Số lần đọc/download: 1856 / 39
Cập nhật: 2015-12-15 08:01:15 +0700
Chương 9: Chuỗi Châu
N
ước trên mái ngói men theo rãnh chảy thành dòng, nhỏ giọt tí tách.
Đường phố được cơn mưa rửa sạch như lau như ly, mày cửa hiệu lúc trước đóng cửa giờ lần lượt mở cửa bán hàng trở lại, người đi đường cũng đông dần lên.
Khương Trầm Ngư cụp ô, đi vào khu chợ.
Khu chợ nằm ở góc Đông Bắc Lô Loan này là khu buôn bán nổi tiếng, thương nhân đến từ bốn nước đã biến nơi này trở nên phồn hoa náo nhiệt, ngoài phố Hoa Tân thuộc về Hách Dịch nàng đi qua lúc nãy, còn có ba con phố song song chạy theo hướng Nam Bắc, mà trong đó con phố nằm ngoài cùng về hướng Đông chính là phố Vân Tường.
So với Hoa Tân có đủ loại hàng hóa, sầm uất nhộn nhịp, phố Vân Tường lại nổi danh nhờ sự phong nhã, đắt đỏ, hàng hóa bán ra đa phần là đồ cổ thư pháp, châu báu dược phẩm…
Vì thế, cho dù trong bốn phố, nó vắng vẻ nhất, nhưng trên đường toàn là hương xa bảo mã, các khách nhân đều ăn mặc sang trọng.
“Đến hiệu Sái gia trên phố Vân Tường, mua ba cân Mê Điệt hương”. Đây là lời phụ thân dặn nàng trong lá thư mật.
Cũng có nghĩa là hiệu Sái gia tọa lạc trên con phố này là một quân cờ ngầm mà Khương Trọng cài vào Trình quốc. Khương Trầm Ngư nhìn khu phố trước mặt, không kìm được khâm phục sự suy tính sâu xa, chu toàn trong thuật gián điệp của phụ thân. Ai cũng biết, nơi ẩn náu tốt nhất chính là phố chợ, nơi nhiều người qua lại cũng là nơi tin tức nhanh nhạy nhất, vì thế, khi thiết lập điểm tập hợp tin tình báo, người ta thường đặt địa điểm ở chợ. Nhưng, người ta lại quên mất một điều rất quan trọng – tin tức dân gian là tin tức thiếu chuẩn xác nhất.
Đúng như cái gọi là những lời đồn đại, tam sao thất bản, một sự việc truyền qua miệng nhiều người, ắt sẽ bị thêm mắm dặm muối, thậm chí hoàn toàn ngược lại với ý nghĩa ban đầu, cho nên, tin tức có được từ trà quán tửu lâu quá ư hỗn độn, cũng quá chậm trễ. Nhưng hiệu Sái gia thì khác, giá cả hàng hóa ở đây đắt đỏ, chuyên phục vụ các nhà hào phú, hàng hóa bán ra lại là phấn son hương liệu, trang sức châu ngọc mà nữ quyền quý tộc không thể thiếu được. Quần thể thích buôn chuyện thị phi của người khác, có quan hệ mật thiết với đương sự nhưng lại đứng ngơài sự việc này là nguồn tin đáng tin cậy, an toàn nhất trong việc thu thập tin tức của cửa hiệu. Mà điều quan trọng nhất là nơi đây mới là nơi nàng – một sứ thần đến từ Bích quốc đến cũng không khiến ai nghi ngờ.
Khương Trầm Ngư cất bước đi về phía hiệu Sái gia cách đó hơn mười trượng.
Cửa hiệu mở rộng, bên chiếc quầy cao hơn nửa người, một người có vẻ là chưởng quầy đang nói chuyện cùng một bà lão.
Trong tay bà lão còn bế một đứa bé, đứa bé khóc oa oa, bà lão vội vàng vừa đung đưa vừa dỗ cháu. Trước một giá hàng trong góc, hai người bán hàng đang chào mời một quý phu nhân xem đồ trang sức, quý phu nhân đó lấy từng chiếc vòng trong hộp ra, đeo lên cổ tay, rồi lại lắc đầu, bỏ xuống, lại đeo chiếc khác lên.
Khương Trầm Ngư càng lúc càng lại gần, có thể nhìn rõ hoa văn trên những chiếc vòng kia, còn chục bước nữa, chín bước, tám bước…
Quý phu nhân cầm một chiếc vòng Bạch Ngọc Thanh Điền lên, từ từ đeo vào tay, chất ngọc trong suốt khiến cổ tay nàng ta trông càng thêm thon thả mềm mại.
Còn cách bảy bước, sáu bước, năm bước…
Bà lão vừa dỗ đứa trẻ, vừa quay đầu sang nói với chưởng quầy: “Không hiểu vì sao hai ngày nay cháu tôi cứ quấy khóc suốt”.
Chưởng quầy an ủi: “Trẻ con ấy mà, khóc một tí mới tốt”.
Còn cách bốn bước.
Người bán hàng nói: “Phu nhân, mua chiếc vòng này nhé, chiếc này rẻ…”.
Còn cách ba bước.
Cửa hiệu đã gần trong gang tấc, Khương Trầm Ngư đột nhiên xoay người, bước vào cửa hiệu bên cạnh.
Lập tức có người bán hàng chạy tới chào hỏi: “Cô nương muốn mua đàn ạ? Mời qua bên này…”.
Bên cạnh cửa hiệu Sái gia là một hiệu bán đàn.
Khương Trầm Ngư đến trước một cây Lôi Ngã cầm, trầm ngâm không nói.
Người bán hàng liến thoắng: “Cô nương… đúng là có con mắt tinh tường, chiếc đàn này là bảo bối trấn điếm(1) của tiệm chúng tôi, do đại sư chế tác đàn Lôi Văn làm ra lúc sinh thời, cô nương xem thân đàn được làm bằng loại gỗ hông thượng hạng nhất…”.
Những lời của hắn cứ lao xao bên tai biến thành phông nền, mà phía trên phông nền ấy thứ nổi bật nhất lại là – Không ổn hiệu Sái gia có gì đó không ổn!
Là bà, lại không biết cháu mình bị rớt một chiếc giày;
Là một quý phu nhân, lại có một đôi tay có vết chai;
Là một người bán hàng, lại hoàn toàn không có kỹ năng chào mời…
Tất cả, tất cả đều không ổn.
Những chi tiết không hợp logic này ngầm cho thấy một điềm báo nào đó, vì thế, trong giây phút cuối cùng, nàng đã quay đầu, bước vào một cửa hiệu khác.
“Không phải tự khen chứ âm sắc của cây đàn này dù không phải là tuyệt thế vô song, cũng có thể xếp hàng thứ hai…”. Gã bán hàng của hiệu đàn vẫn đang thao thao bất tuyệt.
Khương Trầm Ngư đột ngột quay đầu nói: “Ta muốn thử đàn”.
Gã bán hàng sững người rồi vội vàng nói: “Được được, không vấn đề gì, cô nương, mời ngồi bên này”.
Khương Trầm Ngư ngồi xuống trước một chiếc bàn bằng ngọc, từ góc nhìn của nàng, vừa hay có thể quan sát tình hình phía bên kia đường: Bên ngoài mấy cửa hiệu bán chữ, tranh, có mấy người bán kẹo rong; cách vài bước, còn có hai tên ăn mày đang lười biếng tựa tường sưởi nắng.
Nàng càng lúc càng khẳng định suy đoán của mình.
Khách nhân trên con phố này ai lại đi mua loại kẹo rẻ tiền đó? Sao lại để cho ăn mày sưởi nắng ở đây? Hơn nữa, vừa tạnh mưa xong, đường vẫn còn ướt, ăn mày chỉ là những người nghèo túng, chứ không phải là đồ ngọc, sao hoàn toàn không bận tâm đến chuyện đường ướt mà thản nhiên ngồi đó?
Mọi điều trên chỉ dẫn đến một kết luận: Cửa hiệu Sái gia có chuyện rồi.
Vì thế, cứ điểm ban đầu nay đã trở thành cái bẫy. Vậy thì, người đối phương muốn bắt là một mình nàng hay là tất cả gian tế nước địch ẩn náu ở Trình quốc?
Cho dù là thế nào, vừa nãy chỉ cần nàng bước vào cửa thì chắc chắn sẽ bị tóm gọn. Còn như có bắt nhầm người hay không, phải trải qua dùng hình thẩm vấn mới có thể phán đoán được.
Nghĩ đến khả năng này, sống lưng nàng bất giác ớn lạnh.
Lúc này gã bán hàng lấy đàn ra, đặt lên bàn, ân cần nói: “Dây đàn đã được bôi dầu, cũng đã cân chỉnh, cô nương cứ an tâm thử đàn nhé”.
Khương Trầm Ngư(2)nghĩ một lát, giơ tay, tiếng nhạc đột ngột nổi lên, nàng đàn khúc “Hoạch lân”.
Lân hề lân hề, hợp nhân trọng nghĩa, xuất hiện đúng thời.
Bước đi đúng mực, xoay mình đúng mực, tiếng tựa nhạc khí.
Nó đi tới đâu phải chọn rõ ràng rồi mới đến, nhân đức là ở chỗ cỏ tươi chẳng xéo, côn trùng sống chẳng giẫm.
Ở chẳng cùng bầy, đi không cù bạn.
Chẳng lọt cạm bẫy, lưới thưa lồng lộng mà không vướng vào.
Lân hề một sừng năm móng, khi nó kêu lên, hội tụ càn khôn. Nay xuất hiện không đúng thời, ăn sắt sinh vàng, uổng thay cho sự phi thường của nó…
Tiếng đàn tao nhã uyển chuyển, giữa âm điệu du dương, trầm bổng đan xen, nỗi bi phẫn như sóng vỗ ào ào, nỗi thê lương tựa tiếng thở dài khe khẽ, nhịp nhịp thương tâm, tiếng tiếng khắc cốt, nhưng từ đầu đến cuối lại tràn đầy hàm ý từ bi.
Tương truyền vào thời Lỗ Ai công, có người bắt được một con kỳ lân, nhưng làm nó bị thương. Sau khi Khổng Tử nhìn thấy, cảm thấy đau lòng, không kìm được lệ ướt vạt áo.
Khúc nhạc này chia làm sáu đoạn, Khương Trầm Ngư chỉ đàn đoạn đầu tiên “Thương thời Lân hề”, nhưng cũng đủ khiến người trong hiệu chú ý, người đi đường dừng chân. Khi nàng dừng tay, một tràng vỗ tay từ hậu sảnh vang lên.
Nàng quay đầu 1ại, chỉ thấy rèm gấm tầng tầng, không thấy người sau rèm.
Tiếng vỗ tay ngừng, một tiểu đồng vén rèm đi ra, tuổi chừng mười ba, mười bốn, gương mặt tròn trĩnh, không cười mà như cười, nhìn giống như một con búp bê đất, cực kỳ dễ thương.
Chỉ thấy hắn bước nhanh đến trước bàn, dừng lại nói: “Công tử nhà ta nói cô nương chơi đàn rất hay, cái gì mà ‘vời vợi chừ, như Hoa Sơn’…”.
Sau rèm có người ho, còn có một giọng nói rít lên: “Thái Sơn! Là Thái Sơn ấy! Đồ đầu heo!”.
Tiểu đồng vội vàng sửa: “Đúng rồi, là ‘Vời vợi chừ như Thái Sơn’ cái gì ‘Mênh mông chừ như… như… như…”.
Giọng nói the thé đó lại kêu lên: “Giang Hà(3)!”.
“A đúng rồi, mênh mông chừ như Giang Hà, tóm lại là hay nhất trên trời dưới đất… Cho nên, để cảm tạ khúc nhạc này của cô nương, công tử nhà ta xin cô nương nhất định phải nhận cây đàn này!”.
Khương Trầm Ngư ngạc nhiên, đăm đăm nhìn tấm rèm buông rủ đó, hỏi: “Công tử nhà ngươi là ai?”.
“Cái này… cô nương cứ nhận là được, danh tính không cần bận tâm”. Tiểu đồng nói với gã bán hàng: “Bọc cây đàn này lại, rồi sai người mang đến nhà cô nương này”.
Khương Trầm Ngư vội vã đứng dậy nói: “Đợi đã, bèo nước gặp nhau, không dám nhận món quà quý giá như thế này”. Cây đàn này ít nhất cũng phải nghìn lượng bạc, không biết thân phận của người tặng đàn, sao nàng dám nhận bừa?
Nhưng tiểu đồng đó vẫn lắc đầu nói: “Cung tử nhà ta nói ngài tặng cô nương đàn chỉ là muốn cảm tạ khúc nhạc nàng vừa đàn ban nãy, hơn nữa, cũng chỉ người có cầm nghệ xuất chúng như cô nương mới xứng với cây đàn này”.
Khương Trầm Ngư vẫn định chối từ, sau rèm chợt có tiếng động, tiếng bước chân xa dần, dường như đối phương đã rời khỏi đó.
