Nguyên tác: La Peau Du Pachyderme
Số lần đọc/download: 1895 / 36
Cập nhật: 2016-07-06 02:05:58 +0700
Chương 4: Một Xã Hội Phải Giải Độc
N
gày 10 tháng Chín 1975, chính quyền cách mạng đưa ra công khai đường lối chính sách mà cách mạng sẽ noi theo để “khôi phục và phát triển nền công nghiệp và thương nghiệp” của đất nước.
Vào đầu mùa hạ, Hội nghị toàn thể Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 24 họp tại Đà Lạt, khu nghỉ mát nổi tiếng nhất ở miền Nam. Chương trình nghị sự là: những vấn đề về thống nhất đất nước. Phân tích cơ sở kinh tế hạ tầng ở miền Nam, Ban chấp hành Trung ương Đảng đánh giá là phải duy trì ở đấy một giai đoạn quá độ trước khi tiến hành xã hội hóa tư liệu sản xuất: những hình thức tư hữu về tài sản vẫn được duy trì trong công nghiệp, thương nghiệp và nông nghiệp. Vậy là trong giai đoạn chuyển tiếp này sẽ song song tồn tại năm hình thức sở hữu chính: sở hữu nhà nước, sở hữu hợp tác xã, sở hữu liên doanh Nhà nước với tư nhân, sở hữu tư bản tư nhân và sở hữu cá thể.
Những phân tích được đưa ra với Chính phủ cách mạng lâm thời này là dựa vào cơ sở của đường lối được công bố ngày 10 tháng Chín: khu vực quốc doanh được coi là khu vực chủ đạo để phát triển sản xuất mở rộng lưu thông phân phối và ổn định thị trường. Nhưng với các nhà “tư sản dân tộc” Nhà nủòc cũng kêu gọi họ đầu tư, vào những khu vực “có lợi cho quốc gia và dân sinh”. Nhà nước cam kết sẽ hỗ trợ cho họ đặc biệt về những gì liên quan đến nguyên liệu và bảo đảm cho họ một “lợi nhuận phải chăng”, với điều kiện là những quyền lợi cơ bản của người lao động phải được tôn trọng. Đồng thời, nhà nước cũng bảo đảm với “các nhà khoa học và kỹ thuật các cán bộ chuyên môn về sản xuất và quản lý” của chế độ cũ, những người có thể đóng góp vào việc khôi phục và phát triển kinh tế quốc gia, rằng họ sẽ được giao “Những công việc quan trọng với đồng lương thích hợp” tùy theo trình độ và hiệu quả công tác của họ. Việc buôn bán chính đáng sẽ được bảo hộ, nhưng với nhiều người thuộc ngành này thì việc khuyến khích và giúp đỡ họ chuyển sang sản xuất là điều cần thiết bởi buôn bán đã trở nên quá thừa trong những thành phố miền Nam...
Để bảo đảm cho chính sách ấy và làm trong sạch những cơ cấu kinh tế miền Nam, trước hết cần phải bẻ gãy những “mạch chảy” của quyền lực kinh tế của chế độ cũ. Trong đêm 9 tháng Mười một, công an đã tiến hành một chiến dịch truy quét lớn và một số vụ bắt giữ nhằm vào bọn đầu sỏ trong giới mại bản mà phần đông là Hoa kiều. Nhưng các nhà chức trách cũng chú ý tránh không để xảy ra mọi biểu hiện có tính chất bài ngoại.
Người ta không biết thực sự nói thế nào về “chủ nghĩa tư bản” ở miền Nam tuy rằng nó cũng tồn tại trên một vài khía cạnh. Việc công nghiệp hóa của miền Nam chủ yếu dựa vào các di sản từ thời thực dân để lại mà đến lúc này nó vẫn là khu vực quan trọng nhất, vốn liếng vẫn nằm trong tay người Pháp, và một phần khác dựa vào công nghiệp chủ yếu là về thực phẩm của người Hoa lập ra vào năm 1960. Trong vài năm cuối của cuộc chiến tranh, một vài ngành công nghiệp khác cũng được hình thành do sự liên doanh của người Việt với vốn của người Hoa hoặc Thái, nhưng trên ba khu công nghiệp của miền Nam thì duy nhất trên thực tế mới chỉ có một được hình thành, đó là khu công nghiệp Biên Hòa, cách Sài Gòn 30 kilômét, nơi đã mọc lên khoảng năm chục nhà máy trong đó một số chưa hoạt động và khoảng vài ba chục nhà máy khác đang xây dựng dang dở. Trong hai khu công nghiệp khác, Đà Nẵng và Mỹ Tho, thì người ta mới chỉ thấy những tấm bảng cắm trên những bãi đất hoang chỉ tên công trình dự định xây cất.
Như người ta đã thấy, giai cấp tư sản Việt Nam được hình thành chủ yếu từ những người sống bằng tô tức ruộng đất, lại vừa đồng thời là những thân hào do công cuộc thực dân hóa của Pháp dựng nên. Nó hoàn toàn thiếu tính năng động, một tính cách mà chủ nghĩa tư bản lúc ban đầu đòi hỏi. Sinh ra do sự xâm lược nước ngoài và vì vậy mất cả quyền dân tộc, và bị giam hãm bởi trò chơi của một quyền lực có tính hình thức, khát khao thèm muốn đồng bạc Pháp rồi đồng đôla Mỹ, về bản chất nó là một kẻ làm ăn theo kiểu cho vay nặng lãi, mang tính đầu cơ trục lợi hơn là sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực. Ngoại trừ một số trí thức, Nam Việt Nam không có hẳn hoi một “giới trí thức”, một tầng lớp trí thức có khả năng tạo ra một suy nghĩ độc lập, nhưng bù lại, nó lại có một số lớn những nhà kỹ thuật thuộc nhiều bộ môn, đặc biệt là về luật.
