Số lần đọc/download: 7242 / 68
Cập nhật: 2016-04-22 16:44:13 +0700
Chương 9: Trên Dòng Sông Đóng Băng
T
rời vừa hừng sáng, thì cũng đúng lúc đứa bé ôm chặt lấy lồng ngực ấm áp của mẹ và đòi ăn.
Joan tỉnh dậy, mở mắt, vén làn tóc rối lên và để ý trước tiên đến cái bóng đen của cụ Pierre Radisson đang nằm như ngủ.
Nàng lấy thế làm sung sướng vì nàng biết ngày hôm qua bố kiệt quệ như thế nào. Để khỏi phá giấc ngủ của bố, nàng cũng nằm im trên giường nửa giờ nữa, vừa khe khẽ ru con.
Cuối cùng nàng quyết định rón rén dậy, ủ kỹ con vào chăn và lông thú rồi, mặc chiếc áo dầy, mở lều đi.
Trời lúc này đã sáng hẳn, nàng sung sướng nhận thấy gió đã lặng. Bầu trời lắng dịu, nhưng ngược lại rét buốt kinh khủng và như cắn xé da mặt.
Bên ngoài, lửa đã tắt, Kazan vẫn cuộn tròn bên đống tro lạnh, mõm rúc vào dưới ngực. Lúc Joan xuất hiện, nó ngóc đầu lên nhìn và vẫn run bần bật. Nàng đưa bàn chân dận dôi giày nặng chịch, gẩy gẩy đống tro và những mẩu củi đen sì. Không còn tí than hồng nào. Nàng cúi xuống vuốt ve cái đầu xù lông của Kazan.
- Tội nghiệp Lu của cô quá! Đáng lẽ cô phải để một tấm da gấu cho chú mình ấm! – Nói xong nàng trở vào lều.
Nàng hất tấm cửa bạt ra và gương mặt tái nhợt của bố hiện rõ trong ánh sáng. Kazan chợt nghe một tiếng kêu thảm thiết như xé ruột. Quả là không còn nghi ngờ gì nữa về cụ Pierre Radisson.
Joan nhảy bổ đến ôm lấy ngực bố, thổn thức nghẹn ngào, đến nỗi tai Kazan thính thế mà cũng không nghe thấy gì. Nàng nằm đấy, chìm ngập trong đau thương, mãi cho đến lúc tiếng khóc thảm thiết của con làm nàng giật mình, và nghị lực của người mẹ lại trở dậy.
Lúc này không phải để khóc, mà phải hành động. Nàng đứng ngay dậy chạy ra ngoài. Kazan kéo cái xích muốn nhảy đến với nàng, nhưng nàng không để ý.
Cảnh cô đơn còn hãi hùng hơn cái chết. Trong phút giây, nàng đã nhận thức ra điều đó. Và nỗi sợ trước mắt đối với nàng không đáng kể, nàng hoàn toàn thuộc về con.
Tiếng khóc của đứa bé bất hạnh, từ trong lều vọng ra như những mũi dao nhọn đâm vào tim nàng.
Nàng chợt nhớ lại tất cả những điều cụ Pierre dặn đêm qua: con sông phải đi đến bằng được, những túi không khí trên băng phái tránh, chòi cách đây mười lăm dặm… “Joan ạ, con không thể lạc được đâu”. Cụ đã nhấn mạnh thế. Hẳn cụ đã đoán trước được việc gì sẽ xảy ra.
Thoạt tiên nàng quay lại chỗ đống lửa đã tắt ngấm vì cần phải nhóm lửa lên ngay. Nàng nhặt nhạnh trên tuyết những vỏ dương khô, chất thành đống nhỏ, lẫn với những mẩu củi đen chưa cháy nốt. Rồi nàng chạy vào lều lấy diêm.
Cụ Pierre vẫn cất diêm trong một hộp kín, để ở túi trong của cái áo da gấu. Quì trước thi hài bố tìm hộp diêm, Joan lại nức nở khóc.
