; bây giờ thì không còn biết hai thứ tiếng tí nào nữa. Họ có thể đọc được bất cứ cuốn sách nào trên phòng học.”
“Tôi cũng thế,” Arrietty nhanh nhảu, “nếu có ai cầm được các cuốn sách, và lật sang trang mới. Tôi không biết hai thứ tiếng. Tôi có thể đọc được bất cứ cái gì.”
“Cậu có biết đọc to lên không?”
“Tất nhiên,” Arrietty nói.
“Bây giờ cậu có thể đợi ở đây trong khi tôi chạy lên tầng trên và lấy một cuốn sách không?”
“Ừ,” Arrietty nói; cô bé đang mong muốn được khoe tài năng của mình; rồi vẻ hoảng hốt hiện ra trong mắt cô bé. “Ôi...” cô bé ngập ngừng nói.
“Có chuyện gì vậy?” Giờ cậu bé đã đứng lên. Cậu vút lên như một ngọn tháp phía trên cô bé.
“Ngôi nhà này có bao nhiêu cửa?” cô bé nheo mắt lại khi nhìn lên cậu bé trước ánh sáng mặt trời. Cậu bé quỳ một đầu gối xuống.
“Cửa?” cậu bé nói. “Cửa ra vào?”
“Phải.”
“Ừ thì, có cửa chính, cửa sau nhà, cửa phòng để súng, cửa phòng bếp, cửa phòng rửa bát... và những cái cửa sổ kiểu Pháp ở phòng khách nhỏ.”
“Ừ, cậu biết đấy,” Arrietty nói, “bố tôi đang ở hành lang, chỗ cửa chính, đang làm việc. Bố tôi... bố tôi sẽ không muốn bị quấy rầy.”
“Đang làm việc?” cậu bé nói. “Việc gì?”
“Kiếm vật liệu,” Arrietty nói, “cho một cái bàn chải.”
“Thế thì tôi sẽ vào bằng cửa bên”; cậu bé dợm bước rời khỏi nhưng chợt quay người và trở lại phía cô bé. Cậu đứng một lúc, như thể ngượng ngùng, và rồi nói, “cậu có biết bay không?”
“Không,” Arrietty nói, ngạc nhiên, “thế còn cậu?”
Mặt cậu bé càng đỏ hơn. “Tất nhiên không,” cậu cáu cẳn, “tôi không phải là tiên!”
“Ừ, tôi cũng thế,” Arrietty nói, “cũng tuyệt chẳng ai như thế. Tôi không tin là có tiên.”
Cậu bé nhìn cô bé với ánh mắt kỳ lạ. “Cậu không tin là có họ?”
“Không,” Arrietty nói, “thế còn cậu?”
“Tất nhiên là không!”
“Mẹ tôi tin vào họ,” cô bé nói, cố gắng làm cậu bé nguôi giận. “Mẹ tôi cho rằng đã có lần nhìn thấy một nàng tiên. Đó là hồi mẹ tôi còn bé và sống với bố mẹ của bà ở đằng sau cái đống cát trong kho để chậu hoa.” Thực sự, cô bé nghĩ, cậu này là một kiểu con trai rất cáu kỉnh.
Cậu bé ngồi xổm xuống và cô bé cảm thấy hơi thở của cậu trên má mình. “Thế nó như thế nào?” cậu bé hỏi.
“To khoảng bằng con đom đóm với những chiếc cánh như cánh bướm. Và nó có khuôn mặt nhỏ xíu, mẹ tôi nói, sáng rực và di chuyển như tia sáng lóe còn những bàn tay tí hon thì luôn động đậy. Khuôn mặt của nó luôn thay đổi, mẹ tôi nói, luôn cười và như là ánh sáng lung linh. Nó có vẻ như đang nói chuyện, mẹ tôi nói, rất nhanh nhảu - nhưng ta không nghe được một lời nào cả...”
“Ồ,” cậu bé nói, vẻ thích thú. Một lúc sau cậu hỏi, “Nó đi đâu?”
“Nó chỉ đi,” Arrietty nói. “Khi mẹ tôi nhìn thấy nó, nó có vẻ như đang bị mắc vào một cái mạng nhện. Lúc đó trời đã tối. Khoảng năm giờ vào một chiều đông. Sau bữa trà.”