Quyền lực thực tế về kinh tế là thuộc về người Hoa. Khi người Pháp tới miền Nam Việt Nam năm 1859, họ đã thấy người Hoa lập nên Chợ Lớn, mặt hướng về vựa lúa giàu có nhất của xứ sở Đàng trong là đồng bằng Cửu Long. Mặt khác, họ sẽ xây dựng Sài Gòn trên con sông cùng tên, nằm trên trục đường hướng ra phía biển.
Vậy là Chợ Lớn đương nhiên trở thành trung tâm trao đổi buôn bán giữa Pháp và Việt Nam. Từ thế kỷ 17, trong khi cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn đang tàn phá đất nước thì những nhà buôn Trung Hoa bắt đầu đến cắm rễ ở miền Nam. Mới đầu là Biên Hòa, rồi năm 1777 là Sài Gòn. Tùy theo nhu cầu của công việc, họ hỗ trợ lẫn nhau rồi cuối cùng họ giúp Nguyễn Ánh chiếm lại cả vương quốc. Từ đời này qua đời khác, từng sợi một, họ đã đan dệt nên một mạng lưới độc quyền buôn bán, dựa vào mạng lưới của các gia đình làm ăn trên tất cả các khu vực của châu Á, điều mà các thế hệ người Hoa đã làm từ hai ngàn năm nay.
Lúc đó, họ đóng một vai trò trung gian giữa các nguồn lợi kinh tế địa phương với nhu cầu của triều đình và các nhà buôn phương Tây, kiếm lời rất nhiều theo tỷ lệ phần trăm trên những vụ chuyển nhượng qua lại ấy. Việc làm ăn buôn bán đã trở thành lĩnh vực riêng của họ, bởi triều đình phong kiến và các quan lại Việt Nam tỏ ra không có thiên hướng về việc đó, vả lại, ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cũng giúp họ ít nhiều trong công việc làm ăn ở Việt Nam.
Công cuộc thực dân hóa lại củng cố thêm vai trò buôn bán của họ, trong khi sức nặng xã hội của họ lại mạnh thêm cùng với sự gia tăng của những cuộc di cư của người Trung Hoa ở cuối thế kỷ 19. Sự ưu việt về kinh tế của họ qua nhiều thời kỳ đã ngày càng trở nên khó chịu đựng đối với chính quyền Việt Nam: năm 1956, để bẻ gãy thế độc quyền của người Hoa, Ngô Đình Diệm đã buộc họ phải nhập quốc tịch Việt Nam và cấm họ không được làm mười một nghề chủ yếu. Nhưng sức nặng của họ trong xã hội miền Nam đã trở nên quá lớn, nên các biện pháp đó đã tỏ ra không hữu hiệu.
Một mặt, những tầng lớp trên của Sài Gòn đều không có khả năng thay thế họ, mặt khác trong thế mất ổn định của chế độ, nhất là sau khi Diệm đổ, người Hoa lại là những người duy nhất yẫn giữ được tính ổn định, có tinh thần cố kết cộng đồng và về công việc thì họ luôn luôn là những người sẵn sàng có mặt.
Khi thay thế người Pháp, người Mỹ đã đào tạo những người mới của họ, trong đó có cả những người xuất thân từ tầng lớp dưới. Nhưng hễ những người này xuất hiện thì lập tức những nhà “làm ăn” người Hoa chìa tay ra nâng đỡ. Thế là những tên “thủ lĩnh cỡ nhỏ” ấy, những kẻ tham lam, vội vã, những kẻ mà đối với chúng quyền lực có nghĩa trước hết là làm giàu cho nhanh, mau chóng trở thành tay chân của họ. Với tài xử sự khéo léo, giới làm ăn người Hoa ở miền Nam đã xây dựng được cả một mạng lưới quốc tế, liên kết giữa họ với Đài Loan, Băng Cốc, Singapore, Dakorta, Mani... Những mạng lưới vững chắc dựa trên cơ sở những cơ cấu gia đình cổ, sự đoàn kết giữa các băng đảng địa phương, bí mật của những vụ chuyển nhượng bằng miệng... và nhiều thế kỷ kinh nghiệm... Đó là sức mạnh trong việc làm ăn của giới tư sản mại bản người Hoa.
Sau chiến dịch truy quét đêm 9 tháng Mười một năm 1975, dựa trên những tài liệu thu bắt được, báo Tia sáng đã nêu ra vài trường hợp giúp người ta hiểu được “bộ máy quan liêu và quân phiệt” Sài Gòn trước đây đã phối hợp hành động như thế nào với quyền lực kinh tế của giới tư sản mại bản miền Nam. Như “Vua Thép” Lâm Huệ Hồ... Hồ khởi đầu sự nghiệp làm giàu của mình bằng việc buôn lúa gạo với nông dân tỉnh Long Xuyên, bằng cách áp dụng những phương pháp cho vay nặng lãi cổ truyền. Nhưng chính là với chiến tranh của Mỹ mà Hồ phất lên làm ăn to: hắn được Mỹ dành cho độc quyền mua những đồ quân cụ bị loại. Trong “trò chơi” của hắn, hắn đã kiếm được sẵn mấy con chủ bài. Năm 1966, Hồ bị truy tố về hoạt động buôn lậu. Để giải quyết vụ này, Hồ chỉ cần “hợp tác” với mấy tay tai to mặt lớn của chế độ Sài Gòn: với tướng Đỗ Kiến Nhiễu, đô trưởng đô thành - người đã giúp hắn mua được những lô đất để xây nhà cho Mỹ thuê, với tướng Mai Hữu Xuân ở Thủ Đức, để được quyền xây nhà kho. Và vụ việc đã được giải quyết êm. Còn về việc mua những đồ quân cụ bị thải loại, hoặc khai là thải loại, cứ 100 tấn lại thu hồi được 15.000-20.000 đôla, thì báo Tia sáng cho biết là Hồ đã có sự hợp tác làm ăn với vợ của cựu bộ trưởng ngoại giao của Thiệu - Trần Văn Lắm, vợ thủ tướng Trần Thiện Khiêm, tổng tham mưu trưởng quân đội Cao Văn Viên và phụ thêm vào nữa là tổng giám đốc Vụ kế hoạch và bộ trưởng bộ công chính Huỳnh Văn Diễm.