Tìm được diêm, nàng đánh cho ngọn lửa bùng lên và lấy ít củi khô cụ Pierre vẫn dự trữ chất vào. Ngọn lửa ấm áp lại khiến nàng phấn chấn và can đảm. Mười lăm dặm… con sông dẫn đến chòi…. Nàng phải đi trọn quãng đường ấy với con và Lu.
Nàng nghĩ đến việc chăm sóc cho con chó. Nàng lấy một miếng thịt hơ lên lửa cho tan giá rồi cho Kazan ăn, đoạn đun chảy một ít tuyết để pha trà uống. Nàng không đói và không muốn ăn. Nhưng nàng nhớ là bố nàng vẫn ép phải ăn năm sáu bữa một ngày, dù ăn ít, để khỏi bị mất sức. Nàng đánh cố ăn một chiếc bánh quy, một khoanh bánh mì, và uống một ít trà nóng.
Giờ phút khủng khiếp đã đến. Joan lấy chăn quấn chặt người cụ Pierre Radisson và lấy một sợi dây da buộc lại.
Đoạn nàng xếp lên chiếc xe, cạnh đống lửa, số chăn và da thú còn lại, tạo thành một cái giường thật êm cho con nằm, và bắt đầu tháo dỡ lều. Đối với phụ nữ công việc này không phải là dễ vì dây vừa lạnh vừa cứng. Làm xong thì một tay rớm máu. Nàng buộc lều vào sau xe.
Cụ Pierre Radisson nằm trên lớp lá xanh. Bên trên cụ chỉ có bầu trời mờ xám và vòm thông đen thẫm.
Kazan co rúm bốn chân, hít hít không khí. Lông lưng nó dựng đứng cả lên, lúc thiếu phụ thong thả đi đến cái vật bất động buộc chặt trong chăn. Nàng quỳ xuống cầu nguyện.
Lúc này quay lại cái xe, mặt nàng tái nhợt và đầm đìa nước mắt. nàng nhìn hồi lâu về phía vùng Ba-ren ảm đạm, trải dài tít tắp trước mặt. Đoạn nàng cúi xuống con chó sói, thắng đai cương vào cho nó và cũng quấn quanh mình sợi dây cương của bố trước đây, rồi cả hai cùng kéo.
Joan và Kazan cứ đi như thế, theo hướng cụ Pierre dặn. Cuộc hành trình thật là vất vả, chậm chạp, trên lớp tuyết mềm mới rơi tối hôm qua và nhiều chỗ lại bị gió dồn lên, thành đống xôm xốp.
Có lần Joan hụt chân quỵ xuống trên một đống tuyết. Lúc ngã, nàng để rơi mất mũ lông, nên tóc sổ ra xoã cả xuống tuyết. Lập tức Kazan chạy đến, lấy mõm chạm vào mặt nàng.
- Lu, Lu – nàng rên rỉ - Lu, Lu!
Nàng cố đứng dậy, và đoàn xe lèo tèo lại tiếp tục tiến bước.
Cuối cùng con sông đã ở trước mặt và chiếc xe cũng đỡ vất vả trên mặt sông vì ở đây tuyết đã đỡ dày. Nhưng một cơn gió mạnh từ đông bắc thổi về, thốc thẳng vào mặt, khiến Joan vừa phải cúi đầu vừa kéo Kazan. Đi được nửa dặm, nàng phải dừng chân, hơi thở muốn đứt, một nỗi thất vọng lại tràn dâng trong lòng.
Tiếng thổn thức dồn lên môi. Mười lăm dặm! Hai bàn tay co quắp trên ngực,và lưng còng xuống như người bị đánh, nàng ngoảnh đầu tránh ngọn gió thốc, để lấy lại hơi sức. Trên xe nàng cảm thấy con vẫn ngủ yên lành trong lớp da thú. Cảnh tượng đó lại cay nghiệt thúc đẩy nàng, khiến nàng lại càng phải cố gắng phấn đấu.