Tiểu đồng nhe răng cười, nói: “Công tử nhà ta đi rồi, ta cũng phải đi đây. Cô nương đừng từ chối nữa, tuy nói là cái gì nước gặp nhau, nhưng có duyên tất sẽ gặp lại. Cáo từ”. Nói đoạn quay người nhảy chân sáo chạy đi.
Khương Trầm Ngư nhìn thấy một cỗ xe ngựa có nóc xe màu xanh sậm nhanh chóng rẽ ngoặt ở góc phố rồi biến mất.
Gã bán hàng bên cạnh nói: “Vậy để tiểu nhân bọc đàn lại cho cô nương, không biết phủ đệ của cô nương ở đâu? Tiểu nhân sai người đem đàn tới”.
Khương Trầm Ngư hỏi: “Ngươi có biết người tặng đàn là ai không?”.
“Chỉ biết là một công tử nhà giàu, đến sớm hơn cô nương một chút, đang ngồi xem đàn trong hậu sảnh, không ngờ chẳng mua gì cho mình nhưng lại mua đàn tặng cho cô nương”. Gã bán hàng vừa nói vừa cười ám muội, “Nhưng, cầm nghệ của cô nương đúng là tuyệt thế vô song, vị công tử đó tặng đàn cảm tạ tri âm, cũng coi là một câu chuyện đẹp”.
Khương Trầm Ngư nhất thời im lặng. Nàng đàn khúc này vốn chỉ muốn thăm dò cửa hiệu sát vách có phản ứng thế nào, xem xem những quân cờ ngầm của phụ thân bị quét sạch một mẻ, hay là vẫn còn cá lọt lưới, có lẽ sau khi nghe tiếng đàn của nàng, họ sẽ đoán được nàng đã đến, sẽ nghĩ cách truyền tin.
Mà nay, chưa do thám được động tĩnh của láng giềng, ngược lại tự dưng lại nhận được cây đàn này, đúng là “cố ý trồng hoa hoa chẳng nở, vô tình cắm liễu liễu xanh um”.
Lại nhìn cửa hiệu Sái gia vẫn không có động tĩnh xem ra hôm nay sẽ chẳng thăm dò được gì, nàng cũng không thể ở đây quá lâu để tránh để lộ thân phận, nàng bèn cho gã bán hàng địa chỉ của dịch trạm, còn mình đi bộ về.
Không ngờ vừa về đến dịch trạm, đã nhìn thấy cỗ xe ngựa có mái xe màu xanh sẫm trước sân.
Nàng vội hỏi: “Đây là xe ngựa của ai?”.
Lý Khánh đáp: “A, cô nương ra ngoài hai ngày nên không biết, đây là xe ngựa của sứ thần Yên quốc”.
“Sứ thần Yên quốc đến rồi sao? Là ai vậy?”.
“Nói ra thật khó tin, Yên vương đích thân đến”.
Khương Trầm Ngư khựng lại, kinh ngạc hỏi: “Cái gì? Yên vương?”.
“Đúng thế, ai mà ngờ được chứ. Lần này, Trình vương quả là hãnh diện, Nghi vương và Yên vương đã đến cả…”. Lý Khánh than.
Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn cỗ xe ngựa nhìn có vẻ bình thường đó, trong lòng cảm thấy vừa căng thẳng vừa bất an. Trong các quân chủ của bốn nước hiện nay, Chiêu Doãn tươi trẻ nhất, thời gian lên ngôi cũng ngắn nhất, bên ngoài bình luận y, phần lớnà lông cánh chưa đủ, bị thần tử khống chế, năm nay y đột nhiên trừ sạch Tiết gia, đích thân nắm quyền, bình luận chuyển thành kiên nhẫn cố chấp, lòng dạ sâu xa; bình luận về Nghi vương là tốt nhất, phóng khoáng thân dân, hài hước phong nhã, đã chấp chính sáu năm, trong nước không có chuyện lớn phát sinh, cũng không có điều gì thất đức; Minh Cung tuổi tác cao nhất, khi còn tráng niên ít lời vô sỉ, lật lọng là chuyện cơm bữa, hơn nữa hiếu chiến ham công, bị các nước xung quanh coi thường, nhưng con dân Trình quốc lại có một sự sùng bái thâm căn cố đế, thậm chí có thể nói là mù quáng điên cuồng đối với lão, tóm lại, Minh Cung là một quốc quân tương đối phức tạp…
Thế nhưng nếu nói đến người thực sự có phong độ đế vương thì đó chính là Yên vương Chương Hoa.
Cả đời Chương Hoa có thể nói là xuôi chèo mát mái, do quốc mẫu chính thống sinh ra(4), vừa ra đời đã được thụ phong thái tử, bình an đến lúc mười bảy tuổi, lão Yên vương đột nhiên nhìn thấu hồng trần, xuất gia làm hòa thượng, vì thế thuận lợi truyền ngôi cho con trai duy nhất. Mà Yên vương lại có một vị hảo thừa tướng một lòng trung thành, phò tá y đến năm hai mươi tuổi, mọi việc thành thục, trong nước không ẩn họa ngầm, bên ngoài chẳng mối âu lo, lão thừa tướng mới từ quan cáo lão, vân du thiên hạ. Mà con người Chương Hoa cũng đúng như lời y tự thuật: “Duy có Hách Dịch rực rỡ sáng chói rạng rỡ như vũ trụ nhật nguyệt, mới có thể sánh với ta”.
Yên quốc được y thống trị, binh tức mã cường, nước giàu dân mạnh, sức mạnh tổng hợp có thể coi là đứng đầu bốn nước, y chấp chính sáu năm, cất nhắc người tài không thiên vị đảng phái, cho gánh vác nghiệp lớn, để họ dốc hết kỳ tài. Nghe theo lẽ phải, tế thế an dân, công ích hiển hách.
Nếu muốn nói y có uy vọng thế nào, có một việc có thể chứng minh.
Tội tử hình của Yên quốc phải qua ba lần tấu, thẩm, phê mới có thể thi hành.
Vào năm Hoa Trinh thứ tư, trong cả nước người bị khép vào tội chết tổng cộng có bốn mươi chín người. Vừa hay trùng dịp năm mới, Chương Hoa hạ lệnh cho bốn mươi chín người này về nhà đón Tết cùng gia đình, qua mùa thu năm sau trở về thụ hình, kết quả tất cả bốn mươi chín người đều trở về đúng ngày, không ai bỏ trốn.
Việc này truyền đến ba nước còn lại, ai cũng kinh ngạc.
Ebook: Mèo
Nguồn: Ebook Fun&Free
Sau Tết, Chiêu Doãn lập tức phái Tiết Thái đi sứ Yên quốc, cũng vì thế dệt nên giai thoại Chương Hoa tặng tuyệt thế mỹ ngọc “Băng Ly” cho Tiết Thái.
Còn nay, vị đế vương nổi danh này cũng đến Trình quốc? – Hơn nữa, vừa nãy còn tặng nàng một cây đàn.
Cho dù Khương Trầm Ngư có trầm ổn, trấn tĩnh thế nào đi nữa, trái tim vẫn không chịu nghe lời mà đập điên cuồng, khi cất tiếng, giọng nói gấp gáp hẳn lên: “Yên vương bây giờ ở đâu?”
“Yên vương cũng ở đây, nhưng vừa nãy trong cung có người mời ngài đi rồi”.
Lời vừa dứt, một người từ trong nhà chạy ra, bù lu bù loa kêu lên: “Làm cái gì thế, ta mới chợp mắt một lúc, tất cả đều bỏ ta mà đi hết cả? Ta…”. Đang gào dở chừng, ngẩng đầu thấy Khương Trầm Ngư, kinh ngạc lắp bắp: “A, cô nương… đánh đàn”.
Người này không phải ai khác mà chính là tiểu đồng vừa tặng đàn cho nàng. Khương Trầm Ngư cũng sững sờ nhìn hắn, cảm thấy miệng hắn mấp máy, dường như lại nói gì đó, nhưng âm thanh bỗng trở nên mơ hồ, người hắn cũng từ một mà hóa thành mấy người, trời đất bắt đầu quay cuồng, tầm nhìn tối sầm lại. Nàng chỉ kịp nói một tiếng “ta” liền ngất lịm đi.
Trời đất tối đen.
Cơ thể giống như đang bị thiêu đốt trên ngọn lửa cháy rừng rực, xương cốt và tứ chi đều đau nhức khôn tả, rõ ràng trước mắt tối sầm, nhưng có thể loáng thoáng nghe thấy những giọng nói đứt quãng: “Ôi con gái thứ ba của hữu tướng Khương Trọng, phúc thừa Hoa tộc, lễ vượt nữ sư… vậy nên mệnh cho ngươi làm Thục phi, chọn ngày tiến cung…”.
“Khi còn nhỏ Trầm Ngư rất sợ đau… bây giờ, xin công tử hãy xỏ lỗ tai cho ta, coi như là quà mừng Trầm Ngư xin công tử…”.
“Trẫm muốn nàng, cùng Phan Phương, Giang Vãn Y đi Trình quốc…”.
“Đừng cho rằng làm nũng là ta có thể tha thứ cho muội…”.
“Ngu thị, hãy liên thủ với ta”. “Trẫm là đế vương…”.
Rất nhiều giọng nói đan xen với nhau, hỗn loạn, lặp lại không ngừng, giống như một sợi dây thừng quấn lấy nàng, sau đó từ từ thít chặt, rất đau, đau đến mức nàng không nói được, thậm chí không thở được.
“Tiểu thư của Khương gia?”. Một giọng nói mềm mại như nước, nhẹ nhàng như gió đã vang lên như thế.
“Sắc trời không còn sớm, Anh đưa tiểu thư về phủ”.
“Tiểu thư hẹn Anh đến đây, ắt là có chuyện, đã có chuyện, là ai hẹn có can hệ gì sao?”.
“Là Anh hành sự đường đột, vội vã truyền tin, hy vọng không quấy rầy chính sự của tiểu thư”.
“Tiểu thư…”. “Tiểu thư…”. “Tiểu thư…”.
Đừng, đừng, nàng không muốn nghe tiếp, đừng gọi nữa… “Ngu thị…”.
“Tiểu Ngu…”.
Hai giọng nói khác xen vào, Khương Trầm Ngư điên cuồng giãy giụa, bỗng nàng run lẩy bầy, mở choàng mắt. Thoạt đầu trước mắt vẫn tối đen, sau dần dần sáng tỏ, đập vào mắt nàng là một gương mặt mi thanh mục tú mang thần sắc thương xót âu lo quen thuộc mà ấm áp. Thế nên, một tiếng gọi tự nhiên bật ra: “Sư huynh…”.
Giang Vãn Y mỉm cười với nàng, giọng nói ấm áp như ánh mặt trời: “A Ngu, muội tỉnh rồi?”.
“Sư huynh, muội làm sao vậy?”.
“Muội bị bệnh. Nhưng đừng sợ, sẽ mau khỏi thôi”. Gương mặt hắn rất dịu dàng, nụ cười vô cùng điềm tĩnh, tựa như chỉ cần có hắn ở đây, nàng không cần sợ hãi bất cứ nỗi đau nào.
Khương Trầm Ngư có được lời đảm bảo, liền nhắm mắt thiếp đi, và lần này, cơn ác mộng đã biến mất.
Khi nàng tỉnh lại lần nữa, ánh nắng ngập tràn, Giang Vãn Y đã không còn ở bên giường, chỉ có Hoài Cẩn mừng rỡ đặt chiếc hộp trong tay xuống, chạy qua hỏi: “Tiểu thư, tiểu thư tỉnh rồi? Tiểu thư thấy đỡ hơn chưa?”.
Khương Trầm Ngư ôm chăn, từ từ ngồi dậy, “Đầu ta vẫn còn đau lắm”.
“Tiểu thư mới hạ sốt, đầu vẫn còn hơi nặng, hầu gia đã kê đơn thuốc, bây giờ đang sắc, một lát nữa là xong”. Hoài Cẩn lấy gối kê sau lưng nàng.
“Sư huynh đâu?”.
“Tiểu thư bệnh liền ba ngày, mấy ngày nay hầu gia đều túc trực chăm sóc tiểu thư, không được nghỉ ngơi tử tế, vừa nãy trong cung có người đến gọi ngài đi rồi”.
Khương Trầm Ngư áy náy, mình quả nhiên gây phiền phức rồi. Rõ ràng biết trách nhiệm mỗi người phải gánh vác đều không nhẹ nhàng, đặc biệt là Giang Vãn Y, là đại phu nên bận rộn, vất vả nhất, vậy mà nàng lại ngã bệnh đúng lúc này, gây thêm rắc rối cho hắn. Lúc đó nhảy xuống hồ chỉ vì cao hứng nhất thời, bây giờ hại mình không nói, còn liên lụy đến người khác.