Lâm Huệ Hồ cho chở về Hồng Kông và Singapore một phần của lượng đồng quan trọng của số vỏ dạn Mỹ để lại với danh nghĩa để làm quỹ xây dựng và trị giá tới 200 triệu đôla. Vào hồi cuối chiến tranh. Hồ đã kiểm soát tới hơn 18 ngành nhập khẩu quan trọng.
Tương tự như trên, một số những “vua” khác cũng xây dựng nên cơ nghiệp của mình: sau hai ngày kiểm kê, tài sản của “Vua lúa gạo” là 400 triệu đôla. Những “vua sắt vụn” cũng không thiếu. Họ làm giàu theo một chu trình khá độc đáo. Theo báo Tia sáng, móc ngoặc với giám đốc của các cơ quan phụ trách về “Đồ quân cụ phế thải” Trần Hoàng Trung, một Hoa kiều là Lý Sến đã thành lập nhà máy Sadakim ở Biên Hòa, một xưởng đúc để đúc từ những quân cụ phế thải thành những đồ kim loại rồi để quay lại cung cấp cho quân đội...
Trong chiến dịch truy quét giới mại bản làm giàu bất chính, chính quyền cách mạng hết sức quan tâm đến không để nó bị chệch hướng, nhất là không để nó bị hiểu lầm là mang tính chất “chống người Hoa”. Đó là một chính sách hoàn toàn đúng đắn và khi thực hiện nó không phải là không ít khó khăn...
Chợ Lớn có 500.000 người Hoa sinh sống. Ở “Tiểu Sài Gòn người Hoa” này họ được tổ chức thành bảy hội lớn, trong đó những hội mạnh nhất là Hội “những người Quảng Đông”, giàu và đông nhất, rồi Hội “những người Phúc Kiến” và “Triều Châu”... Những hội này có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có mục đích tương trợ lẫn nhau, ví dụ như họ có nhà thương riêng do cộng đồng của họ tài trợ; quan hệ giữa họ với Đài Loan còn hơn cả mức mật thiết...
Báo đảng ở Sài Gòn tờ Sài Gòn giải phóng, đã nhiều lần chỉ rõ rằng đối tượng của chiến dịch truy quét nói trên là: “Những chủ doanh nghiệp cỡ lớn, chúng đã câu kết với đế quốc Mỹ và bù nhìn tay sai để làm giàu trên xương máu nhân dân và bây giờ chúng lại tiếp tục đầu cơ, nắm giữ độc quyền và lũng đoạn thị trường”. Vậy “phân biệt cơ bản” ở đây là “thái độ và những phương thức kinh doanh của bọn tư sản mại bản chứ không phải ở quốc tịch của chúng”.
Trong cuộc họp báo sáng hôm sau chiến dịch bắt giữ, người phát ngôn của Ủy ban quân quản đã nhấn mạnh rằng “cách mạng hết sức chú ý để chỉ trừng phạt những kẻ nào có tội và tùy theo mức độ nghiêm trọng của tội lỗi của chúng”. Và, cũng vẫn tờ Giải phóng đưa tin, người phát ngôn lại một lần nữa khẳng định rằng “tất cả những người “hữu sản khác” đều không nhất thiết phải liên quan đến những biện pháp này; những người buôn bán nhỏ, ngay cả khi họ có đầu cơ tích trữ, thì họ cũng “trước hết được coi là những người lao động. Kể cả những người buôn bán tương đối giàu, họ cơ bản cũng vẫn giữ được tính chất người lao động” và họ không có gì phải lo lắng, chính quyền cách mạng chỉ “khuyên họ nên cư xử một cách khác”, và nói rõ là không có vấn đề tịch thu, bắt giữ hàng hóa, của cải vốn liếng của những người buôn bán nhỏ”.
Những chiến dịch vùa nói giúp cho chính quyền nắm được những kho tích trữ lớn hàng hóa của bọn trùm sỏ gian thương những mặt hàng đột nhiên biến mất khỏi thị trường, kéo theo một sự tăng vọt giá cả và làm dấy lên những lời xì xào đồn đại rằng hàng bị vơ vét và “gửi ra Hà Nội”. Trong kho của “Vua dệt” La Nghĩa, người ta khám phá ra bốn triệu mét vải, lụa và lập tức sau vụ thu giữ này giá vải hạ ngay xuống 30 đến 50% trên thị trường... Cũng như vậy, trong kho của công ty Siêu Phong, người ta thấy tích trữ cơ man nào là thuốc lá Bastos, và giá mỗi bao trước đây đang từ 20 bỗng leo thang lên 160, rồi 400 đồng thì nay tụt xuống còn 130 đồng. Nhiều kho dược và một số mặt hàng khác cũng được tìm thấy, giá cả thị trường cũng lập tức lên, xuống tương tự...
Vậy là có cả một kế hoạch được giới tư sản mại bản xếp đặt khéo léo để chống lại chính quyền mới. Một số biện pháp được thực hiện đã nhanh chóng làm ổn định việc cung cấp cho dân chúng và rất được lòng dân, kể cả người Hoa bởi họ cũng đa số là những người lao động. Tuy nhiên trong việc đổi tiền thì sự thể lại không hoàn toàn như thế.