Nàng còn quỵ hai lần nữa trên những đống tuyết. Cuối cùng đến được một chỗ nhẵn, tuyết bị gió quét sạch. Kazan đủ sức kéo một mình.
Joan bước bên cạnh con chó sói. Nàng cảm thấy như có hàng nghìn mũi kim châm vào da mặt, và bất chấp lớp quần áo nặng chịch, xuyên thấu vào tận ngực. Nàng nảy ra ý xem nhiệt và lục hành lý lấy nó ra. Để nhiệt kế ra ngoài trời một lúc, nàng nhìn thấy ba mươi độ âm. (1)
Mười lăm dặm! Thế mà bố nàng lại cam đoan là nàng có thể đi trọn quãng đường không có gì khó khăn. Nhưng chắc chắn cụ Pierre Radisson không dự kiến đến cái rét cắt thịt, kinh khủng này, và ngọn gió ác nghiệt mà cả những người dũng cảm nhất cũng phải kinh hãi.
Cánh rừng lúc này đã xa dần về phía sau, trong cảnh tranh tối tranh sáng của lớp sương mù nhợt nhạt. Bốn bề chỉ còn một vùng Baren hoang vu khắc nghiệt, có con sông đóng băng lượn khúc. Joan cảm thấy giá có được vài gốc cây thôi, trên cảnh tiêu điều này, thì mình có thể đỡ nản lòng. Nhưng không, tuyệt đối không có tí gì. Chẳng có một tí gì để nghỉ ngơi tầm mắt, giữa cái màu xám nhợt nhạt, đơn điệu, quái dị, nơi mà trời đất như nối tiếp nhau và cách chưa đầy một dặm đã bưng lấy mặt.
Vừa đi người thiếu phụ vừa từng bước thăm dò mặt đất, cố phát hiện ra những túi không khí trong tuyết mà cụ Pierre đã dặn, và là nơi nàng có thể thình lình biến mất. Nhưng chẳng mấy chốc nàng nhận thấy là, với đôi mắt mờ vì rét, chỗ nào cũng như nhau, trên tuyết cũng như trên băng. Mắt nàng xót như xát muối, mỗi lúc một rát thêm.
Rồi con sông bỗng tỏa rộng thành một hồ lớn. Ở đây sức gió càng mạnh, khủng khiếp đến nỗi mỗi phút Joan lại vấp ngã và chỉ mươi phân tuyết cũng trở thành một chướng ngại vật không thể vượt nổi.
Kazan vẫn cố hết sức kéo, gò lưng dưới bộ đai cương.
Cố lắm nàng mới theo kịp được nó và không để mất dấu. Chân nặng như chì, nàng vừa bước thất thểu vừa lẩm nhẩm cầu nguyện cho con.
Chợt nàng thấy hình như chiếc xe phía trước chỉ còn là một chấm đen. Nàng hãi quá. Kazan và con nàng bỏ rơi nàng rồi! Nàng hét lên một tiếng. Nhưng đó chỉ là một ảo giác vì đôi mắt mờ của nàng. Chiềc xe chỉ cách có độ hai mươi bước, chỉ cần cố một tí là đuổi kịp.
Nàng nhoài đến chiếc xe, rền rẫm, hai tay cuống cuồng ôm lấy cổ con và rúc đầu vào đống da thú, mắt nhắm nghiền. Trong khoảnh khắc nàng có cảm giác đang ở nhà, chan hoà hạnh phúc. Rồi cũng nhanh như thế, hình ảnh êm đềm bỗng tan biến và nàng lại trở về với thực tế.
Kazan đã dừng lại. Nó ngồi xuống nhìn Joan.
Nàng nằm dài trên xe không nhúc nhích: nó chờ nàng cử động và nói với nó. Thấy nàng vẫn không cựa quậy, nó liền lần đến, hít hít, vẫn không ăn thua.