Hoài Cẩn thấy nàng không vui, cũng tự đoán được vài phần, vội chuyển chủ đề khác: “Nhưng tiểu thư thật là có thể diện, nghe nói tiểu thư bệnh, số lễ vật này giống như thóc đổ vào kho, không ngừng cuồn cuộn đổ tới!”.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, quả nhiên ở góc tường, trên bàn ghế bên ngoài chất đầy hộp quà.
Hoài Cẩn cười nói: “Trong đó dĩ nhiên lễ vật của Nghi vương bệ hạ là nhiều nhất, hầu gia nói chỉ riêng sơ lễ vật Nghi vương tặng đã đủ mở một hiệu thuốc nhỏ rồi. Ba vị hoàng tử của Trình quốc cũng tặng toàn đồ bổ trân quý. Nhưng, kỳ lạ nhất là Yên vương cũng tặng lễ vật, nhưng lễ vật của ngài không giống người khác, tiểu thư xem xem?”. Nói đoạn lấy ra một chiếc hộp nhỏ, mở ra cho nàng xem.
Trong chiếc hộp nhỏ có mấy tờ giấy. Khương Trầm Ngư cầm lên xem, hóa ra là một khúc phổ, trang đầu tiên viết ba chữ “Phổ Am Chú”, phía dưới còn viết một hàng chữ nhỏ: ‘Thuốc chữa được bệnh, nhạc chữa được tâm. Trong ngoài thấu triệt, tịnh không tì viết”.
Nét chữ nguệch ngà nguệch ngoạc, tựa như người mới học viết, hơn nữa vết mực còn ướt, xem ra mới viết chưa lâu, chữ Tâm hơi nhòe, chữ “Vết” cũng viết nhầm thành chữ “Viết”.
Khương Trầm Ngư bất giác nhoẻn cười: “Là tiểu đồng của Yên vương đưa tới đúng không?”.
“Chính là cái người nói chuyện với tiểu thư lúc tiểu thư ngất xỉu hắn tên là Như Ý. Bên cạnh Yên vương có hai tiểu công công, một là hắn, ngoài ra còn một người tên là Cát Tường”.
Không cần nói, chữ trên khúc phổ này chắc chắn là do tên Như Ý học hành bát nháo đó viết. Vị Yên vương này thật thú vị tặng đàn tặng khúc đều không tự mình lộ diện, chỉ sai một tên hề đứng ra làm mất thể hiện, thật không biết là cố ý hay là quá dung túng.
Cười xong, Khương Trầm Ngư lại nhìn những chiếc hộp chất đầy căn phòng, hỏi: “Ngoài ra còn có ai tặng lễ vật nữa?”.
“Thượng vàng hạ cám đều có cả, quan viên của Trình quốc, sứ thần cùng đến với chúng ta…”.
“Em có mở ra xem từng món quà không?”.
Hoài Cẩn lấy ra một cuốn số nhỏ, trình lên trước mặt nàng: “Em đã ghi danh sách lễ vật và tên người tặng ở hết trong này”.
Khương Trầm Ngư không kìm được gật đầu hài lòng, ban đầu chọn mang theo Hoài Cẩn mà không phải Ác Du cũng chính vì Hoài Cẩn làm việc chu đáo cẩn thận, rất nhiều việc không cần nàng dặn dò, đều tự giác làm tốt. Nàng cầm lấy cuốn sổ, chậm rãi giở ra xem, ánh mắt lướt qua từng hàng tên tuổi, trong lòng trầm ngâm.
Nghi vương tặng quà, nàng không bất ngờ, Di Phi tặng quà nàng cũng không bất ngờ, nhưng Hàm Kỳ tặng quà thì có hơi khiên cưỡng, nàng chẳng qua cũng chỉ là một sứ giả của Bích quốc, cho dù có chút địa vị, nhưng cũng không quan trọng đến mức khiến tất cả mọi người đều lũ lượt tặng lễ vật.
Tại sao Hàm Kỳ lại tặng thuốc cho nàng? Là để cảm tạ nàng hôm ở bến cảng đã đi theo hắn mà không theo Di Phi? Nàng nghĩ không ra.
Còn như Lân Tố thì lại càng khiên cưỡng, nàng và Hàm Kỳ còn có chút giao tiết, nhưng nàng chẳng hề có quan hệ gì với vị đại hoàng tử này, tại sao y cũng tặng lễ vật cho nàng?
Ngoài ra còn có một số quan viên của Trình quốc, họ thấy các vị điện hạ bệ hạ đều tặng, cho nên cũng bắt chước? Hay là còn có nguyên nhân nào khác?
KhươngTrầm Ngư vừa nghĩ vừa xem, ánh mắt bỗng dừng lại ở một cái tên.
Nàng trầm ngâm giây lát, quay đầu hỏi: “Sư huynh có nói bệnh của ta bao giờ khỏi không?”.
“À, hầu gia chỉ nói để tiểu thư tĩnh dưỡng cẩn thận, không nói gì khác. Tiểu thư có chỗ nào khó chịu sao?”.
“Ừm”. Trầm Ngư gật đầu.
Hoài Cẩn ngẩn người: “Hả?”. Nhưng rõ ràng trong khí sắc tiểu thư đã tốt hơn rất nhiều mà…
“Bệnh của ta không phải dăm bữa nửa tháng là khỏi được, nếu lại có lễ vật gửi tới thì cứ nhận hết”. Khương Trầm Ngư đọc cuốn sổ, thuận miệng hỏi: “Công chúa Trình quốc cũng tặng quà à…”.
Hoài Cẩn che miệng cười, “Tiểu thư, tiểu thư không biết à?”.
“Biết cái gì?”.
Lễ vật của Di Thù công chúa do công chúa đích thân đem đến đó. Không chỉ như thế, công chúa hiện đang ở đây, bây giờ đang nói chuyện với Phan tướng quân trong hậu hoa viên”.
Bờ mi của Khương Trầm Ngư run run, nàng không hề ngạc nhiên vì Di Thù động lòng sau khi nghe câu chuyện của Phan Phương, chỉ có điều, nàng không ngờ vị công chúa này lại đến nhanh như thế, thẳng thắn như thế.
Mà trong hậu hoa viên cách đó tầng tầng tường viện, Di Thù đang trò chuyện với Phan Phương dưới tán cây ngọc lan.
“Nghe nói ta rất giống vong thê của tướng quân?”. Sự thực chứng minh, Di Thù còn thẳng thắn hơn Khương Trầm Ngư nghĩ, khi nàng ta hỏi câu này, trên gương mặt không hề có vẻ gì là thẹn thùng, hoa ngọc lan bừng nở sau lưng nàng ta, càng tôn lên vẻ đẹp diễm lệ say đắm lòng người.
Phan Phương chăm chú nhìn Di Thù, ánh mắt hơi tối.
Di Thù cười tươi như một đóa hoa: “Cho nên, trong bữa tiệc đêm đó, tướng quân mới rơi lệ trước mặt mọi người?”.
Phan Phương lại nhìn nàng ta chằm chằm hồi lâu mới chậm rãi mở miệng, nói: “Phụ thân của A Tần và phụ thân ta là chiến hữu, nàng mồ côi mẹ từ nhỏ, phụ thân cũng không quá nghiêm khắc, khi còn nhỏ nàng rất nghịch ngợm, trèo cây nghịch nước, chơi đùa đánh nhau, không khác nam nhi là bao”.
Di Thù ngưng cười, nghiêm túc lắng nghe.
“Vì thế, làn da của nàng rám nắng, phía sau tai trái còn có một vết sẹo nhỏ do bị đá cứa, chỗ đó cũng không mọc được tóc”.
Di Thù vô thức đưa tay sờ phía sau tai trái.
“Phía dưới mắt trái của nàng có một nốt ruồi nhỏ. Hơi nhỏ thường bị chúng ta chê cười, nói là nốt ruồi lệ, nhưng trong ấn tượng của ta, nàng chưa bao giờ khóc. Cho dù khi Tần bá phụ chết nơi sa trường, cho dù năm ta mười ba tuổi đi tòng quân buộc phải rời xa nàng, cho dù người chồng trước của nàng bị bệnh qua đời, nàng cũng chưa từng nhỏ một giọt lệ nào”.
Di Thù lộ vẻ áy náy, dường như cũng ý thức được rằng, so bì với một người đã chết, đặc biệt là so bì với người đã chết mà đối phương yêu sâu sắc, thì thật là không phải, liền lập tức ngại ngùng nói: “Xin lỗi, là Thù thất lễ.”
Phan Phương vẫn không tỏ cảm xúc, chỉ có vẻ thâm trầm, một vẻ thâm trầm mà ai cũng không hiểu rõ được, lời nói cũng vẫn rất ôn hòa, “Ta kể với công chúa những điều này, không phải là muốn chứng minh hai người khác nhau thế nào”.
Di Thù thoáng ngạc nhiên ngẩng đầu.
Phan Phương nhìn nàng ta, nói tiếp: “Sự thực thì giây phút nhìn thấy công chúa, ta rất vui”.
“Vui?”
“Đúng thế”, Phan Phương thu lại ánh nhìn, quay sang cây ngọc lan bên cạnh, sự thâm trầm không cảm xúc dần dần nhạt đi biến thành một nụ cười như gió thoảng, “Bởi vì, tuy A Tần đã mất, nhưng thế gian này còn có một số thứ, một số thứ vô cùng tươi đẹp khiến ta nhớ đến nàng, khi nhìn những thứ đó nàng dường như vẫn còn trên nhân thế, chưa hề đi xa, cũng chưa hề bị lãng quên, cho nên ta rất vui. Cho nên cảm ơn nàng, công chúa”.
Biểu tình của Di Thù lại thay đổi, cuối cùng, nàng quay đầu cao giọng nói: “Người đâu, đem thương của ta qua đây”.
Lập tức có thị vệ bưng một cây trường thương rất đẹp, toàn thân trắng toát, duy chỉ có đầu thương gắn một túm ngù đỏ đỏ chói mắt đỏ rực rỡ, thân thương cao bằng hai người, mà Di Thù một tay nắm lấy, nhẹ nhàng vung lên múa một cách đẹp mắt, toàn bộ động tác như nước chảy mây trôi, dứt khoát mạnh mẽ.
Khương Trầm Ngư được Hoài Cẩn dìu đến hậu hoa viên, đã nhìn thấy cảnh tượng như thế này: Chỉ nghe Di Thù nói: “Nước ta xưa nay sùng võ, từ lâu đã nghe nói tướng quân võ nghệ siêu quần, giỏi dùng trường thương, mười sáu tuổi đánh bại đại tướng quân Nghi quốc Nhan Hoài, mười chín tuổi thụ phong Khinh xa tướng quân, mà nay lại vừa đánh bại Đệ nhất danh tướng tứ quốc Tiết Hoài. Cho nên, Thù bất tài, muốn lĩnh giáo vài chiêu với tướng quân”.
Phan Phương như định từ chối, Di Thù lại tiếp: “Tướng quân cũng là kẻ học võ, nên lấy võ đạo kính ta, không cần nói những lời như thân thể ngàn vàng, không dám mạo phạm”.
Phan Phương lại im lặng.
Khương Trầm Ngư đứng một bên, khép chặt áo khoác, trong lòng không rõ là vui hay buồn. Di Thù khiêu chiến Phan Phương, thắng nàng ta, Trình quốc mất thể diện, thua nàng ta, e là công chúa tâm cao khí ngạo y cũng không coi Phan Phương ra gì, nhưng để không thắng cũng không thua, thực sự rất khó. Đương nhiên Phan Phương võ nghệ cao thâm, nhưng nghe nói Di Thù cũng không yếu đuối, cho dù là Hàm Kỳ cũng chưa chắc là đối thủ của muội muội. Trận đấu này… không biết là họa hay là phúc đây…
Đúng lúc này, một giọng nói đột ngột vang lên: “Ta cá công chúa thắng!”.
Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn, thấy hai thiếu niên từ xa bước tới, tướng mạo giống hệt nhau, một người mặc áo lam, một người mặc áo đỏ, trong đó một người là Như Ý, vậy người kia chính là Cát Tường.
Hai thiếu niên nhìn thấy nàng, áo lam cười ngọt như mật: “Ngu cô nương bệnh đã đỡ chưa? Có thể ra ngoài rồi à? Hôm đó cô nương tự nhiên ngất xỉu, hại ta sợ gần chết”.
Khương Trầm Ngư nhún mình bái tạ: “Thiếp thân thất lễ, khiến công công kinh sợ. Đúng rồi, đa tạ khúc phổ của Yên vương bệ hạ, bao giờ khỏe hơn, ta sẽ đích thân tới tạ ơn”.
Như Ý áo lam vội vàng xua tay: “Không cần đâu, công tử nói tặng cô nương đàn và bản nhạc đều chỉ là tặng những thứ đó cho chủ nhân thích hợp nhất của chúng mà thôi. Nếu như thực sự phải cảm tạ, thì hãy cảm tạ ông trời đã sinh ra cô nương như chung… cái gì mà tú ấy”.
