Số lần đọc/download: 0 / 50
Cập nhật: 2023-04-08 21:56:59 +0700
Chương 9: Abdullah Gặp Một Người Lính Già
Abdullah gặp một người lính già
Abdullah bước tới nhà trọ. Khi tới gần hơn, anh thấy đúng là có một người đàn ông đang ngủ gật trên cái ghế dài bên ngoài nhà trọ. Ở đó có cả bàn nữa, điều đó cho thấy nơi này cũng phục vụ thức ăn. Abdullah ngồi vào ghế cạnh một cái bàn, và ngờ vực nhìn người đàn ông đang ngủ.
Lão trông y hệt một tên côn đồ. Thậm chí ở Zanzib hay giữa đám cướp, Abdullah cũng chưa bao giờ nhìn thấy những góc cạnh trông bất lương như trên gương mặt rám nắng của lão. Cái ba lô lớn trên mặt đất bên cạnh lão khiến lúc đầu Abdullah nghĩ lão có thể là một người thợ sửa chữa - trừ việc lão cạo râu sạch sẽ. Đây là người đàn ông duy nhất ngoài những tên lính đánh thuê phương Bắc dưới trướng nhà vua mà Abdullah thấy không có râu hay ria mép. Có thể lão cũng là một tên lính đánh thuê. Quần áo của lão quả là giống kiểu quân phục nào đó đã tả tơi, và lão thắt một bím tóc thả sau lưng giống như quân lính của nhà vua. Đây là kiểu tóc mà đàn ông thành Zanzib thấy khá ghê tởm, vì người ta đồn đại rằng bím tóc chẳng bao giờ được thả ra hay gội sạch. Nhìn bím tóc của người đàn ông này thả qua lưng ghế dài lão đang ngủ, Abdullah thấy tin được chuyện đó. Chẳng có thứ gì ở người đàn ông này, kể cả bím tóc, là sạch sẽ. Lão trông khỏe mạnh, dù không còn trẻ. Bên dưới lớp cáu bẩn, tóc lão dường như đã ngả bạc.
Abdullah do dự không muốn đánh thức lão. Lão trông không đáng tin. Và linh thần đã thẳng thắn thừa nhận hắn thực hiện điều ước theo cách sẽ gây tổn hại. Người đàn ông này có thể dẫn mình tới Hoa Đêm, Abdullah nghĩ, nhưng chắc chắn lão sẽ cướp sạch mình trên đường.
Trong lúc anh do dự, một phụ nữ mặc tạp dề bước ra cửa nhà trọ, có lẽ để xem có khách ở ngoài không. Quần áo của bà ta khiến hình thể bà ta lồi lõm như cái đồng hồ cát to mập, điều Abdullah thấy rất xa lạ và khó nhìn. “Ồ!” bà chủ nói khi thấy Abdullah. “Quý khách đang đợi được phục vụ sao? Quý khách lẽ ra nên vỗ vào bàn. Ở quanh đây người ta đều làm như vậy. Quý khách muốn dùng gì?”
Bà chủ nói với ngữ điệu thô lỗ giống như những tên lính đánh thuê phương Bắc. Từ đó Abdullah có thể suy ra rằng mình giờ đang ở quê hương của chúng, dù không biết là vương quốc nào. Anh cười với bà chủ. “Bà có món gì, hỡi viên ngọc ven đường?” anh hỏi bà ta.
Rõ ràng chưa có ai từng gọi bà ta là viên ngọc. Bà chủ đỏ mặt, cười điệu bộ và siết tạp dề. “Chậc, lúc này thì có bánh mì và bơ,” bà chủ nói. “Nhưng bữa tối đang được chuẩn bị. Nếu không ngại đợi nửa giờ, quý khách có thể thưởng thức bánh nướng thịt hảo hạng với rau lấy từ vườn nhà chúng tôi.”
Abdullah nghĩ điều này thật hoàn hảo, tốt hơn anh có thể mong đợi từ bất cứ nhà trọ nào với mái lợp cỏ. “Vậy thì tôi rất vui lòng chờ đợi nửa giờ, hỡi đóa hoa giữa những bà chủ quán trọ,” anh nói.
Bà chủ lại cười điệu bộ. “Và có lẽ quý khách sẽ muốn uống gì đó trong khi chờ đợi chứ?”
“Chắc chắn rồi,” Abdullah nói, vẫn còn rất khát sau khi đi qua sa mạc. “Tôi có thể làm phiền bà cho tôi một ly nước sherbet, hoặc nếu không được thì bất kỳ loại nước hoa quả nào không?”
Bà chủ trông lo lắng. “Ôi thưa quý khách, tôi... chúng tôi không chuyên về nước hoa quả, và tôi chưa từng nghe về loại kia. Vậy một vại bia ngon lành thì sao ạ?