Chợt nó ngẩng đầu lên, đánh hơi, mặt quay về hướng gió. Gió đang mang đến cho nó một cái gì đấy.
Nó lại ẩy ẩy mõm vào Joan như để báo hiệu, Nhưng nàng vẫn nằm dài như chết. Nó rên rỉ nghe rất thương râm và sủa một tiếng dài, đinh tai, thảm thiết.
Trong khi ấy, điều xa lạ do gió mang tới mỗi lúc một rõ hơn và Kazan, kéo thật mạnh đai cương, lại bước đi, lôi Joan theo phía sau.
Cái khối lượng nó kéo đó, vì vậy, càng thêm nặng, đòi hỏi nó phải cố hết gân sức và chiếc xe trượt cứ rít ken két tiến lên vô cùng khó nhọc. Chốc chốc, nó phải dừng chân, thở hồng hộc. Mỗi lần như thế, nó phập phồng cánh mũi hít lấy hít để. Nó cũng quay lại với Joan và rên rỉ bên cạnh để cố thức tỉnh nàng.
Nó ngã khuỵu trong đống tuyết mềm và cố mãi, tí một, tí một, nó mới lôi được chiếc xe ra khỏi đó. Thế rồi gặp được chỗ bằng nhẵn, nó càng phấn khởi kéo vì cái mùi bí mật gió thổi đến dường như càng gần.
Bờ sông có một chỗ bị phá vỡ tạo thành một nhánh sông mùa này cũng đóng băng. Giá Joan biết thì nàng đã cho con chó sói đi theo hướng đó. Chính khứu giác của Kazan dẫn đường cho nó.
Mười phút sau, nó sung sướng sủa vang và độ dăm con chó xe đáp lại. Một cái chòi bằng gỗ cây đứng bên bờ sông trong một cái vụng nằm sát rừng thông. Một làn khói đang từ mái nhà bốc lên. Chính mùi khói đã bay đến tận mũi Kazan.
Bờ sông nhẵn và dốc đứng lên đến chòi. Kazan tập trung tất cả sức lực kéo chiếc xe cùng với mọi thứ đến tận cửa. Sau đó, nó mới ngồi xuống bên cạnh Joan bất tỉnh, ngước mũi lên bầu trời và sủa vang.
Hầu như tức khắc, cửa mở và một người đàn ông chạy ra khỏi chòi.
Đôi mắt đỏ ngầu vì gió rét, Kazan trông thấy người đàn ông thốt lên một tiếng kinh ngạc rồi cúi xuống với Joan, trên chiếc xe. Đồng thời từ đống lông thú có tiếng khóc thút thít và gần như nghẹn ngào của đứa bé.
Kazan đã kiệt sức. Sức khoẻ vô địch của nó không còn nữa. Chân nó toạc cả da và rớm máu. Nhưng tiếng khóc của đứa bé làm nó tràn ngập niềm vui, yên tâm nằm xuống, với cả đai cương, trong khi người đàn ông lo bế hai mẹ con vào trong chòi ấm.
Rồi người đàn ông trở ra. Anh không già như cụ Pierre Radisson.
Anh đến gần Kazan, nhìn nó và nói:
- Trời ơi, chú mày, chỉ một mình chú mày đem nàng về cho tao… Tao phục chú mày đấy!
Không chút sợ hãi anh cúi xuống Kazan và, tháo bỏ đai cương, mời nó cùng vào trong chòi.
Kazan có vẻ lưỡng lự. Đúng lúc ấy hình như trong tiếng gió gào ngàn không ngớt, văng vẳng có tiếng Sói Xám. Nó ngoảnh đầu lại, nhưng rồi cũng quyết định đi vào.
Cửa chòi đóng lại. Nó đến nằm trong một góc tối, còn người đàn ông thì lo nấu ít thức ăn nóng trên bếp lò cho Joan.