Cát Tường áo đỏ lộ vẻ xấu hổ, gắt lên: “Chung linh dục tú(5) đồ ngốc! Không biết thì đừng nói, đừng có dùng thành ngữ bốn chữ, ngươi không biết thế nào là giấu dốt à?”.
“Ngươi quản ta? Ta cứ thích nói thành ngữ đấy! Đến thánh thượng còn không quản ta…”.
“Đó là do ngài tuyệt vọng với ngươi rồi, có biết không?”.
Hai người cãi qua cãi lại, khiến Phan Phương và Di Thù đứng một bên cũng thấy bối rối, vốn là một cảnh tượng kích động khiến người ta căng thẳng nghiêm trang, lại bị quấy đảo không còn chút không khí căng thẳng nào nữa.
Di Thù đành ho một tiếng, lại nâng trường thương lên nói: “Mong tướng quân thành toàn”.
Phan Phương im lặng một hồi rồi mới đáp: “Đao kiếm không có mắt, công chúa cẩn thận. Có chỗ nào đắc tội, mong được lượng thứ”.
Di Thù cả mừng, biết y nhận lời, vội vàng sai tùy tùng mang thương đến cho y. Hai thương đối đầu, sát khí bao trùm, đến Cát Tường, Như Ý cũng ngừng đấu khẩu, cùng quay đầu lại.
Như Ý bước lên, khẽ giật giật tay áo Khương Trầm Ngư nói: “Ngu cô nương chúng ta tránh ra phía sau một chút đi, cẩn thận kẻo bị thương”.
Khương Trầm Ngư không ngờ hắn lại quan tâm nàng như thế, trong lòng ấm áp, vội vàng lùi về phía sau, những thị vệ khác cũng lần lượt lùi, chừa khoảng trống đủ cho hai người tỉ thí.
Di Thù nói “Đắc tội rồi”, ngù đỏ như rắn nhảy lên đâm thẳng vào tim Phan Phương.
Khương Trầm Ngư không hiểu võ công, vì thế chỉ cảm thấy trước mặt một màn hỗn loạn, thân thương trắng toát, tua ngù màu đỏ cùng với y phục Di Thù mặc kết thành ba dải màu, tầng tầng vây quanh Phan Phương, dần dần nuốt trọn.
Bên cạnh, Như Ý nghênh ngang bình luận: “Ở, thương pháp của công chúa Trình quốc quả nhiên xuất sắc, chiêu Linh Xà Xuất Động này rõ ràng là Trình vương đích thân truyền thụ, điêu luyện nhuần nhuyễn… A, thương này hiểm quá! Tuy nói thương pháp của Trình quốc nổi tiếng là nhanh, đánh vào chỗ không phòng bị, mấu chốt là giành được tiên cơ, nhưng hai quân giao tranh, thời cơ là then chốt nhất, chỉ tấn công nhanh thế này, ngược lại thành lỗ mãng… Nhìn kìa, tránh được rồi? Ầy so với tốc độ của công chúa, Phan tướng quân thật là chậm, có điều lúc này lấy tĩnh chế động đúng là kế hay…”.
Khương Trầm Ngư ngạc nhiên hỏi: “Tiểu công công biết võ?”.
Như Ý còn chưa kịp trả lời, Cát Tường đã cười phì, nói: “Hắn đích thực biết võ công, đáng tiếc là chỉ biết nhìn rồi bình luận, chứ để hắn đích thân lên đài, tuyệt đối không làm ăn được gì đâu”.
Như Ý mặt đỏ lựng, hừ một tiếng nói: “Thế thì đã làm sao? Ta thân thể cao quý, còn cần tự mình động thủ sao? Huống hồ, thực khách chỉ cần sành ăn là được rồi, đâu cần tự mình xuống bếp… A! Phan tướng quân nguy hiểm!”.
Khi hắn la lên nguy hiểm, trường thương Di Thù linh động đâm vào hai mắt Phan Phương bằng một tốc độ cực kỳ nhanh, mà Phan Phương đang ở giữa không trung, không thể tránh, cũng không thể trốn, nhìn thương sắp đâm vào mắt, nhưng đúng giây cuối lại chệch đi, chỉ nghe một tiếng động khẽ, đầu thương đâm vào cánh tay trái của y.
Đồng thời, y đáp xuống đất, lùi lại ba bước.
Khương Trầm Ngư trong lòng lo lắng – thua rồi!
Trên sân hai người bất động, ngoài sân im lặng như tờ.
Như Ý trợn mắt, lộ vẻ không hiểu được.
Còn Di Thù giữ nguyên động tác đâm, một lúc sau, cánh tay nhấc lên, thu hồi trường thương, nhưng thân thương và mũi thương gãy rời, đầu thương vẫn cắm trên tay Phan Phương.
Nàng ta nhìn cây thương gãy của mình, tựa như si ngốc, cuối cùng ngẩng đầu nhìn Phan Phương, mãi không nói gì.
Phan Phương cười nhạt: “Ta thua rồi”.
Vẻ mặt Di Thù lại biến đổi, có vẻ vô cùng cổ quái, sau chót cúi đầu, thong thả nói: “Đã nhường…”, ngừng lại một lát, nói thêm một câu: “Đa tạ”, lại ngừng lại như nghĩ ngợi gì đó, ngẩng đầu lên nói: “Vết thương của tướng quân…”.
Phan Phương không để tâm, đáp: “Vãn Y trở về sẽ tự biết xử lý”.
Di Thù gật đầu, vứt cây thương cho thị vệ bên cạnh: “Chúng ta đi”. Cứ như vậy đi không còn một ai.
Nàng ta vừa đi, Khương Trầm Ngư vội vàng chạy tới, hỏi: “Tướng quân, vết thương của ngài…”.
Phan Phương giữ tay nàng lại, im lặng lắc đầu, trong mắt lóe lên một tia dị sắc. Khương Trầm Ngư hiểu ý, dịu dàng nói: “Cho dù thế nào phải về phòng cầm máu đã”. Nàng lập tức sai người dìu y về phòng.
Về tới phòng, nàng cho người xung quanh lui ra hết, đích thân lấy hòm thuốc, đang nghĩ phải làm – thế nào nhổ đầu thương ra, chỉ thấy cơ bắp trên cánh tay Phan Phương đột ngột gồng lên, sau đó đầu thương tự nhiên trồi lên, rơi cạch trên mặt bàn.
Khương Trầm Ngư vội vã cầm máu băng bó cho y, hỏi: “Tướng quân cố ý thua công chúa?”.
Phan Phương lạnh nhạt “ừ” một tiếng.
“Tại sao?”.
Ánh mắt Phan Phương rơi trên mũi thương đó.
Khương Trầm Ngư cầm mũi thương lên quan sát kỹ lưỡng, Phan Phương giải thích: “Thuật luyện sắt của Trình quốc đứng đầu bốn nước, cây thương Di Thù sử dụng lại là tinh phẩm ngàn cây mới có một”.
Lúc trước đứng xa nhìn chỉ coi đó là một cây thương bình thường, mà nay cầm trong tay mới biết còn có huyền cơ. Đầu thương sắc nhọn đã đành, bên trong còn giấu bảy mũi móc câu, ngoài ra còn có rãnh trũng. Tinh xảo như thế nhưng đặt trong tay lại nhẹ bẫng, thật là khiến người ta thán phục.
Khương Trầm Ngư nói: “Cho nên tướng quân mới cố ý thua, chịu một thương của công chúa để giữ lại mũi thương này?”.
Phan Phương lắc đầu. Thấy nàng không hiểu, bèn giải thích: “Ta giữ lại mũi thương là cố ý, nhưng chịu một thương của công chúa là bất đắc dĩ”.
“Hả?”.
“Bởi vì, ta muốn cứu nàng ấy”.
“Cái gì? Sở dĩ Phan Phương thua là vì hắn muốn cứu Di Thù?”.
Cùng lúc đó, trong một căn phòng khác của dịch trạm, kết luận tương tự cũng được nói ra từ miệng một người khác.
Trong căn phòng bố trí đơn giản nhưng cực kỳ thoải mái, nam tử mặc áo tím mỉm cười: “Không sai, chính là để cứu người”.
Như Ý bĩu môi: “Sao có thể thế được? Khi đó rõ ràng thần nhìn thấy hắn không thể trốn được…”.
“Trước đó, có phải Di Thù đã dùng chiêu Phi Long Quy Hải, còn Phan Phương dùng thương chặn lại, mượn lực thuận thế bay lên?”.
Như Ý cả kinh: “Không phải thánh thượng không có mặt ở đó sao? Làm sao người biết được?”
Cát Tương được thể xen vào: “Phì, trên đời có chuyện gì mà thánh thượng không biết?”.
Người áo tím chỉ cười cười: “Phan Phương ở giữa không trung, không sức chống đỡ, toàn thân sơ hở, vốn là thời cơ tuyệt vời, nhưng phải biết rằng, không phải tất cả mọi người đều có thể dễ dàng lách khỏi ngọn thương của Di Thù, đặc biệt là chiêu Phi Long Quy Hải tinh diệu như thế, chiêu đó muốn thi triển, hẳn phải dùng ít nhất tám thành công lực, hơn nữa đã đâm là phải trúng, nếu không nội lực sẽ phản lại làm bản thân bị thương. Di Thù dùng chiêu này, vốn tưởng đã giành chắc phần thắng, không ngờ Phan Phương lại dễ dàng hóa giải. Nàng ta thấy Phan Phương bay lên, không nỡ bỏ qua thời cơ tốt, vì thế gấp rút tấn công, không màng đến nội lực phản lại, thương đi nửa chừng, nếu phía trước không có chỗ dụng lực sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Phan Phương vì không muốn nàng ta bị thương, bèn dùng cánh tay đỡ lấy một thương đây cũng là nguyên nhân vì sao mũi thương gãy rời”.
Như Ý vò đầu, nói: “Ra là thế sao…”.
Cát Tương cốc vào đầu hắn: “Cái gì là như thế sao? Lời thánh thượng nói, ngươi còn dám hoài nghi, đúng là ngày càng không biết phép tắc!”.
Người áo tím cười ha ha: “Ngươi theo ta gần hai năm rồi, học văn không thành, học võ cũng chỉ hời hợt, nên nghiêm túc xét lại bản thân”.
Như Ý cúi đầu, đáp: “Mới chưa đến hai năm đã mong nô tài tiến bộ vượt bậc, cũng quá nghiêm khắc, nô tài không phải là Tiết Thái của Bích quốc… Ai da!”. Nói đến đây, bị Cát Tương nhéo một cái đau điếng.
Nụ cười trên gương mặt người áo tím biến mất, dõi trông bầu trời bên ngoài cửa sổ, buồn bã nói: “Tiết Thái…”.
Nơi chân trời, ráng chiều như gấm, thế nhưng nó cách phàm trần tục thế quá xa, xa không thể với tới được.
Mà dưới ráng chiều xa thẳm ấy, Khương Trầm Ngư nói: “Trong lòng công chúa cũng rất rõ là tướng quân cứu nàng ta, cho nên vẻ mặt mới kỳ quái như vậy?”.
Phan Phương “ừm” một tiếng, “Có điều, ta còn có một chuyện không hiểu”. “Xin tướng quân cứ nói”.
Phan Phương chỉ mũi thương đó, nói; “Thương này chế tạo tinh xảo không cần nhắc đến, nhưng chất liệu của nó là loại sắt hiếm tám màu thượng đẳng, tuy nhẹ nhưng cực kỳ cứng. Nhưng theo ta biết trong khắp Trình quốc, không nơi nào có loại sắt này”.
“Ý của tướng quân là loại sắt này mua từ nước khác về?”.
Phan Phương gật đầu: “Trình quốc nước nhỏ đất cằn, khoáng sản không nhiều, nhưng họ lại có vũ khí mạnh nhất, hơn nữa số lượng dồi dào, chất lượng tuyệt đỉnh, vượt xa các nước khác. Thế là vì sao? Là ai bán sắt cho bọn họ?”.
Đáp án đầu tiên mà Khương Trầm Ngư nghĩ tới chính là: “Nghi vương?”.
Phan Phương lắc đầu: “Nghi quốc cũng không có loại sắt này”.
Khương Trầm Ngư nhíu mày.
Sắc mặt Phan Phương nghiêm nghị, nén thấp giọng nói: “Loại sắt này chỉ có Quyển Nhĩ sơn ở Hồng Diệp Hương trong Bích quốc mới có, vì số lượng cực kỳ ít nên vô cùng quý hiếm, chỉ dùng để tiến cống, cấm mua bán trong dân gian”.
Lòng Khương Trầm Ngư chùng xuống, cuối cùng ý thức được sự nghiêm trọng của sự việc – Sắt tiến cống của Bích quốc biến thành vũ khí của công chúa Trình quốc, là biếu tặng? Hay là mua bán? Là ai có quyền đem tặng và mua bán?
Chỉ một mũi thương nhỏ nhoi, đột nhiên trở nên nặng tựa ngàn cân. Trong vụ giao dịch này, thứ bán đi chỉ là sắt hay là… đất nước?