Trước đây, do những mất cân bằng của họ từ 1972 chế độ ngụy Sài Gòn chỉ có hai cách để đương đầu với suy thoái kinh tế: đó là tăng thuế và lạm phát... Tỷ lệ lạm phát là từ 50 đến 60% năm 1974, và nếu không có Mỹ viện trợ, thì nó có thể lên tới từ 100 đến 200%.
Cuối năm 1974, các chuyên gia Mỹ ước tính tổng số tiền ở miền Nam đã lên tới 485 tỷ đồng, 377 tỷ đang lưu hành hoặc cất giữ; thế mà vào những ngày cuối của chế độ ngụy nhiều khoản tiền lớn đã được rút khỏi các ngân hàng. Vậy là khối lượng tiền khổng lồ mà giới tư sản mại bản kiểm soát đã trở thành một trở ngại lớn, thậm chí nguy hiểm cho chính sách kinh tế mới mà những người cách mạng có ý định thực thi. Họ cần phải làm dịu sự lạm phát ấy bằng phát hành tiền giấy và tước khỏi tay bọn mại bản cái công việc gây sức ép về kinh tế của chúng. Đó là một việc làm hết sức cần thiết để làm trong sạch những cơ sở của một sự phát triển kinh tế căn bản mới. Nhưng làm việc này, những người cách mạng đã đụng chạm đến cái mà cho đến giờ nó vẫn là “chất xi măng” của xã hội ấy: đó là tiền.
Ngày 21 tháng Chín 1975, Chính phủ cách mạng lâm thời đã ban hành một sắc lệnh: đưa ra lưu hành một đồng tiền mới ở Nam Việt Nam; đồng tiền này có mệnh giá khác với đồng tiền miền Bắc vì có tính đến những khác biệt giữa thị trường hai miền. Đồng tiền cũ Sài Gòn bắt buộc phải đổi.
Tỷ lệ đổi là 1 đơn vị tiền mới ăn 500 đơn vị tiền cũ. Trong thời gian đầu, mỗi hộ gia đình có thể đổi đến số tiền 100.000 đồng tiền cũ, tức tương đương với một món tiền tính theo nguyên tắc là đủ cho nhu cầu trong một tháng rưỡi, các cơ sở kinh doanh thì có thể đổi tới 500.000 đồng. Số dư được đưa vào vốn tiết kiệm và chuyển đổi cùng với số lãi sang tiền mới và tùy theo nhu cầu được rút ra sử dụng dần dần. “Chiến dịch” đổi tiền này phải được tiến hành nhanh chóng trong mười hai giờ.
Cùng với việc này, giá cả của một số mặt hàng thiết yếu cũng được hạn định để tránh mọi đầu cơ và nhằm ổn định thị trường. Để thành công mỹ mãn, chiến dịch chẳng những đòi hỏi phải nhanh chóng mà còn đặc biệt phải tuyệt đối giữ bí mật trong khâu chuẩn bị. Thế nhưng yêu cầu này lại có khó khăn đối với tình hình lúc bấy giờ: ngay một lúc phải có hàng vạn cán bộ để đổi tiền trên toàn miền, bởi các bàn đổi tiền phải triển khai trên rất nhiều nơi, đến tận các phường các xã. Cán bộ lại chưa có kinh nghiệm. Trong số những cán bộ mới - những cán bộ của “sư đoàn 304”, tên mà dân Sài Gòn đặt cho những người tham gia cách mạng trong dịp 30 tháng Tư, cũng có những người có quan hệ với giới làm áp phe cũ. Được kịp thời báo trước bọn này đã tìm cách đối phó và do đó, 10 đến 15% số tiền đổi đã vuột khỏi sự kiểm soát của chính quyền cách mạng. Nhưng thắng lợi vẫn là chủ yếu: quyền lực kinh tế của giới mại bản miền Nam đã bị giáng một đòn nặng.
Tuy nhiên, một loạt nhưng sai lầm phạm phải cũng gây nên một sự bất bình nào đó trong dân chúng: giá cả quy định không phù hợp với giá trị thực của hàng đã làm cho thị trường mất cân bằng; mức trần của số tiền được đổi còn quá thấp và gây khó khăn cho dân chúng, nhất là những bà con chỉ có ít tiền. Ngân hàng lại đóng cửa khiến không một hoạt động tài chính nào được thực hiện... Một sự bất ổn nào đó đã xuất hiện, mở rộng và làm lây lan ở Sài Gòn những tiếng “xì xầm” về những trại cải tạo, số phận của những sĩ quan ngụy cũ và tính hiệu lực của đồng tiền mới...
Càng hơn thế nữa, việc nhà nước nắm giữ độc quyền mua bán gạo cùng với giá cả không phù hợp, trong thời gian đầu đã làm rối loạn sự phân phối: một phóng viên báo Sài Gòn giải phóng đã báo hiệu rằng trong tháng Mười, tình trạng đầu cơ gạo vẫn tiếp tục ở vùng đồng bằng Cửu Long mà nguyên nhân chính là do trình độ còn quá yếu của những cán bộ phụ trách việc mua bán.
“Cán bộ của chúng ta phụ trách việc mua gạo (của nông dân) lại không có chuyên môn, họ còn chưa biết phân biệt từng loại gạo”, người phóng viên viết – “nhiều cán bộ đã bị người bán đánh lừa. Bọn đầu cơ đã bán cho họ cả thóc lép, thóc ướt trộn lẫn với thóc tốt, hoặc làm ẩm bao bì để được tăng cân.” Sự thiếu khả năng ấy đôi khi còn kéo theo cả thái độ hẹp hòi, hống hách của một số cán bộ:
“Tôi đã được chứng kiến một phụ nữ - phóng viên kể tiếp - từ một cửa hàng mua bán (của Nhà nước) vừa bước ra vừa khóc. Tôi hỏi chị, chị đáp: “Con tôi ốm, tôi mang bán hai thùng thóc, và tôi đã phải đợi hai ngày mới bán được. Giờ tôi không biết con tôi đang ra sao”. “Giá biết thế này, chị nói tiếp, thì tôi đã bán quách cho bọn đầu cơ với bất kỳ giá nào cho xong.”