Người thiếu phụ được đặt nằm trên giường, chưa hoàn toàn hồi tỉnh. Nhưng Kazan, ngủ gà ngủ gật trong góc, thình lình nghe tiếng nàng nức nở và, ngước mũi lên, nó thấy nàng ngồi ăn với người lạ mặt.
Kazan bò tới nằm dưới giường. Sau đó màn đêm buông xuống, trong chòi tất cả đều chìm sâu vào yên tĩnh.
Hôm sau, trời vừa sáng, người đàn ông vừa mở hé cửa, Kazan đã nhân cơ hội lẻn ra và phóng nhanh về phía cánh đồng. Chẳng mấy lúc nó tìm ra được dấu chân của Sói Xám và cất tiếng gọi bạn. Tiếng đáp từ phía sông đóng băng vẳng đến, nó liền chạy về phía đó.
Một chòm thông trở thành chỗ trú cho chúng và cả hai náu mình ở đấy. Nhưng Sói Xám không làm sao rủ được Kazan đi trốn với mình, vào những nơi sâu kín hơn, xa cái chòi gỗ và mùi người.
Luôn luôn để mắt theo dõi, một lúc lâu, Kazan thấy người trong chòi đóng đai cương vào bầy chó và đặt Joan lên xe, quấn lông thú cho nàng và đứa bé. Giá còn sống, cụ Pierre cũng làm thế. Rồi chiếc xe lên đường, Kazan bám theo vết xe và, suốt ngày hôm ấy, cứ đi theo sau, chỉ cách một ít thôi, có cả Sói Xám lần theo bước chân nó, như một cái bóng.
Cuộc hành trình tiếp tục mãi đến tận đêm khuya. Gió đã lặng. Dưới ngàn sao lấp lánh, và ánh trăng bình thản, người đàn ông thúc bầy chó đi nhanh. Khuya lắm xe mới đến một cái chòi gỗ thứ hai và người đàn ông đến gõ cửa.
Từ trong bóng tối, Kazan thấy có ánh sáng xuất hiện và cánh cửa mở ra. Nó nghe giọng nói vui vẻ của một người khác. Joan và người bạn đường đáp lại. Thấy thế, Kazan vội tìm về với Sói Xám.
Ba hôm sau, chồng Joan quay lại tìm thi hài băng giá của cụ Pierre Radisson. Kazan lợi dụng cơ hội vắng mặt này để trở lại chòi gỗ với người thiếu phụ, với bàn tay mơn trớn của nàng.
Trong những ngày và những tuần tiếp đó, Kazan lúc thì ở chòi lúc thì về với Sói Xám. Nó tha thứ cho sự có mặt của người đàn ông trẻ bên cạnh nàng và đứa bé, như nó đã chấp nhận sự có mặt của cụ Pierre Radisson. Nó hiểu rằng đó là một người thân của nàng và cả hai đều yêu quí em bé như nhau.
Cách đó một nửa dặm, trên đỉnh một ngọn núi đá rất to mà người da đỏ gọi là Núi Mặt Trời, nó và Sói Xám cũng đã tìm được một cái hốc thuận tiện để xây dựng “tổ ấm”. Chúng đã lấy đó làm hàng ổ và ngày ngày chúng xuống cánh đồng để săn bắt. Tiếng người thiếu phụ gọi thường vang lên đến tận tai chúng:
- Lu Lu! Lu Lu!
Mùa đông Bắc Địa cứ thế trôi qua, Kazan đi đi lại lại giữa chòi gỗ và Núi Mặt Trời. Còn người chồng của Joan thì chỉ suốt ngày đi đặt bẫy và tháo bẫy. Anh bẫy bắt đủ loại thú to nhỏ có bộ lông dày ấm, như chồn đen, chồn nâu, chồn trắng, chồn xám vốn rất nhiều trong vùng.
Thế rồi xuân lại trở về, cùng với Cuộc Thay đổi lớn.
-------------
-------------
(1) Đây là độ Fahrenheit (Farơnai). Một độ bách phân bằng 32 độ Farơnai.