“Tiểu thư, tiểu thư bảo em lưu ý tên Mê Điệp đó, hôm nay hắn lại tặng thuốc nữa”. Trong phòng ngủ, Hoài Cẩn cầm một trang danh sách quà tặng mới đến bên Khương Trầm Ngư.
Khương Trầm Ngư cầm lấy tờ danh sách.
Hôm qua, khi nàng nhìn thấy một người tên “Mê Điệp” trong danh sách liền cảm thấy có gì đó bất thường, nên bảo Hoài Cẩn phàm có người nào đến tặng lễ thì cứ thu nhận, quả nhiên không ngoài dự đoán, hôm nay người đó lại tặng thuốc. Cứ như thế, đối phương liên tục tặng hai mươi chín loại thuốc trong vòng ba ngày.
Hai mươi chín… nghĩ đi nghĩ lại, thứ duy nhất có liên hệ đến con số này chỉ có ngày sinh của Trình vương – hai mươi chín tháng sáu.
Khương Trầm Ngư đặt mấy tờ danh sách cạnh nhau để đối chiếu hai mươi chín loại thuốc đó không phải là loại thuốc quý báu gì, phần lớn là thuốc thanh nhiệt tiêu viêm, bổ gân cốt, nhưng nếu như bỏ đuôi bỏ đầu một số trong đó, thì sẽ biến thành: Cúc (cứ) Oa, nhất điểm (điểm) hồng, trạch tả (tiết), lộc (lộ) giác sương, đâu linh (lân), tố (tố) hinh hoa, tỏa (sở) dương, ngũ vị (vi) tử, kim (cẩn) kiều mạch, phòng (phòng) phong, nhẫn đông (đông), hậu (hầu) bổ, thác bàn (phán) cân, ngư (ngư) tinh thảo, thục (tốc) địa, đương quy (quy) (6).
“Cứ điểm tiết lộ, Lân Tố sở vi. Cẩn phòng Đông hầu, phán Ngư tốc quy”.
(Cứ điểm bị bại lộ, là do Lân Tố làm. Cẩn thận đề phòng Đông Bích hầu, mong Trầm Ngư mau quay về.)
Tay Khương Trầm Ngư khẽ run rẩy, một tờ giấy trong số đó rơi khỏi tay, liệng vòng rớt xuống mặt đất. Ánh mắt nàng dừng lại trên trang giấy dưới chân, mãi không thốt nên lời.
Nếu như nói, việc bọn mai phục trong cửa hiệu Sái gia là thủ hạ của Lân Tố đã đủ khiến người ta kinh ngạc, vậy thì câu thứ hai càng khiến nàng lạnh buốt đến tận tâm can.
Phụ thân bảo nàng… đề phòng Giang Vãn Y.
Giang Vãn Y.
Chính là người mỉm cười nói với nàng đừng sợ hãi khi nàng chìm trong cơn ác mộng, chính người trên danh nghĩa là sư huynh của nàng, chính là người mà nàng hao phí tâm sức tìm cách cứu…
Tại sao lại là hắn?
Nàng nhặt tờ danh sách lên, đọc đi đọc lại mấy lần, những mong tìm ra ý tứ thứ hai để bác bỏ kết quả này, thế nhưng, bút tích trước mắt vô cùng rõ ràng mà tàn nhẫn nhắc nhở nàng, những việc đã phát sinh trong mấy ngày nay: Ngày mùng một tháng sáu, Tây cung, Giang Vãn Y bị phát hiện đêm khuya xuất hiện trong tẩm cung của La quý phi;
Ngày mùng hai tháng sáu, khi Di Phi thẩm tra Giang Vãn Y và La phi, Lân Tố bất ngờ xuất hiện;
Ngày mùng ba tháng sáu, Di Phi nói với nàng đêm đó Giang Vãn Y gặp một người khác ở Tây cung, mà cùng ngày, nàng phát hiện cứ điểm của phụ thân bị tiêu diệt.
Bây giờ, ngày mùng bảy tháng sáu, phụ thân sai người báo cho nàng, phải đề phòng Giang Vãn Y…
Tại sao? Tại sao?
Lẽ nào người Giang Vãn Y gặp đêm đó là Lân Tố? Hắn đã tiết lộ thân phận của nàng cho Lân Tố? Vì thế Lân Tố bắt đầu triệt để điều tra kinh đô, tróc nã những quân cờ ngầm của Khương gia, lại đặt cạm bẫy đợi nàng chui đầu vào rọ? Thế nhưng chẳng phải nàng và Giang Vãn Y chung thuyền sao? Bán đứng nàng có lợi gì cho Giang Vãn Y? Tại sao phụ thân không nói rõ một chút? Tại sao trước mắt trùng trùng mây mù, không những không rõ ràng, ngược lại càng lúc càng mơ hồ?
Khương Trầm Ngư bắt đầu hồi tưởng hết thảy sự việc liên quan đến vị sư huynh trên danh nghĩa này: Hắn là con trai độc nhất của Giang Hoài, ba năm trước vì tranh chấp với phụ thân, bỏ nhà ra đi, lưu lạc nhân gian, trong ba năm, cứu người vô số, được dân chúng phong làm thần y. Sau đó, hắn đột nhiên quay về, trở thành môn khách của công tử, việc đầu tiên sau khi về kinh thành là trị bệnh cho Hy Hòa phu nhân. Hắn có y thuật tinh thâm, chữa đâu khỏi đó, vì thế Hy Hòa phu nhân mau chóng lành bệnh, Chiêu Doãn vô cùng vui mừng, lại tra ra Giang gia và Diệp gia là thân thích, cho nên để Hy Hòa phu nhân và hắn nhận tổ quy tông, phong thưởng tước hầu, lại phái đi sứ Trình quốc, chữa bệnh cho Trình vương.
Không sai, đó chính là lai lịch của Giang Vãn Y.
Là sư muội đồng hành, có quan hệ mật thiết với hắn, nàng còn thấy được nhiều hơn: Hắn tính tình ôn hòa, cực kỳ quan tâm người dưới, không hề kiêu ngạo.
Hắn cẩn thận chu đáo, luôn toàn tâm toàn lực quên ăn quên ngủ chữa bệnh cho người khác.
Hắn còn có một trái tim vô cùng dịu dàng, vô cùng từ bi, ôm hoài bão tế thế cứu người, không phân sang hèn, coi mọi người bệnh như nhau…
Một người như thế, một người như thế… nếu tất cả đều là giả tạo…
Thật là đáng sợ.
Khương Trầm Ngư nắm chặt hai tay, muốn kiềm chế bản thân giữ bình tĩnh, nhưng ngón tay nàng run mãi run mãi, không sao dừng lại được.
Bình tĩnh, bình tĩnh, đừng hoảng loạn, từ từ nghĩ, chắc chắn, chắc chắn có thứ gì bị bỏ qua hoặc quên mất, bình tĩnh nào, nghĩ kỹ xem, có thể làm được, nhất định có thể…
Nàng nhắm mắt, hít thở thật sâu, hít vào thở ra mười lần mới mở mắt. Hoài Cẩn lo lắng nhìn nàng, “Tiểu thư, tiểu thư không sao chứ?”.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư đậu trên tay Hoài Cẩn: “Trên cổ tay ngươi buộc cái gì đó?”.
Hoài Cẩn sững ra, giơ tay lên: “Tiểu thư nói sợi dây đỏ này à? Là năm ngoái em theo phu nhân đến Định Quốc tự lễ Phật xin được đấy”.
“Có thể tháo ra cho ta xem không?”.
Hoài Cẩn lập tức cởi sợi dây đỏ đó ra, Khương Trầm Ngư cầm lấy, tỉ mỉ xem xét, mấy sợi chỉ bện xoắn, xỏ qua ba hạt châu trắng một hạt châu đỏ, bện rất tinh xảo. Đôi mắt nàng từ đậm sang nhạt, lại từ nhạt sang đậm. Cứ thế sau một thời gian dài, nàng bỗng kêu lên thất thanh, trong mắt như có một ngọn lửa bùng lên, sáng rỡ lạ thường: “Hóa ra là thế!”.
“Tiểu thư! Cái gì là thế”.
Khương Trầm Ngư đứng dậy, vì kích động nên bước mấy bước về phía trước, lẩm bẩm: “Hóa ra là thế, thật sự là như thế sao?”.
“Tiểu thư?”.
Khương Trầm Ngư nắm chặt sợi dây đỏ, hôm nay là ngày mùng bảy tháng sáu, còn hai mươi hai ngày là đến sinh nhật Trình vương. Mệnh lệnh của Chiêu Doãn là đánh cắp bí mật và cưới được công chúa. Nhưng bây giờ xem ra tình huống rõ ràng trở nên phức tạp hơn rất nhiều.
Khương Trầm Ngư hạ rèm mi, còn hai mươi hai ngày… Ngoài cửa có người gõ cửa.
Hoài Cẩn mở cửa ra, thấy Lý Khánh khom mình bẩm: “Ngu cô nương, có thiếp mời gửi tới”.
Hoài Cẩn tò mò hỏi: “Ấy, trong cung lại thiết yến à?”.
Lý Khánh đáp: “Đúng là mời dự yến, nhưng không phải trong cung, mà là…”.
Lão còn chưa nói hết, Khương Trầm Ngư đã quay lại mỉm cười, tiếp lời với một vẻ điềm tĩnh như đã đoán trước được, nói: “Mà là Di Thù công chúa, đúng không?”.
Hoài Cẩn nhận thiếp mời, chỗ lạc khoản, trên trang giấy màu hồng đào quả nhiên viết hai chữ “Di Thù”.
Di Thù mời hai người là nàng và Phan Phương.
Vì được Trình vương bội phần sủng ái, cho nên vị công chúa này cũng có phủ đệ riêng như mấy vị ca ca, chỉ có điều, khi xe ngựa dừng lại ở cuối con ngõ nhỏ, phu xe nói trước mặt là phủ công chúa, Khương Trầm Ngư vẫn hơi ngạc nhiên một chút.
Một con ngõ rất bình thường, ngoài sạch sẽ và yên tĩnh hơn những con ngõ bình thường khác thì không có điểm nào đặc biệt cả.
Hai cánh cửa phủ sơn son, mép cửa còn bong sơn, vòng đồng sáng loáng.
Một lão già lưng gù dáng dấp như quản gia đang đứng trước bậc thềm khom lưng chờ đợi, thấy họ tới cũng không nhiều lời, hành lễ xong liền quay lưng lại dẫn đường.
Bước qua cánh cửa là một bức tường vẽ tranh màu, không phải là long phượng hoa cỏ thường thấy mà là hình Nữ Oa và Phục Hy đầu người thân rắn.
Qua thềm chắn gió, lọt vào tầm mắt là một khu vườn rộng rãi, sáng sủa, mấy gian nhà tre thấp thoáng giữa rừng sâu hồ biếc, hoa dại không biết tên nở đầy trước cửa, khiến người ta như lạc vào chốn nông gia, phong vị đồng quê dạt dào.
Tuy đều là những kiến trúc độc đáo, nhưng Di Thù và Di Phi không giống nhau, Di Phi ở một phủ đệ không làm người khác kinh ngạc không chịu thôi, còn Di Thù rõ ràng kín đáo, giản dị hơn nhiều.
Lão quản gia không dẫn họ vào trong nhà mà đi đến rừng trúc sau nhà, từ xa đã nghe thấy tiếng giao đấu và tiếng cổ cầm. Sau khi đi vòng qua căn nhà liền thấy trên khoảng đất trống ở hậu viện có bày mấy chiếc bàn ghế, một thiếu nữ ăn vận như tì nữ đang gảy đàn, cách đó vài trượng, hai người đang tỉ võ, một người dùng trường thương, một người dùng trường đao.
Không cần nói, người dùng thương chính là Di Thù, còn người dùng đao lại là Hàm Kỳ.
Hai người họ nếu nói là đang tỉ võ, chẳng thà nói là biểu diễn thì đúng hơn. Thương tới đao đi, mang theo tiết tấu tao nhã, hợp thành một thể với tiếng đàn, ánh trăng chiếu rọi lên hai người, trùm lên họ một màn ngân quang bàng bạc, phối hợp với binh khí vút lên xé gió, đánh rất đẹp mắt. Cho dù Khương Trầm Ngư không hiểu võ công, cũng cảm thấy cảnh tượng đẹp mắt, trong lòng khoan khoái. Nhất thời cao hứng, không kìm được bước đến vỗ vào vai người chơi đàn, ra dấu tay với nàng ta.
Thiếu nữ chơi đàn hiểu ý, im lặng đứng dậy nhường chỗ. Mà nàng ta vừa mới rời tay, Khương Trầm Ngư đã thay nàng ta đàn tiếp.
Dây rung, âm khởi, gió động.
Trong sân đao thương càng nhanh hơn, hồng bào áo đỏ tung bay phấp phới, phóng khoáng như nước chảy mây trôi.