“Bia là cái gì?” Abdullah thận trọng hỏi.
Điều này làm người phụ nữ bối rối. “Tôi... chà, tôi... đó là...”
Người đàn ông nọ, đang nằm trên cái ghế còn lại, vươn dậy và ngáp. “Bia là thức uống đúng đắn duy nhất cho đàn ông,” lão nói. “Một thứ rất tuyệt diệu.”
Abdullah lại quay nhìn lão. Anh nhận thấy mình đang nhìn vào một đôi mắt tròn trong trẻo màu xanh lam, cũng trung thực như ngày dài. Khi lão đã thức dậy, chẳng còn chút bất lương nào trên gương mặt rám nâu.
“Ủ từ lúa mạch và hoa bia,” lão bổ sung. “Tiện bà đang ở đây, bà chủ, tôi cũng muốn một vại.”
Biểu cảm của bà chủ thay đổi hoàn toàn. “Tôi đã nói với ông rồi,” bà ta bảo, “rằng tôi muốn thấy tiền của ông trước khi tôi phục vụ ông bất cứ thứ gì.”
Người đàn ông không thấy phiền lòng. Đôi mắt xanh lam rầu rĩ của lão bắt gặp ánh mắt của Abdullah. Rồi lão thở dài và nhặt một cái tẩu đất sét trắng dài lên từ cái ghế bên cạnh, đoạn bắt đầu đổ đầy và châm lửa.
“Vậy quý khách dùng bia nhé?” bà chủ nói, lại cười điệu bộ với Abdullah.
“Nếu bà không phiền, thưa bà chủ đầy lòng hiếu khách,” anh nói. “Cho tôi ít bia, và cũng cho quý ông này vừa đủ nữa.”
“Rất sẵn lòng, thưa quý khách,” bà chủ nói, và sau khi ném một cái nhìn chê trách vào người đàn ông có bím tóc, bà ta quay trở vào nhà.
“Tôi thấy cậu rất tốt bụng đấy,” người đàn ông nói với Abdullah. “Tới đây từ phương xa phải không?”
“Rất xa, từ phía Nam, thưa người lữ khách đáng kính trọng,” Abdullah thận trọng nói. Anh chưa quên lão trông bất lương thế nào khi ngủ.
“Từ nước khác à? Tôi nghĩ chắc cậu là người ngoại quốc, cháy nắng như thế kia mà,” lão quan sát.
Abdullah tin chắc lão đang moi móc thông tin, để xem anh có đáng để cướp không. Vì thế anh khá ngạc nhiên khi thấy lão dường như bỏ cuộc chẳng hỏi nữa.
“Tôi cũng không phải dân vùng này, cậu biết đấy,” lão nói, phả một đám khói lớn từ chiếc tẩu thô tục của mình. “Tôi đến từ xứ Strangia. Cựu chiến binh. Được thả rông ra thế gian này với lương lính giải ngũ sau khi Ingary đánh thắng chúng tôi trong chiến tranh. Cậu thấy đấy, vẫn có khá nhiều định kiến về bộ quân phục của tôi ở đất Ingary này.”
Lão nói điều này vào mặt bà chủ khi bà ta quay lại, mang theo hai cốc chất lỏng nâu sủi bọt. Bà ta không nói chuyện với lão. Bà ta chỉ đặt sầm một cốc xuống trước mặt lão trước khi đặt cốc còn lại cẩn thận và lịch sự trước mặt Abdullah. “Nửa tiếng nữa là tới bữa tối, thưa quý khách,” bà chủ nói rồi đi mất.
“Chúc sức khỏe,” người lính nâng cốc nói. Lão uống một ngụm to.
Abdullah thấy cảm kích trước người lính già này. Nhờ lão, giờ anh biết mình đang ở một đất nước gọi là Ingary. Vậy nên anh đáp lại, “Chúc sức khỏe,” rồi ngờ vực nâng cái cốc của mình lên. Với anh, nó trông như thứ đến từ bọng đái của lạc đà. Khi anh ngửi, mùi của nó chẳng có tác dụng gì trong việc xua đi ấn tượng đó. Chỉ vì đang khát khủng khiếp nên anh mới thử một ngụm. Anh cẩn thận nhấp miệng. Chà, nó ướt át.
“Tuyệt vời, phải không?” người lính già nói.
“Nó khá là thú vị, thưa thống lĩnh,” Abdullah nói, cố gắng không rùng mình.