Phóng viên đưa tiếp một ví dụ khác: “Bà Tâm ở chợ Bùng, Tân Hiệp, mang đi bán 30 thùng thóc cho trạm hàng nhà nước. Sau khi bà đã phải đợi hai ngày thì đến lúc ấy, anh cán bộ mới trả lời bà là trạm đã hết tiền để mua thóc. Bà đề nghị cho bà bán chịu vậy, nhưng anh cán bộ nhất định không nghe. Thế là bà đành phải mang về, mà thóc tất cả đã bị mọc mầm. Đó còn chưa kể bà lại phải mất thêm 8 đồng nữa để chuyên chở.”
Nhưng trong thời gian ấy, mặc dù trình độ có sự bất cập, các ủy ban cách mạng cũng đã hoàn thành được một khối lượng lớn công việc có lợi cho nhân dân, đặc biệt trong những công việc có nhiều khó khăn nhất. Sẽ rất thú vị khi xem xét những kết quả đạt được ở quận 6, một quận nằm ở tây Nam Sài Gòn, quận này tựa như một cây cầu nhỏ đi ra những vùng quê lân cận, bắc ngang qua hai con sông, Rạch Bình Tiên và VanCo (LiOm) nơi mà ở đấy mọc lúp xúp sát mặt nước những căn nhà tồi tàn của những người dân đi lánh nạn từ những vùng được “bắn thả cửa” (free fire Zones) ở liền ngay sát đấy. Đó là một trong những quận đông dân nhất với 225.000 dân; năm 1973, nó chỉ mới có 187.000 dân. Trước giải phóng, người ta thống kê được ở đây 23.000 người bị thất nghiệp, và thêm vào con số này là 25.000 binh sĩ và nhân viên ngụy quyền cũ đến trú ngụ.
Trong sáu tháng, chính quyền mới của quận đã phát không gần 1000 tấn gạo cho 129.000 gia đình; điều đó báo hiệu cho biết tình trạng nghèo khó đã tăng lên ở đây, bởi chính quyền chỉ phát gạo cứu tế cho những gia đình thật túng thiếu.
Cũng trong thời kỳ này, khoảng bốn chục cửa hàng bán một số mặt hàng như gạo, xăng dầu, xi măng, than củi... đã được mở. Tình đoàn kết tương trợ phát triển như ủy ban cách mạng đã thống kê được gần 70.000 người tham gia không lương vào các công tác vệ sinh công cộng. Năm mươi kilômét đường sá và tám kilômét cống rãnh được sửa chữa và nạo vét.
Các cơ sở y tế đã tiêm chủng cho 400.000 người, và đặc biệt, nhiều trường hợp đã nhanh chóng được mở để giải quyết việc học hành cho các cháu: 38 trường tư được quốc hữu hóa cùng với 8 trường công vẫn có.
Nếu việc gia nhập vào những hội quần chúng được khuyến khích chứ không bắt buộc, thì việc gia nhập những tổ chức cách mạng vẫn đòi hỏi phải qua tuyển chọn: như “hội Thanh niên” có 50.542 hội viên, thì hội “Thanh niên cách mạng”, phải qua một thời gian thử thách, mới chỉ có 169 hội viên và 7.809 đang được thử thách. Tổ chức phụ nữ cũng vậy, hội “Phụ nữ yêu nước” có 31.659 hội viên, nhưng trong đó duy nhất mới có 5.151 hội viên chính thức. Những hội nói trên được giao nhiệm vụ về giữ gìn trật tự, vệ sinh phòng bệnh quần chúng, vận động xây dựng những cơ cấu sản xuất mới; ngoài ra hội cũng còn được giao nhiệm vụ tham gia vào việc tuyên truyền giáo dục chính trị, xóa nạn mù chữ: 20.000 người thoát nạn mù chữ đã được thống kê tại quận 6, nhiều lớp học buổi tối được mở cho những người chưa biết chữ, có sự tham gia của những người dạy không lương, trong khi nhiều những buổi học khác cũng được tổ chúc ở các tổ dân phố - đơn vị hành chính cơ sở gồm khoảng hai chục hộ dân: đề tài đưa ra học là những vấn đề liên quan đến thống nhất nước nhà, những vùng kinh tế mới, chính sách kinh tế cách mạng, đấu tranh chống bọn mại bản gian thương... Trong những buổi học ấy, mọi người được làm rõ về nguồn gốc cuộc chiến tranh ở Việt Nam, những truyền thống đấu tranh anh hùng của dân tộc được khơi gợi lại và cũng có lúc người ta đưa ra thảo luận cả những vấn đề thường ngày của cuộc sống cũng như nhưng biện pháp để giải quyết nó. Cán bộ, chiến sĩ trong và ngoài quân đội cũng bắt buộc phải tham dự các buổi học tối đó.
Cũng như ở tất cả các nơi khác vấn đề nổi cộm của quận 6 là nạn thất nghiệp: trong 607 cơ sở sản xuất các loại thống kê được ở quận, kể cả thủ công, thì đã có 92 cơ sở phải nghỉ việc, làm 2869 công nhân và nhân viên không có việc làm; 515 cơ sở đã hoạt động trở lại, sử dụng 7694 lao động, trong đó có gần 3.000 người gia nhập công đoàn mặc dù việc đó không bắt buộc.