Phan Phương im lặng chăm chú nhìn chiêu thức của hai người, bỗng mặt biến sắc, gần như trong cùng một giây, trường thương trong tay Di Thù bay khỏi tay, vạch một đường cong trong không trung rồi cắm phập xuống đất, thân thương không ngừng rung rung.
Khương Trầm Ngư vội dừng tay đứng dậy, nói gấp: “A Ngu nhất thời vui quá hóa vô lễ, đàn quả khích động, tội đáng muôn chết!”. Nói đoạn định quỳ xuống, nhưng bị Di Thù giơ tay ngăn lại.
Di Thù cười nói: “Là ta võ nghệ không bằng người, bị đánh rớt binh khí, may mà thương bay về phía bên kia, không làm các ngươi bị thương”.
Khương Trầm Ngư áy náy nhìn Hàm Kỳ, thấy hắn im lặng ngẩn nhìn trường đao trong tay, sau đó ngẩng đầu nhìn nàng.
Những tin đồn tai tiếng nhỏ nhen có thù tất báo liên quan đến người này bỗng dội lên trong đầu, sắc mặt Khương Trầm Ngư trở nên hơi nhợt nhạt, nhưng không ngờ Hàm Kỳ không hề giận dữ, chỉ lạnh nhạt nói: “Ngươi đàn khá lắm”.
Di Thù xùy một tiếng, nhếch môi hỏi: “Nhị hoàng huynh bắt đầu hiểu những chuyện phong hoa tuyết nguyệt này từ lúc nào vậy? Ngu cô nương đàn thế nào, huynh có nghe ra không?”.
Hàm Kỳ không thèm đếm xỉa đến lời châm chọc của nàng ta, dán mắt nhìn Trầm Ngư, hỏi: “Ngươi khỏi bệnh chưa?”.
Khương Trầm Ngư còn chưa kịp đáp lời, Di Thù lại cười ha ha: “Nhị hoàng huynh quan tâm người ta, luôn lo lắng cho bệnh của người ta”.
Khương Trầm Ngư nghe ra trong lời như có ẩn ý, có một cảm giác rất vi diệu, không kìm được khẽ chau mày. May mà Di Thù không lằng nhằng ở chủ đề này lâu, nói: “Thực ra vừa nãy ta và nhị hoàng huynh chỉ khởi động, chờ hai vị tới”.
Khương Trầm Ngư tỏ vẻ không hiểu.
Di Thù nói: “Nhị hoàng huynh nghe kể chuyện ta tỉ võ với Phan tướng quân xong, trong lòng ngứa ngáy không thôi, cũng muốn tỉ thí với tướng quân một phen”. Nói đoạn cười tươi roi rói.
Khương Trầm Ngư không khỏi nhớ tới Tần nương.
Trong ký ức của nàng, Tần nương chỉ có lúc kể chuyện mới tươi cười rạng rỡ, thần thái vui tươi, mà sau khi tiếng phách vang lên, câu chuyện kết thúc, vẻ mặt nàng lập tức ủ dột. Cho dù là đối diện với lời cầu thân của Phan Phương, giọng nói cũng vẫn nặng nề, không động thanh sắc.
Còn Di Thù lại khác. Di Thù hay cười hay nói, vẻ mặt không có một giây nào tĩnh lặng, mày liễu giương lên, khóe môi khép mở, trăm ngàn tư thế, hết mực phong tình.
Thực ra họ rất khác nhau.
Khi đã hiểu rõ điểm này, trong lòng Trầm Ngư khe khẽ thở dài, quay sang nhìn Phan Phương, Phan Phương đang đối mặt với Hàm Kỳ, Hàm Kỳ tuy đã hết sức kìm chế, nhưng đáy mắt vẫn lộ vẻ hưng phấn khó mà giấu giếm, kích động vì sắp được tỉ võ với một đối thủ như Phan Phương. Xem ra, vị hoàng tử này quả nhiên là một người cuồng võ.
Im lặng đối mặt một lúc, Hàm Kỳ giơ một tay lên, trầm giọng nói: “Mời chỉ giáo”.
Di Thù chạy đi nhổ cây trường thương cắm trên đất lên, ném về phía Phan Phương: “Phan tướng quân, dùng cây thương của ta đi!”.
Trước tình thế đó, Phan Phương đành giơ tay, đón lấy cây thương kia. Như vậy, y không đấu cũng phải đấu.
Khương Trầm Ngư nhìn y, lại nhìn Di Thù, trong mắt lóe lên một tia dị sắc nhưng không nói gì, chủ động lui lại vài bước, tránh đến lúc thí làm mình bị thương.
So với sự trấn tĩnh của nàng, Di Thù rõ ràng cực kỳ kích động, hét lớn: “Đem trống lên!”.
Hai tên thị vệ lập tức bê một chiếc trống da trâu cao bằng thân người tới, Di Thù đích thân cầm dùi, dùi thứ nhất gõ xuống, tựa như sấm rền; dùi thứ hai gõ xuống, mưa lớn sầm sập. Cùng với tiết tấu càng lúc càng nhanh, bầu không khí phấn khích ngút trời cũng đột nhiên như cuồng phong bạo vũ quét qua toàn bộ hậu viện.
Mà trong tiếng trống phấn khích đó, Hàm Kỳ vung đao.
Ngân quang như chớp, chỉ lóe lên một cái, lưỡi đao lạnh buốt đã tới trước mắt Phan Phương.
Phan Phương buộc phải lùi lại một bước, giơ thương đở đao. Y còn chưa đứng vững, đao thứ hai đã gấp rút đuổi tới.
“Hảo đao pháp!”, Di Thù hô to, đánh trống càng hăng hơn.
Khương Trầm Ngư đứng cách đó rất xa, nhìn cuộc tỉ võ đối với người hiểu võ mà nói là trăm năm mới gặp một lần này, trái tim từ từ chùng xuống.
Một giọng nói từ sâu thẳm trong nội tâm vang lên: “Ngăn lại đi…”.
Một giọng nói khác lập tức phản bác: “Không được”.
“Sẽ xảy ra chuyện, ngươi biết mà…”. “Đợi thêm chút nữa”.
“Không thể đợi được nữa, đến khi xảy ra chuyện thật thì tất cả đã muộn rồi!”.
“Không, đợi thêm chút nữa!”.
Hai giọng nói này càng nói càng nhanh, càng nói càng cuống, mà tiếng trống cũng càng lúc càng gấp, từng tiếng từng tiếng như gõ vào tim nàng. Khương Trầm Ngư không kìm được kêu lên một tiếng, đến bản thân cũng không hiểu nó nghĩa là gì, chính lúc đó, một đạo hàn quang từ xa bắn tới, ting một tiếng, không thiên không lệch, va đúng cán thương của Phan Phương, tay Phan Phương hơi run run, đầu thương đi lệch, sượt qua bên tai Hàm Kỳ.
Hai người lập tức dừng lại, một tia máu nhỏ trào ra trên má phải Hàm Kỳ, chảy rịn xuống dưới.
Phan Phương lập tức vứt trường thương, quỳ gối: “Tại hạ nhất thời bất cẩn, ngộ thương điện hạ, xin điện hạ thứ tội!”.
Sắc mặt Hàm Kỳ vô cùng, vô cùng khó coi, hắn đưa tay sờ mặt mình, nhìn thấy máu trên tay xong, mắt càng thêm u tối.
Di Thù đã ngừng gõ trống, quay người nhìn về một hướng, sắc mặt cũng không dễ coi, lạnh lùng nói: “Ta nói là ai, dám ngang nhiên can thiệp lúc nhị hoàng huynh và Phan tướng quân tỉ võ…”.
Một giọng cười nói: “Nếu như vừa nãy ta không ra tay, e rằng bây giờ nhị ca đã ngã lăn ra rồi. Muội nói xem, rốt cuộc ta có nên ra tay không?”.
Trên thế gian này có vô số điệu cười, nhưng chỉ có một điệu cười có thể thối tha, giảo hoạt, khiến người ta giận dữ đến mức hận không thể xông tới đá cho gã máy cước thật mạnh.
Đó chính là – điệu cười của Di Phi.
Khương Trầm Ngư quay đầu, quả nhiên Di Phi đã tới.
Ánh mắt Di Phi lướt qua nàng, ý cười càng đậm, bước chân không dừng, đi qua cúi người nhặt một chiếc nhẫn trên mặt đất lên, thổi bụi đất bám trên bề mặt, đeo lại vào ngón tay. Hóa ra, thứ đánh chệch trường thương của Phan Phương ban nãy chính là chiếc nhẫn của gã.
Khương Trầm Ngư trong lòng cả kinh. Tuy đã biết vị tam hoàng tử này không phải là hạng vô dụng, nhưng cho dù là tình báo của phụ thân cung cấp hay là trong tin tức lưu truyền của Trình quốc, đều nghe nói vị tam hoàng tử này không biết võ công. Thế nhưng, lúc này gã chỉ dùng một chiếc nhẫn đã có thể khiến hai người đang giao chiến kịch liệt dừng tay, công lực của gã thật là đáng s ợ!
Bây giờ gã không hề che giấu bí mật này là vì mục đích gì?
Phía bên kia, Di Thù sầm mặt nói: “Tam hoàng huynh có ý gì? Lẽ nào Phan tướng quân định hại nhị hoàng huynh?”.
“Quả thực Phan tướng quân vô tâm…”, Di Phi thản nhiên cười, “Chỉ có điều, lỗi lầm vô tâm mới là đáng sợ nhất… phải không nhị ca?”.
Hàm Kỳ vẫn đứng yên không nhúc nhích, tựa như không hề nghe thấy gã nói gì.
Di Phi lại lần nữa cúi người, nhặt trường thương lên, cầm bằng hai tay, đưa đến trước mặt Phan Phương: “Vừa nãy sự tình khẩn cấp, tự tiện xen vào cuộc tỉ thí của hai vị, mong tướng quân không trách”.
Phan Phương nhìn gã chăm chú, giơ tay nhận thương: “Đa tạ tam hoàng tử”. Di Thù bực bội hỏi: “Huynh không mời mà đến là có chuyện gì?”.
“Sao? Bây giờ muội muội trở nên quan trọng, thân phận cao quý, oai phong, đến phủ công chúa ta cũng không được đến sao?”. Di Phi châm chọc, khiến Di Thù mặt trắng bệch, giậm chân nói: “Ai nói với huynh như thế! Muội, muội… không thèm để ý huynh nữa…”, nói đoạn quay đầu bỏ đi, để lại một đám người đối mặt nhìn nhau.
Di Phi cũng không để tâm, đến trước bọn Khương Trầm Ngư cười nói: “Vừa nãy ta có ghé qua nhà bếp, đồ ăn chuẩn bị gần xong rồi, chúng ta đừng ở đây nữa, vào trong nhà dùng bữa thôi. Không phải ta nói chứ, phủ công chúa cái gì cũng rách nát, duy chỉ có đầu bếp là thượng đẳng”.
Gã hớn hở phơi phới, đổi khách thành chủ, mời mọi người bắt đầu yến tiệc.
Mà người hầu trong phủ hình như cũng không cảm thấy có gì không thỏa đáng, ngoan ngoãn nghe theo, đem mỹ tửu sơn hào hải vị, hết món này đến món khác lên. Tuy không khí quái dị, nhưng đúng như Di Phi nói, tài nghệ của đầu bếp thực sự xuất sắc, đặc biệt là món Ngũ Hầu Chinh, vào miệng là tan ra, tươi ngon đến mức dường như muốn nuốt luôn cả lưỡi. Khương Trầm Ngư ăn mấy miếng liền.
Vừa mới buông đũa, liền cảm thấy một cái nhìn bỏng rát, nàng quay đầu lại nhìn, Di Phi đang cười híp mắt nhìn nàng, nói: “Ngu cô nương khẩu vị không tồi, có thể thấy bệnh đã gần khỏi rồi”.
Khương Trầm Ngư cười nhạt: “Vẫn phải đa tạ thuốc của tam điện hạ”.
“Nếu nàng thích món Ngũ Hầu Chinh này, lát nữa còn món Phượng Xuyên Mẫu Đơn cũng rất có tiếng, có thể thử xem sao”. Vừa nói thức ăn liền bưng lên, Di Phi tự mình múc một bát, bê tới trước mặt nàng. Khương Trầm Ngư vội vã đứng dậy nhận bát, Di Phi bỗng bấm vào hai ngón tay nàng, mắt lóe sáng kỳ dị, nửa cười nửa không.
Khương Trầm Ngư vô thức muốn rút tay ra, nhưng lực độ trên ngón tay nhìn có vẻ nhẹ nhàng, nhưng lại cực kỳ mạnh mẽ, cho dù nàng dùng lực thế nào vẫn không hề nhúc nhích, đang lúc giằng co, một tay Di Phi bỗng nhẹ nhàng xoay lại, biến ra một đóa mẫu đơn, cài lên mái tóc nàng rồi mới thu tay, lùi lại mấy bước, ngắm kỹ rồi nói: “Danh hoa mỹ nhân, đúng là cùng nhau khoe sắc”.