“Thật buồn cười khi cậu gọi tôi là thống lĩnh,” người lính nói. “Dĩ nhiên tôi không phải. Chưa bao giờ lên cao hơn quân hàm hạ sĩ quan. Tuy nhiên tôi đã chứng kiến nhiều trận đánh, và tôi đúng là từng có hy vọng thăng tiến, nhưng kẻ địch áp đảo chúng tôi trước khi tôi có cơ hội. Một trận đánh khủng khiếp, cậu biết đấy. Chúng tôi vẫn còn đang hành quân. Không ai ngờ rằng kẻ địch lại ập đến nhanh như vậy. Ý tôi là giờ nó đã kết thúc rồi, và chẳng có ích lợi gì khi than vãn về chuyện đã qua, nhưng tôi có thể nói thẳng thắn với cậu là người Ingary không chơi đẹp. Có một vài vị pháp sư đảm bảo cho họ thắng trận. Ý tôi là một người lính bình thường như tôi thì làm được gì để chống lại pháp thuật? Chẳng gì cả. Có thích tôi kể cho cậu nghe trận đánh đã diễn ra như thế nào không?”
Abdullah hiểu được sự ác độc của linh thần nằm ở đâu rồi. Cái người hẳn sẽ giúp đỡ anh rõ ràng là một kẻ phiền nhiễu đến kinh khiếp. “Tôi tuyệt đối chẳng biết tí ti gì về mấy chuyện quân sự, thưa chiến lược gia anh dũng nhất,” anh kiên quyết nói.
“Không sao,” người lính vui vẻ nói. “Tôi có thể cho cậu biết rằng chúng tôi hoàn toàn thảm bại. Chúng tôi tháo chạy. Người Ingary đánh bại chúng tôi. Tràn qua cả đất nước. Hoàng thất ở nước tôi, cầu phúc cho họ, cũng phải bỏ chạy, vậy nên người ta đưa em trai của vua Ingary lên ngôi. Có kẻ đồn về việc để vị hoàng thân này lên ngôi danh chính ngôn thuận bằng cách lấy công chúa Beatrice của chúng tôi, nhưng nàng đã bỏ chạy cùng những thành viên khác của gia tộc nàng - cầu cho nàng trường thọ! - và người ta chẳng thể tìm thấy nàng. Xin đính chính là vị hoàng thân mới này cũng không tệ lắm. Cho tất cả quân đội Strangia lương giải ngũ trước khi thả chúng tôi đi. Cậu có biết tôi đang làm gì với tiền của mình không?”
“Nếu ông muốn cho tôi biết, thưa cựu chiến binh can đảm,” Abdullah nói, nén lại một cái ngáp.
“Tôi đi du lịch tới đất nước Ingary,” người lính nói. “Tôi nghĩ mình sẽ đi quanh ngắm đất nước đã đánh bại chúng tôi. Tìm hiểu xem nó như thế nào trước khi an cư lạc nghiệp. Lương giải ngũ của tôi cũng là một khoản khá khẩm. Tôi có thể trải đường cho mình đi chừng nào chi tiêu cẩn thận.”
“Xin chúc mừng,” Abdullah nói.
“Họ trả một nửa tiền bằng vàng đấy,” người lính kể.
“Thế à,” Abdullah nói.
Anh thấy rất nhẹ nhõm khi vài người khách bản địa đến đúng lúc đó. Họ hầu hết là nông dân, mặc quần ống túm bẩn thỉu và áo khoác kiểu xa lạ khiến Abdullah nghĩ về áo ngủ của chính anh, cùng với những đôi ủng phủ da lớn. Họ rất vui vẻ, nói chuyện ầm ĩ về vụ mùa - họ nói vụ mùa được lắm - và vỗ lên bàn gọi bia. Bà chủ và cả ông chủ có đôi mắt hơi hấp háy đều rất bận rộn chạy ra chạy vào với những khay cốc, vì từ lúc đó, càng nhiều người hơn thi nhau tới.
Và - Abdullah không biết nên thấy nhẹ người, hay bực bội, hay buồn cười nhiều hơn - người lính lập tức mất hứng thú với Abdullah và bắt đầu nói chuyện say mê với những người mới đến. Họ dường như chẳng thấy lão buồn chán tí nào. Hoặc thấy lo lắng rằng lão từng là lính phe địch. Một người còn mua cho lão thêm bia. Và khi càng nhiều người hơn đến, lão càng trở nên nổi bật. Những ly bia xếp thành hàng bên cạnh lão. Chẳng mấy chốc người ta gọi bữa tối cho lão, và từ bên ngoài đám đông xúm quanh người lính, Abdullah cứ mãi nghe thấy những chuyện như, “Trận đánh lớn... pháp sư của các vị cho họ lợi thế... kỵ binh của chúng tôi... co cụm cánh quân bên trái của chúng tôi... truy đuổi chúng tôi trên đồi... bộ binh chúng tôi buộc phải tháo chạy... chạy trốn như thỏ... không phải kiểu xấu... tập trung chúng tôi lại và cho chúng tôi lương giải ngũ...”