“Ồ,” cậu bé lại nói và cầm lên hai cánh hoa anh đào mà cậu gập vào nhau như một chiếc bánh kẹp rồi từ từ ăn. “Giả dụ,” cậu vừa nói vừa nhìn chằm chằm qua cô bé về phía bức tường ngôi nhà, “cậu nhìn thấy một người đàn ông nhỏ bé, cao bằng khoảng cái bút chì, với một miếng vải xanh lơ vá trên quần, trèo lưng chừng rèm cửa sổ, đang bê một tách trà búp bê - cậu có nghĩ đó là ông tiên không?”
“Không,” Arrietty nói. “Tôi sẽ nghĩ đó là bố tôi.”
“Ồ,” cậu bé lên tiếng rồi chợt nghĩ ra, “bố cậu có miếng vải xanh vá trên quần không?”
“Quần đẹp nhất của ông thì không. Quần ông mặc khi đi mượn thì có.”
“Ồ,” cậu bé lại nói. Giống một luật sư trong tình huống này, cậu dường như thấy câu nói đó tạo cảm giác tin tưởng. “Có nhiều người như cậu không?”
“Không,” Arrietty nói. “Chẳng có ai cả. Chúng tôi đều khác nhau.”
“Ý tôi là bé nhỏ như cậu ấy?”
Arrietty cười. “Ồ, đừng ngớ ngẩn như thế!” cô bé nói. “Cậu chắc hẳn không nghĩ trên thế giới này có nhiều người to bằng cậu đâu nhỉ?”
“Có nhiều người cỡ tôi hơn là người cỡ cậu,” cậu bé đáp lại.
“Thật tình...” Arrietty mở lời với vẻ bất lực rồi lại cười. “Cậu có thật sự tin - ý tôi là, một thế giới như thế thì sẽ thế nào? Những chiếc ghế khổng lồ... tôi đã thấy chúng. Thử nghĩ xem nếu phải làm những chiếc ghế cỡ to như thế cho mọi người? Và vật liệu cho quần áo của họ... hàng dặm và hàng dặm vải... hàng rạp vải... và phải khâu nữa chứ! Và những ngôi nhà khổng lồ của họ, cao đến nỗi ta gần như không nhìn thấy trần nhà... những cái giường khổng lồ của họ... những thực phẩm họ ăn... những núi đồ ăn khổng lồ bốc khói, những chiếc ao đầy đồ ninh và xúp và đủ thứ.”
“Cậu không ăn xúp à?” cậu bé hỏi.
“Tất nhiên là chúng tôi có ăn xúp,” Arrietty cười. “Bố tôi có ông bác có một chiếc thuyền nhỏ dùng để chèo vòng quanh trong nồi hầm xương và vớt những miếng trôi nổi. Ông ấy cũng câu xuống dưới đáy để lấy những miếng tủy xương cho đến khi đầu bếp trở nên nghi ngờ khi tìm thấy những cây kim uốn cong ở trong xúp. Có lần ông ấy suýt bị đắm thuyền vì đâm phải một cục xương ống ngầm. Ông ấy bị mất mái chèo và thuyền bị thủng khiến nước vào trong nhưng ông đã quăng được một sợi dây lên quai nồi và kéo mình lên dọc miệng nồi. Nhưng cả chỗ nước hầm đó - phải tới hàng sải nước hầm! Và cỡ của cái nồi! Ý tôi là, một chút nữa thì đã chẳng có đủ đồ trên thế giới này để nấu! Vì thế bố tôi nói may là họ đang dần tuyệt chủng... chỉ còn một vài người, bố tôi nói, đó là tất cả những gì chúng tôi cần - để nuôi chúng tôi. Nếu không, bố tôi nói, tất cả mọi thứ sẽ” - Arrietty ngập ngừng, cố gắng nhớ lại từ ngữ - “phóng đại lên quá đáng, bố tôi nói...”
“Ý cậu là gì,” cậu bé hỏi, “ ‘để nuôi chúng tôi’ là sao?”
Những Người Vay Mượn Tí Hon Những Người Vay Mượn Tí Hon - Mary Norton Những Người Vay Mượn Tí Hon