Khương Trầm Ngư nhất thời không biết làm thế nào, nhìn xung quanh, Phan Phương, Hàm Kỳ và đám nô bộc có mặt đều đang nhìn nàng, chỉ có Phan Phương lộ vẻ kinh ngạc, Hàm Kỳ lại nhíu mày trầm tư, còn những kẻ khác không hề có chút biểu cảm nào.
Một buổi dạ yến lớn như thế lại yên tĩnh đến mức đáng sợ.
Nàng cắn môi, đứng im hồi lâu mới gượng gạo giơ tay, gỡ đóa mẫu đơn đó xuống. Mẫu đơn trong tay như còn ngậm sương, cũng không biết Di Phi tìm ở đâu ra, màu sắc cực kỳ tươi thắm, dưới ánh đèn, đỏ như máu tươi.
Bàn tay nàng từ từ xiết chặt, cánh hoa bị bóp nát trong lòng bàn tay, sau đó nàng ném mạnh một cái, trúng mặt Di Phi.
Không thèm xem mọi người phản ứng thế nào, Khương Trầm Ngư lập tức quay người rảo bước, khi đi ngang qua chỗ Phan Phương, chưa kịp mở miệng, Phan Phương đã chủ động đứng dậy đi theo.
Hai người cứ thế bỏ lại đám người sau lưng mà ra về. Dọc đường gặp mấy nô bộc, họ chỉ mải làm việc của mình, không hề ngăn cản.
Sau khi nhảy lên xe ngựa, Khương Trầm Ngư cuống quýt kêu: “Đến hoàng cung! Không, về dịch trạm! Không, vẫn nên đến hoàng cung… đợi đã…”, lời nói hoảng loạn, nàng tự biết mình thất thố, thở dài thườn thượt xong liền đưa tay bưng mặt.
Phan Phương trước sau vẫn im lặng nhìn nàng, bỗng ấn nhẹ lên mu bàn tay nàng: “Bình tĩnh”.
Vốn Khương Trầm Ngư đang cứng đờ người, bị y vỗ một cái, toàn thân run bắn, hơn nữa càng lúc càng run mạnh hơn, cuối cùng nàng buông tay xuống, ngước mắt lên đăm đăm nhìn y nói: “Phan tướng quân, chúng ta trốn mau”.
Phan Phương kinh ngạc.
Khương Trầm Ngư tóm chặt lấy tay y, nói gấp: “Chúng ta mau về dịch trạm, phái người đến hoàng cung thông báo cho sư huynh tập hợp ở bến cảng… Ôi không, không kịp nữa rồi!
“Chúng ta đến thẳng hoàng cung, đón sư huynh rồi đi, ngay lập tức! Ngay bây giờ!”.
Phan Phương trầm giọng hỏi: “Sao vậy? Trầm Ngư? Xảy ra chuyện gì?”.
Hết thảy nỗi sợ hãi thấp thỏm của Khương Trầm Ngư ngưng kết trong khoảnh khắc, sau đó nàng lộ vẻ hoang mang, ánh mắt nàng không có tiêu cự, dừng trên thành xe, thì thầm: “Canh hai đêm nay, Ngũ hầu khởi loạn, nếu chúng ta không muốn bị cuốn vào trong đó, chỉ có cách trốn…”.
Vừa nói đến đây, xe ngựa đang chạy đột ngột dừng lại, tuấn mã lồng lên, hí lên những tiếng chói tai.
Khương Trầm Ngư vội vã vén rèm, nhìn thấy cảnh tượng bên ngoài xong, sắc mặt tái mét: “Hỏng rồi, đã muộn rồi…”.
Phan Phương nhìn theo nàng, thấy cách đó ba mươi trượng, mấy ngàn binh sĩ đứng sừng sững ở đầu con phố.
Gió thổi qua, lá quân kỳ tung bay, trên lá cờ màu hoa hạnh thêu đồ đằng chín con rắn, một chữ lớn thêu bằng chỉ đỏ như máu nổi bần bật: “Tố”.
Vị tướng quân thân mang ngân tỏa khôi giáp, chừng ba chục tuổi quất ngựa đi tới trước xe, trầm giọng quát: “Xuống xe”.
Khương Trầm Ngư cắn răng, quả quyết mở toang cửa xe, nhìn hắn nói: “Đây là xe của sứ thần Bích quốc, tướng quân đường đột ngăn cản là vì cớ gì?”.
Nam tử đó mặt không cảm xúc, nói: “Nửa canh giờ trước, trong cung truyền tin Giang Vãn Y mất tích”.
“Sư huynh ta mất tích?”. Nàng sững sờ, lập tức hỏi lại: “Vậy tướng quân phải đến dịch quán tìm, sao lại cản đường chúng ta?”.
Nam tử kia lộ điệu cười châm biếm, cực kỳ lạnh lùng thâm hiểm nói: “Hơn nữa, hắn còn dẫn theo hoàng thượng cùng biến mất”.
“Cái gì?”. Khương Trầm Ngư và Phan Phương gần như đồng thanh kêu lên, đồng thời cùng nhìn thấy vẻ kinh ngạc sợ hãi trên gương mặt đối phương.
Bây giờ đúng là thiên hạ đại loạn…
Là bó tay chịu trói hay là gắng sức phản kháng? Trong giây lát, vô số ý nghĩ xuất hiện trong đầu Khương Trầm Ngư, vẫn còn chưa quyết định, chỉ nghe gió rít bên tai, Phan Phương ra tay nhanh như chớp, một tay bóp cổ tên tướng quân kia, lôi hắn từ trên ngựa vào trong xe.
Tên tướng quân đó kêu lên kinh hãi, ngay lập tức, Phan Phương điểm huyệt hắn, chỉ thấy hắn mặt mày sợ hãi, đỏ dựng lên, nhưng không nói được đến nửa l ời.
Hành động nhanh như điện xẹt, vừa bất ngờ vừa nhanh nhạy, vì thế, khi đội quân đứng chờ phía xa kia phản ứng lại, Phan Phương đã rút đao, kề vào cổ tướng quân nọ, lạnh lùng ra lệnh: “Các ngươi nhúc nhích, hắn chết”.
Mấy tên dẫn đầu còn lại chần chừ nhìn nhau.
Không đợi chúng chọn lựa, Phan Phương lệnh cho phu xe: “Quay đầu, về phủ công chúa”.
Phu xe sợ đến mức mặt cắt không còn giọt máu, vội vàng kéo dây cương, quay đầu xe. Ngựa vừa khua vó chạy, quân đội đã đuổi theo sau. Phan Phương đâm vào mông ngựa, tuấn mã bị đau, hí lên một tiếng rồi chạy như điên.
Thế nhưng, tốc độ xe ngựa không bì được với đơn kỵ(7), thấy khoảng cách càng lúc càng bị thu hẹp, tuy đối phương nhất thời sợ ném chuột vỡ bình, không dám bắn tên, nhưng cứ tiếp tục thế này sớm muộn gì cũng bị bao vây bắt sống. Khương Trầm Ngư nghĩ đến đây, hô lên: “Sư Tẩu!”.
Ám vệ từ dưới gầm xe nhô lên nửa người, tay trái vung lên, chỉ nghe một tiếng bịch, một vật nào đó rơi xuống đất nổ tung, khói vàng lan ra, che khuất tầm nhìn của đối phương.
Phan Phương chớp thời cơ quyết đoán vứt tên tướng quân đã bị điểm huyệt sang một bên, ôm Trầm Ngư nhảy qua cửa sổ, nhờ sự che giấu của màn khói mù mịt lăn dưới đất một vòng, rồi nhảy lên mái nhà bên cạnh đường, lại nhảy thêm mấy cái, trốn sau một mái nhà.
Xe ngựa vẫn lao về phía trước với tốc độ điên cuồng, khói dần tản đi, thiết kỵ tiếp tục truy đuổi. Cứ thế kẻ trước người sau chạy qua con phố dài.
Khương Trầm Ngư nấp trên mái nhà, nhìn thấy hết thảy, trong lòng dâng lên một cảm giác kỳ lạ. Không phải là sợ hãi nhưng hoang mang lạ lùng.
“Tiếp theo đi đâu?”. Phan Phương quay đầu khẽ hỏi, sau đó rút cánh tay đang ôm eo nàng lại.
Đi đâu?
Phủ công chúa tuy có Di Phi, nhưng bây giờ gã và Lân Tố như lửa với nước, hơn nữa, vừa nãy Di Phi để mặc nàng bỏ đi không ngăn cản, cho thấy muốn nàng tự nghĩ cách.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư hơi sầm xuống, mau chóng đưa ra quyết định: “Đến phố Hoa Tân”. Đi tìm Hách Dịch.
Phố Hoa Tân thuộc phạm vi thế lực của Nghi quốc, Hách Dịch xét cả về công lẫn về tư, đều sẽ không thấy chết không cứu, hơn nữa nơi đó là phố chợ, cũng dễ dàng ẩn náu.
Phan Phương gật đầu, nói: “Mạo phạm rồi”, lại lần nữa ôm nàng, nhảy khỏi mái nhà không một tiếng động, chạy thẳng về hướng phố Hoa Tân.
Khương Trầm Ngư không kìm được gọi: “Sư Tẩu?”.
Một giọng nói đáp lại: “Chủ nhân, có thuộc hạ”.
Rất tốt, hắn cũng đi theo. Khương Trầm Ngư bấy giờ mới an tâm, sau đó bắt đầu sắp xếp trong đầu một lần nữa tất cả các sự kiện. Đúng lúc đó, Phan Phương hỏi: “Làm sao nàng biết xảy ra chuyện? Là Di Phi ám hiệu cho nàng?”.
“Đúng.” Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ, nói: “Phan tướng quân, khi ngài và Hàm Kỳ tỉ võ, tiếng trống đó… rất cổ quái đúng không?”.
Phan Phương im lặng giây lát mới gật đầu: “Ừ. Tiếng trống có sát khí”.
Quả nhiên là thế…
Khương Trầm Ngư biết rõ tính cách Phan Phương, một cuộc tỉ võ cần thận trọng như thế tất phải nương tay vài phần, nhưng vừa nãy nếu không phải Di Phi xen vào, một thương đó có khả năng sẽ đâm trúng tim Hàm Kỳ, nghĩ đi nghĩ lại, chắc chắn là do tiếng trống kia giở trò, đến một người không hiểu võ công như nàng đứng bên nghe còn cảm thấy tim đập thình thịch, kích động vô cớ, huống hồ là Phan Phương thân trong trận chiến?
Như thế vấn đề là: Di Thù gõ trống là vô tình hay là cố ý?
Khương Trầm Ngư nheo mắt, căn bản không cần nghĩ cũng biết là cố ý!
Vị công chúa này nhìn có vẻ phóng khoáng hào sảng, không có chút thẹn thùng yểu điệu của tiểu nữ nhi, nhất cử nhất động đều chiếm thiện cảm của người khác. Nhưng, nếu nghĩ kỹ, từng hành động lại cực kỳ đáng sợ, có dụng ý sâu xa.
Đầu tiên, nàng ta lấy danh nghĩa tặng thuốc đến dịch trạm thăm Trầm Ngư, mục đích là tỉ võ với Phan Phương. Khi đó chỉ nói là một kẻ cuồng võ, nhưng giờ nghĩ lại, có lẽ nàng ta muốn thăm dò võ công của Phan Phương rốt cuộc ra sao, có đủ để giết Hàm Kỳ hay không.
Còn Phan Phương quả nhiên không phụ kỳ vọng, võ công vượt xa nàng ta, vì thế nàng ta mời họ đến phủ công chúa dự yến, sắp xếp Phan Phương tỉ võ với Hàm Kỳ.
Khương Trầm Ngư cảm thấy mình giống như một người mò mẫm tìm đường trong hầm tối quá lâu, cuối cùng đã nhìn thấy chút ánh sáng phía trước, vội vã mải miết suy nghĩ.
Trường thương trong tay Di Thù bay khỏi tay, vạch một đường cong trong không tung rồi cắm phập xuống đất, thân thương không ngừng rung rung.
Đây là điểm nghi vấn thứ nhất.
Khi đó, nàng thấy Hàm Kỳ và Di Thù đánh rất đẹp mắt, không kìm chế được tiến lên đích thân gảy đàn, nhưng tiếng đàn của nàng tuyệt đối không có sát khí, vì thế cũng không thể kích thích Hàm Kỳ hạ độc chiêu với Di Thù. Thế nhưng Di Thù đột nhiên bại trận, nàng ta đương nhiên không phải thua thực sự, mà là cố ý thua ca ca, để tiện ra mặt mời Phan Phương tỉ thí với Hàm Kỳ.
Nhìn từ một góc độ khác, nàng ta cố ý đấu với Hàm Kỳ một trận, dụng ý có lẽ là làm tiêu hao một phần sức lực của Hàm Kỳ, để hắn dễ dàng thua Phan Phương.