Trong lúc đó, bà chủ mang lên cho Abdullah một khay đồ ăn nghi ngút bốc khói, và thêm nhiều bia hơn mà không cần anh gọi. Anh vẫn khát, nên gần như vui mừng vì chỗ bia. Và anh thấy bữa tối ngon miệng y như bữa tiệc của nhà vua. Trong một lúc, anh bận ăn uống đến nỗi quên mất người lính. Khi anh lại nhìn lão, lão đang rướn người qua cái đĩa trống, đôi mắt xanh sáng lên với sự nhiệt tình rõ rệt, trong khi lão di chuyển ly và đĩa quanh bàn để diễn cho những thính giả miền quê của lão chính xác điều gì đã xảy ra trong Trận Strangia.
Sau một hồi, lão dùng hết cốc, dĩa và đĩa. Vì lão đã dùng lọ muối và lọ tiêu để tượng trưng cho vua Strangia và đại tướng của lão, lão chẳng còn gì cho vua Ingary, hoàng đệ hay các vị pháp sư của họ. Nhưng người lính già không để điều này ngăn trở mình. Lão mở túi tiền bên thắt lưng lấy ra hai xu vàng và mấy xu bạc, đổ xuống bàn làm vua Ingary, các pháp sư và tướng lĩnh của ông ta.
Abdullah không thể không nghĩ lão ngớ ngẩn đến kinh khủng. Hai đồng tiền vàng kéo theo nhiều lời xì xào. Bốn gã trai trẻ cục mịch ở bàn bên cạnh quay ghế dài lại và bắt đầu chú ý cao độ. Nhưng người lính quá tập trung vào việc kể lại trận đánh và không để tâm lắm.
Cuối cùng, hầu hết những người tụ lại quanh người lính đứng dậy để quay lại làm việc. Người lính cũng đứng dậy với họ, đeo ba lô lên qua vai, đội lên đầu cái mũ quân phục bẩn thỉu vốn được nhét vào nắp ba lô, và hỏi đường tới thị trấn gần nhất. Trong lúc mọi người ồn ào chỉ đường cho người lính, Abdullah cố gắng gọi bà chủ để trả tiền bữa ăn của mình. Bà ta đến hơi chậm. Lúc bà ta đến, người lính đã mất hút ở góc đường quanh. Abdullah không thấy tiếc. Bất cứ sự giúp đỡ nào mà linh thần nghĩ lão có thể cho anh, Abdullah cảm thấy mình không có cũng được. Anh thấy mừng là cuối cùng số phận và anh cũng nhất trí được một lần.
Không ngớ ngẩn như người lính, Abdullah trả tiền bằng đồng bạc nhỏ nhất của mình. Thậm chí ngay cả đồng bạc ấy cũng có vẻ là món tiền lớn ở vùng này. Bà chủ đem đồng tiền vào trong nhà để lấy tiền trả lại. Abdullah không tránh được nghe lỏm bốn gã trai tráng cục mịch nói chuyện. Chúng đang có cuộc bàn luận chớp nhoáng và quan trọng.
“Nếu chúng ta đi theo đường ngựa cũ,” một người nói, “chúng ta có thể bắt kịp lão ở trong khu rừng trên đỉnh đồi.”
“Ta nấp trong bụi cây,” gã thứ hai đồng tình, “ở cả hai bên đường, để ta có thể xông vào lão từ hai phía.”
“Chia tiền làm bốn,” gã thứ ba nói. “Lão chắc chắn có nhiều tiền vàng hơn lão khoe ra.”
“Đầu tiên chúng ta phải đảm bảo lão đã chết,” gã thứ tư nói. “Chúng ta không muốn lão lèm bèm.”
Và “Đúng vậy!” và “Đúng rồi,” và “Đúng thế,” ba gã còn lại cùng nói, rồi chúng đứng lên bỏ đi khi bà chủ vội vã quay lại chỗ Abdullah với hai nắm tiền đồng.
“Tôi hy vọng trả lại như thế này là đủ, thưa quý khách. Chúng tôi không có nhiều đồng bạc của phương Nam ở đây, và tôi phải hỏi chồng tôi xem nó đáng giá thế nào. Chồng tôi bảo nó bằng một trăm xu đồng của chúng tôi, và quý khách dùng hết năm xu, vậy nên...”
“Xin chúc phúc bà, thưa bà chủ tốt đẹp và cũng là người ủ thứ bia thần thánh này,” Abdullah vội vã nói, và trả lại cho bà một nắm tiền đồng để tránh cuộc nói chuyện dông dài mà bà ta rõ ràng định bày ra với anh. Bỏ lại bà ta trân trân nhìn, anh vội vã lên đường nhanh nhất có thể để đuổi theo người lính. Lão có thể đúng là một kẻ ăn bám mặt dày và phiền phức đến kinh khiếp, nhưng điều này không có nghĩa lão đáng bị phục kích và giết hại vì chỗ vàng của mì