Để giải tỏa thành phố đồng thời cũng để lập lại sự cân bằng kinh tế chính quyền cách mạng khuyến khích người dân “quay trở về với ruộng đất”. Trong sáu tháng, ở quận 6, 2672 gia đình (khoảng 12.000 người) đã đi các “vùng kinh tế mới”. Trong đó có 1.505 gia đình binh sĩ ngụy cũ, 4500 người mà phần lớn đối với họ thì không phải là một sự trở về mà đúng hơn là một sự “chuyển đổi” trong cách sinh sống làm ăn.
Để tạo thuận lợi cho phong trào “đi kinh tế mới”, chính quyền và các đoàn thể trong quận đã giúp cho 380 gia đình một số tiền quyên góp được là 5.300.000 đồng (tiền cũ); món tiền quyên góp này cũng nói lên sự phát triển của tinh thần đoàn kết tương trợ của bà con dân phố đồng thời cũng biểu thị sự hưởng ứng của họ đối với những chủ trương chính sách của chính quyền cách mạng.
Sài Gòn, với 11 quận, trải rộng trên một diện tích 69 kilômét vuông. Giống như một khối u, nó phát triển quá nhanh. Nhìn từ trên tầng cao của khách sạn Caravelle, một trong những khách sạn lớn nhất thành phố. Sài Gòn vẫn có một cái gì đó quyến rũ con mắt người ta: từ đây người ta có thể bao quát được cả một doi đất cao nằm trên một khuỷu sông Sài Gòn, ở đó mọc lên thành phố cũ xây từ thời Pháp thoáng đãng, trật tự, sạch sẽ. Nhưng trên đường phố, người ta đã nhanh chóng nhận ra những “tế bào lành” đã bị những “tế bào độc” lấn át. Bên ngoài những “khu phố Tây” được xây dựng một cách có tổ chức xung quanh Nhà thờ lớn, Sài Gòn đã bung ra với một quy hoạch đô thị hỗn loạn, bừa bãi, chẳng có một kiểu cách gì cả và thiếu hẳn vẻ duyên dáng, in đậm dấu ấn của những ngôi nhà cho thuê mà nổi bật ở đấy là những tòa nhà của các ngân hàng của hãng dầu Shell - nay là trụ sở của Tổng công ty xăng dầu nhà nước - trông thù lù như những cái két sắt.
Đi theo những đại lộ, như Trần Hưng Đạo chẳng hạn, luồn lách trong những dòng xe mà Honda nhiều hơn xe đạp, người ta bỗng rơi vào Chợ Lớn... Cả một thế giới khác. Chợ Lớn sống về đêm, chật ních những người, ăn chơi, nhậu nhẹt một cách say sưa cuồng nhiệt. Rồi ban ngày, no nê, đôi mắt khép hờ, nó chìm vào một giấc ngủ, nửa tỉnh, nửa thức...
Kể cả trong ngoài thành phố, Sài Gòn chiếm một tổng diện tích 830 km2. Bên ngoài thành phố chính là các huyện Thủ Đức, Gò Vấp, Hóc Môn, Tân Bình, Bình Chánh, Nhà Bè.
Do vai trò thủ đô của mình, Sài Gòn luôn luôn có một sức hấp dẫn hàng đầu. Năm 1960, Sài Gòn chiếm 66,7% dân số thành thị miền Nam, nhưng chính là do chiến tranh mà dân số của nó tăng lên một cách ghê gớm. Một mặt, sự có mặt của đạo quân viễn chinh Mỹ đã tạo cho Sài Gòn một bộ mặt giống như một tủ kính của sự xa hoa và đồng thời dâm ô đồi trụy, náu mình trong một sự yên bình tương đối; nhưng mặt khác cũng do chiến tranh và công cuộc bình định đã làm trống vắng và xua đuổi đi khỏi những vùng quê quanh Sài Gòn, những dòng người lánh nạn chạy về thành phố. Từ 1960 đến 1970, dân số Sài Gòn đã tăng lên 68%: dân số của nó ước tính khoảng 3.300.000 người, trong đó chỉ có một phần ba sống ở ngoại thành. Từ 1972, nhịp độ tăng của thành phố lại mạnh lên và đến khi giải phóng, Sài Gòn đã có tới 4,5 triệu dân.
Mặc dù đóng vai trò trung tâm chính trị và quân sự, Sài Gòn vẫn in dấu một sự nổi trội của tính chất nông thôn miền Nam: khu vực đô thị hóa mới chỉ chiếm 26% tổng diện tích của nó; và ngay cả trong phạm vi thành phố chính, tỷ lệ đó mới chỉ lên tới 70,5%.1. Từ 1970, dân càng đổ dồn vào nội thành: trong khi ở các quận ven đô, mật độ dân là khoảng 3 người một hecta, thì ở trong nội thành, mật độ của nó là 658 người một hécta. Những nơi đông dân nhất lại là những khu “xóm liều”, nằm ở trung tâm thành phố, ven theo các con rạch. Một phóng viên báo Tia sáng đã mô tả một khu “xóm liều” như sau:
“Không thể gọi đó là một ngôi nhà được, mà đúng hơn đó là một chiếc hộp rách nát, vá víu chằng chịt bằng những mảnh tôn gỉ, những thanh gỗ mục, những vỏ bao xi măng. Chiếc hộp ấy chứa cả một gia đình: một bà mẹ già, hai người lớn và sáu đứa trẻ con. (...) Xung quanh đó, tất cả vẫn là cảnh nghèo túng ấy. Những nhà “giàu” nhất thì họ có thêm một vài tấm ván để lát sàn và trên vách treo mấy tắm ảnh cắt từ họa báo. Người ta không thể phân biệt được đâu là bếp, là buồng ăn, buồng tắm... Tất cả chỗ ăn uống, giặt giũ, tắm rửa, nghỉ ngơi đều vẻn vẹn có chục thước vuông ấy. Để nấu nướng, người ta kéo ra chiếc lò đất sét, nhóm vào lò vài que củi rồi bắc nồi lên. Rồi ăn uống cũng dọn ra cạnh đấy, bát đũa khi rửa thì bỏ tùm lum vào cùng một xô nước, đến khi đi ngủ thì dẹp tất cả vào một góc để lấy chỗ nằm. Còn muốn tắm rửa hay tiểu tiện, người ta cũng chẳng còn một chỗ nào khác. Do điều kiện sinh sống ấy, tất cả bọn trẻ đều gầy gò, ghẻ lở, ốm yếu: đứa lớn nhất bảy tuổi nhưng nom cháu, người ta có thể ngỡ khéo nó mới chỉ lên bốn”. Người phóng viên cho biết tiếp “khu nhà ổ chuột này đã tồn tại từ 30 năm nay...”. Việc “đô thị hóa” của miền Nam đã không còn biết đến giới hạn nào nữa.
Cùng với quá trình của cuộc chiến, một xã hội thành thị ăn bám đã thế chân cho một xã hội kinh tế nông nghiệp như vậy đất. Trong thời kỳ quân Mỹ còn đông, Sài Gòn có thể gây cho người ta ảo tưởng: những cơn mưa đôla của chiến tranh xâm lược đổ vào đã che đậy những vết thương do nó gây ra: lấy ví dụ chỉ riêng cho việc giặt ủi quần áo của đạo quân viễn chinh Mỹ, Hoa Kỳ đã phải chi ra 120 triệu đôla, tức ngang với tổng thu về xuất khẩu của Việt Nam dân chủ cộng hòa trong một năm. Nhưng từ 1972, những “vết thương” ấy há miệng và Sài Gòn rơi vào suy thoái một cách vô phương cứu chữa.
Như vậy là với những người cách mạng, nhiệm vụ của họ là phải chữa lành vết thương và dựng xã hội ấy đứng lên. Trước hết là giúp nó khôi phục lại khả năng nông nghiệp: trong chiến tranh, 600.000 héc ta đất canh tác đã bị bỏ hoang; bây giờ phải khôi phục nó lại, đặc biệt là bằng khai hoang ở đồng bằng và cao nguyên, phải đưa số đất canh tác hiện có là 3.100.000 hecta lên thêm từ 3 đến 5 triệu hécta nữa. Nhằm mục tiêu ấy việc đầu tiên là phải phân phối lại lao động. Làm như thế, người ta đồng thời giải quyết được vấn đề thất nghiệp ở các thành phố. Bằng khai hoang, phục hóa, người ta chẳng những giải quyết được vấn đề lương thực cho cả nước, mà còn bảo đảm cho rất nhiều người có công ăn việc làm, nhất là trong cùng một lúc, nhà nước đang có chủ trương giãn bớt dân ở thành phố. Bởi ở các thành phố lúc này, nhất là ở Sài Gòn, rất đông người đang ở tình trạng dư thừa: những người buôn bán nhỏ, những người làm công, những nhân viên của một số dịch vụ nay không cần thiết nữa. Đó là mục đích của kế hoạch “những vùng kinh tế mới”…
Mục tiêu của kế hoạch là cho đến hết năm 1976, 1.500.000 người sẽ rời Sài Gòn, tức 100.000 một tháng. Làm thế nào để đưa được dân đi làm kinh tế mới? Không hề dùng cưỡng bức, chính quyền cách mạng đã vận động họ trên cơ sở nêu rõ mục đích ý nghĩa của việc làm, khơi gợi sự gắn bó của họ đối với đất đai và đồng thời có những biện pháp vật chất để bảo đảm và khuyến khích việc đi của họ. Ở vành đai Sài Gòn, mỗi gia đình được cấp 500 mét vuông đất để làm nhà, làm vườn và 1500 mét vuông nữa để khai phá, canh tác. Đất, theo nguyên tắc, vẫn thuộc về sở hữu của nhà nước nhưng người dân được hưởng hoa lợi. Nguyên tắc này cũng được áp dụng ở những vùng kinh tế mới, nhưng ở đấy, người dân được chia nhiều hơn: 1000 mét vuông để làm nhà làm vườn và 5000 mét vuông để khai phá, canh tác.
Khi đi họ được nhà nước giúp: tiền thì 60 đến 80 đồng (tức 30 đến 40.000 đồng tiền cũ), còn vật chất thì xe để chuyên chở, một số xẻng, cuốc, rìu, cưa, hái cho mỗi gia đình, 13 kilô gạo, 500 gam muối và một số thuốc men cho mỗi đầu người trong một tháng... Tóm lại là một số vật chất cần thiết trước mắt và phù hợp với những khả năng cung cấp còn rất hạn chế của nhà nước lúc bấy giờ.
Ở vùng kinh tế mới, 5.000 dân lập thành một đơn vị hành chính. Ở mỗi đơn vị hành chính, người ta xây dựng một trường học, một trạm xá, một nhà hộ sinh, cơ quan hành chính, một cái chợ, một cửa hàng quốc doanh. Cuối cùng, ở tương dương cấp tỉnh, nhà nước cho mở một chi nhánh ngân hàng tín dụng.
Từ lúc bắt đầu rời khỏi Sài Gòn, người ta lại thấy lại nước Việt Nam, một đất nước trước hết và cơ bản là nông nghiệp. Quốc lộ 13 đi về hướng tây bắc, leo lên trung nguyên dần từng chặng, để lộ ra một quang cảnh vắng vẻ, đất đai còn rất sẵn để sử dụng. Ở đây, ruộng lúa nước nhường chỗ cho việc canh tác trên cạn, những vườn hồng cây ăn trái, rồi những đồn điền cao su bạt ngàn của vùng “đất đỏ”, những trái ngược với đồng bằng Cửu Long, quang cảnh của nó còn đầy rẫy những vết sẹo của chiến tranh.
Qua vành đai bên ngoài Sài Gòn, nơi cung cấp cái ăn cho thành phố, trải rộng ra đường chạy lên An Lộc, Lộc Ninh và biên giới Campuchia là những cùng đất cây cối bị rụng lá mà người ta thấy rất rõ nét nổi bật của nó là những đám lau cỏ khô, và những thân cây bị bạc phếch bởi các chất độc hóa học. Khu vục bị trụi lá này rộng tới hàng trăm kilômét và kéo dài tới tận biên giới Campuchia. Ngay những đồn điền lớn trồng cao su cũng không được miễn trừ để tránh khỏi số phận ấy. Những trận ném bom của không quân Mỹ và của quân đội Sài Gòn đã tàn phá nặng nề các đồn điền cao su xưa từng là niềm kiêu hãnh của hãng Michaelin. Bây giờ nó đã được quốc hữu hóa, nhưng nhà nước mới chỉ quốc hữu hóa những hécta nào bị tàn phá. Ở khu nhà quản trị cũ của hãng ở Quản Lợi, xưởng sơ chế nhựa cao su nay chỉ còn lại một đống đổ nát sắt thép han gỉ bị cỏ cây lấn dần lấn mòn.
Một số tộc người miền núi, Sơ-triêng hay Châu Ro, nay trở về dần dần nơi đất cũ để làm ăn sinh sống. Chính quyền tỉnh ước tính trong 10.000 kilômét vuông ở đây thì có gần 40% bị bom đạn và chất độc hóa học Mỹ tàn phá, khoảng 20.000 hecta cao su bị huỷ hoại.
Đường số 13 đổ vào chiến trường xưa An Lộc, kéo dài trên vài chục kilômét, nơi mà năm 1972 dưới bom đạn ác liệt của Mỹ, đã diễn ra trong ba tháng những trận giao tranh đẫm máu giữa quân giải phóng và quân ngụy Sài Gòn. Đây là một trong những cuộc chiến gay go ác liệt nhất trong chiến tranh giải phóng. Cả hai bên đều bị tổn thất nặng nề. Chiến trường có người gọi là “cối xay thịt” này giờ hãy còn mang dấu tích cũ của nó: những con đường, những gò đất bị bom và đạn pháo chém ngang chém dọc, những xác xe bọc thép, những mảng dây thép gai nằm phơi mình trong nắng gió, tất cả những cái ấy đã tạo nên một cảnh hoang vắng trên hàng chục kilômét. Thị trấn An Lộc chỉ còn lại một ngôi nhà đứng vững còn tất cả đã gần như biến mất, bị nuốt chửng bởi cỏ cây chen lấn.
Tuy nhiên, dân đã lần hồi quay trở lại, sống trong những túp nhà tạm bợ; người đã đông hơn năm 1972, do hàng nghìn người từ Campuchia lánh nạn chạy về. Chính quyền đã cố gắng lập một số cơ sở buôn bán và phục vụ xã hội để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu trước mặt. Nhưng còn những đồn điền hay đất đai bị tàn phá thì tất cả đều phải khôi phục lại. Trong bốn tháng 30.000 dân từ vùng Sài Gòn lên đã lần đầu tiên đến ở vùng đất còn lạ nước lạ cái đối với họ này.
Ví dụ như gia đình Vong Hồng Kỳ, tất cả chín người, hai vợ chồng và bảy đứa con, lớn bé từ mười sáu đến mười hai tuổi: “Sống ở Sài Gòn rất khó khăn, ông ta nói, gia đình tôi không có việc gì làm. Nghe lời khuyên của các anh cán bộ tôi nghĩ rằng sống ở đây sẵn đất thế này, gia đình tôi có thể dễ dàng hơn để làm ăn sinh sống”. Tất cả của cải ông ta mang theo chỉ chứa đầy một chiếc rương và hai bao tải lớn. “Có gì ở Sài Gòn tôi đều bán tất tật và tôi chẳng tiếc gì hết. Bây giờ vì bọn trẻ, tôi có thể hy vọng hơn. Còn trước kia, tôi chẳng biết lấy gì để mà hy vọng”
Gia đình ông lên đến nơi thì đất đai đã có bộ đội dọn mìn và nhà cửa thì các anh ấy đã làm cho sẵn. “Nếu tôi lên nhanh hơn nữa thì có phải tôi đã chọn được một căn nhà tốt hơn không?” Ông ta cứ tiếc rẻ mãi. Xung quanh ông, dân đến ở cũng không phải là những người xa lạ. Giống như ông, họ đều từ huyện Gò Vấp lên, cả anh trưởng xóm cũng thế. Hồng Kỳ ngạc nhiên khi không thấy ở đây có công an. “Có lẽ họ ở đâu cả trên huyện?”, ông ta nghĩ. Như tất cả mọi người, ông ta cũng được nhà nước trợ cấp: “Ai làm được bao nhiêu đất, Nhà nước đều cấp cho hết, không hạn chế. Đất ở đây mới đầu lổn nhổn những mảnh đạn pháo, nhưng bây giờ thì đỡ nhiều rồi. Tôi đã gieo thử vài miếng, nếu tốt, tôi sẽ làm nhiều hơn.”
Hồng Kỳ là một viên cai cũ trong quân đội Pháp. “Chả có ai nhắc với tôi bất cứ điều gì về chuyện ấy hết”, ông nói.
Chú thích
1. Tất cả những số liệu này đều lấy từ một bản nghiên cứu của chuyên gia Mỹ James E.Beyle, làm tháng 1-1972 theo yêu cầu của Bộ công chính ngụy quyền Sài Gòn.