Cũng có nghĩa là nàng ta sắp đặt nhiều chuyện như thế, mục đích chỉ có một – giết Hàm Kỳ!
Mà sau khi Di Phi dùng nhẫn đánh chệch ngọn thương của Phan Phương, “sắc mặt Hàm Kỳ vô cùng, vô cùng khó coi, hắn giơ tay sờ lên mặt, thấy máu dính ở tay xong, ánh mắt càng tối sầm”.
Cùng là người học võ, Phan Phương nghe ra trong tiếng trống có sát khí, Hàm Kỳ sao có thể không nhận ra? Vì thế vẻ mặt của hắn mới trở nên u tối, thâm hiểm như thế. Khi đó còn cho rằng hắn giận dữ vì thua cuộc, bây giờ nghĩ lại, lúc ấy có lẽ là hắn phát hiện hóa ra muội muội muốn dồn mình vào chỗ chết.
Di Thù sắc mặt nhợt nhạt, giậm chân nói: “Ai nói với huynh những lời này!
Muội, muội… muội không thèm để ý đến huynh nữa!”.
Đây là điểm nghi vấn thứ hai!
Thân là chủ nhân, khi khách chưa đi mình đã đi trước, về tình về lý đều cực kỳ thất lễ. Hơn nữa Di Thù xưa nay phóng khoáng đại độ, sao lại có thể vì một câu châm biếm vặt vãnh của Di Phi mà nổi giận, dỗi hờn như thế? Có thể thấy, nổi giận chỉ là cái cớ, nguyên nhân thực sự chính là biết kế hoạch của mình thất bại, cho nên gấp rút rút lui, bày bố trận thế khác.
Lại liên hệ đến ám hiệu Ngũ Hầu Chinh, Phượng Xuyên Mẫu Đơn của Di Phi trong bữa tiệc, cùng với việc thiết kỵ của Lân Tố xuất hiện nhanh chóng một sự thực nổi lên vô cùng rõ ràng trong bóng tối – Di Thù và Lân Tố là đồng bọn!
Phan Phương sắc mặt trang nghiêm, nén giọng xuống thật khẽ, nói: “Loại sắt này chỉ có Quyển Nhĩ sơn ở Hồng Diệp Hương trong Bích quốc mới có, vì số lượng cực ít nên vô cùng quý hiếm, chỉ dùng để tiến cống, cấm mua bán trong dân gian”.
Không sai, thực ra khi Di Thù để lại mũi thương chế tạo bằng loại sắt hiếm đó, Khương Trầm Ngư đã nghĩ tới một khả năng: Sắt tiến cống không cho phép tự ý mua bán, hễ bị phát hiện sẽ là tội chết. Vì thế, cho dù có người tự mình tặng hoặc bán sắt cho Di Thù, Di Thù cũng tuyệt đối không ngang nhiên công khai phô diễn như thế. Như vậy, chỉ có một cách giải thích: Sắt này là Chiêu Doãn cấp cho nàng ta.
Chỉ có hoàng đế tự mình tặng sắt tiến cống cho người khác mới là chuyện hợp tình hợp lý.
Hôm đó Di Thù tỉ võ với Phan Phương, đánh gãy mũi thương, nhìn có vẻ vô tâm kỳ thực là hữu ý, nàng ta rõ ràng ngầm ra hiệu với họ: Nàng ta và Chiêu Doãn có một mối liên hệ đặc biệt nào đó.
Nhưng hai người bình sinh chưa từng gặp mặt sẽ có quan hệ gì?
Sau khi Khương Trầm Ngư nhìn thấy đội quân của Lân Tố nàng đã có đáp án: Hoàng tử mà Chiêu Doãn thực sự ủng hộ chính là Lân Tố. Vì thế, y mới tặng sắt quý cho Lân Tố. Nhưng Lân Tố không biết võ công, không có hứng thú với binh khí, cho nên tặng lại Di Thù.
Như thế, một sự việc khác cũng có được đáp án: Cứ điểm của phụ thân bị lục soát.
Là bà, nhưng không biết cháu mình rơi mất một chiếc giày, Là một quý phu nhân, nhưng có một đôi tay có vết chai, Là một người bán hàng, nhưng hoàn toàn không có kỹ năng chào mời, Ngoài mấy cửa hiệu thư họa, có hàng bán kẹo rong, cách đó mấy bước, còn có hai tên ăn mày lười biếng dựa tường sưởi nắng. Đủ mọi sơ hở hôm đó kỳ thực không phải là sơ hở thực sự rõ ràng là Lân Tố ra ám hiệu cho nàng, cứ điểm đã lộ, mau mau rời đi.
Cũng tức là Lân Tố và Chiêu Doãn âm thầm thông đồng, hai bên đạt được một hiệp định nào đó, Chiêu Doãn giúp y lên ngôi, còn y chiếu cố sứ thần Bích quốc trong phạm vi quyền hạn của mình.
Cho nên, khi họ bị ngăn cản bên ngoài hoàng cung, không được vào gặp Giang Vãn Y, xe ngựa của Lân Tố xuất hiện, không những không cản trở mà còn dẫn họ vào cung;
Cho nên, khi nàng đến cửa hiệu Sái gia, Lân Tố đã sắp xếp xong xuôi, bề ngoài như giăng bẫy bắt gián điệp, kỳ thực báo cho nàng mau rút đi, vì cứ điểm này đã bị các hoàng tử khác biết, vô cùng không an toàn;
Cho nên, khi nàng đổ bệnh, Lân Tố không những tự mình tặng thuốc, còn sai các quan viên khác cũng tặng thuốc theo, để tiện cho Khương Trọng báo tin cho nàng…
Từng hạt châu kỳ lạ nghĩ mãi không ra lúc trước bây giờ đều được xâu chuỗi lại với nhau.
“Yên tâm đi, ta biết bước tiếp theo phải làm thế nào”. Khi Giang Vãn Y nói câu này, tuy vẻ mặt còn hơi do dự nhưng ánh mắt vô cùng kiên định. Điều này làm nàng hơi kinh ngạc trong lòng một chút. Liệu có phải là mình đã nhiều chuyện không? Có lẽ, Giang Vãn Y đã tính toán ổn thỏa mỗi bước đi để đạt được một tình trạng nào đó, nhưng lại bị mình xen vào phá hoại?
Không sai, khi ấy nàng đã cảnh giác, chỉ là có lẽ sự việc vẫn chưa hoàn toàn phơi bày, có lẽ trong tiềm thức nàng không chịu tin, dù sau này phụ thân sai người mượn cớ tặng thuốc cảnh cáo nàng “đề phòng Vãn Y”, nàng vẫn không thể tưởng tượng: Tất cả mọi chuyện đều là Giang Vãn Y đứng sau thúc đẩy.
Hắn mới là quân cờ ngầm thực sự của Chiêu Doãn!
“Huynh cảm thấy mình quay lại là sai lầm sao?”.
Giang Vãn Y lắc đầu, “Không liên quan đến đúng hay sai, thị hay phi. Mà là ta phát hiện, có lúc cho dù ta chỉ đơn thuần muốn cứu một người, nhưng cuối cùng lại biến thành một sự việc vô cùng phức tạp”.
Ngày hôm đó nghe xong lời này chỉ cảm thấy bùi ngùi khôn xiết, vì tấm tình si chắc chắn không có hy vọng không có tương lai của hắn với Hy Hòa. Bây giờ ngẫm lại, rõ ràng có ý khác. Đáng tiếc, khi ấy bản thân lại hoàn toàn không liên tưởng đến phương diện đó.
Ai có thể ngờ được, một nam tử thoát tục như thế, tựa như gió thổi lướt qua cũng sẽ làm hắn vấy bẩn, lại chính là then chốt của cuộc tranh đua dục vọng quyền lực này?
Bản thân nàng tuy là gián điệp do hoàng đế chỉ định, nhưng trên thực tế, Chiêu Doãn không hoàn toàn tín nhiệm nàng, vì thế y không hề nhắc nửa lời chuyện về Lân Tố. Thế nhưng Giang Vãn Y thì khác, hắn là người duy nhất trong ba người biết được nội tình. Cho nên, ngày mùng một tháng sáu, Di Thù mượn danh nghĩa chữa bệnh cho phụ vương để giữ hắn lại trong cung.
Mà đêm đó, hắn lại đến chỗ ở của La quý phi, bí mật mưu sự.
Trong Tây cung, người đợi hắn không phải là La Tử, cũng không phải là Lân Tố, mà là Di Thù!
Bởi vì các hoàng tử đều có phủ đệ của riêng mình, ở lại trong cung sẽ gây ra dị nghị, nhưng công chúa thì khác, là con gái được sủng ái nhất của Trình vương, trong cung có nơi ở riêng của nàng ta, nhưng để tránh tai mắt, nàng ta lại chọn Tây cung làm nơi gặp mặt. Như thế, cho dù sự tình bại lộ, cũng có thể đổ tội cho La Tử.
Không may là đêm đó Trình vương đột nhiên tỉnh giấc truyền gọi người, cho nên cung nhân tìm mãi tìm mãi, liền tìm tới Tây cung.
Khi ấy đúng lúc gặp mặt Giang Vãn Y, nên Di Thù đương nhiên kinh sợ thất sắc, đành đổ tội cho La Tử, hẳn là nàng ta dùng cách ép buộc hoặc là dụ dỗ nào đó để khống chế La Tử.
Cho nên, kết quả cuối cùng là, cung nhân tiến vào Tây cung, nhìn thấy cảnh tượng Giang Vãn Y và La Tử áo quần xộc xệch…
Đợi đã!
Trong đầu lóe một tia sáng, lại một hạt châu nổi lên mặt nước: La quý phi nghẹn nào nói: “Ba tấc dưới thắt lưng của Ngọc Quan có một vết sẹo hình bán nguyệt, to bằng cái móng tay!”.
“Nếu ta nhớ không nhầm, La phi từng là a hoàn bên cạnh sư huynh ta?”.
Thuở nhỏ giúp Giang Vãn y thay áo tắm rửa, đã từng thấy cũng không phải là chuyện lạ.
La quý phi nghe xong lắc đầu: “Vết sẹo đó mới có, trước đó… chưa, chưa từng có…”.
Nếu đúng như lời La Tử nói, vết sẹo đó mới có… cũng có nghĩa là, đêm đó ở Tây cung, Giang Vãn Y thực sự bị người ta dùng móng tay cấu bị thương… Vậy là do ai?
Một tia u ám lướt qua đáy mắt Giang Vãn Y, tựa như nhớ lại điều gì, hắn cười lạnh lùng: “Mỹ nhân nàng ta còn chưa đủ tư cách, ngược lại bản lĩnh họa thủy…”. Nói đến đây, đột nhiên im lặng, thần sắc trở nên phức tạp.
A! Là Di Thù!
Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy trái tim đang nhảy nhót điên cuồng trong lồng ngực, tiếng nói của Giang Vãn Y dường như vẫn vang vọng bên tai nàng: “Họa thủy – họa thủy”.
Liên tưởng tới dáng vẻ của Di Thù, vẻ mặt gợi tình, đầy vẻ phong lưu của nàng ta, bộ dạng cau mày, giận dỗi của nàng ta đối với mấy ca ca… đều có một vẻ mờ ám khó nói. Lẽ nào… lẽ nào…
Mỹ nhân yên chi mã nổi danh khắp bốn nước này thực ra là một dâm phụ phóng đãng?
Và nàng ta thấy Giang Vãn Y phong cốt như ngọc, nên thử khêu gợi hắn, cho nên kéo áo, cấu cào làm hắn bị thương?
Điều này cũng giải thích tại sao khi cung nhân tìm đến Tây cung, nàng ta hoàn toàn không kịp bố trí lý do và cảnh tượng hợp lý hơn để giải thích tất cả những thứ hỗn loạn đó, đành vội vã đẩy La Tử ra thế mạng…
Thì ra là như thế! Thì ra là như thế!
Ngày mùng một tháng sáu, Di Thù giữ Giang Vãn Y qua đêm ở hoàng cung, hẹn hắn gặp mặt tại Tây cung, vốn để bàn chuyện Chiêu Doãn và Lân Tố, nhưng sau đó dục niệm khó kìm, ép hắn ngã xuống, đúng lúc đó, Trình vương tỉnh giấc, truyền gọi Giang Vãn Y, cung nhân tìm đến Tây cung, Di Thù hoảng loạn, đẩy La quý phi ra gánh tội, còn mình thì trốn đi.
Sau đó, nàng ta vội vàng đi tìm Lân Tỗ, thế là vào sáng sớm ngày mùng hai tháng sáu, Lân Tố đi xe ngựa vội vã đến hoàng cung, đưa bọn Khương Trầm Ngư đang bị thị vệ ngăn cản trước cửa cung cùng vào, nhìn bề ngoài thì là giám sát thẩm vấn, thực ra là quấy nhiễu, ngăn cản Di Phi tìm ra gốc rễ sự việc.
Khương Trầm Ngư dùng thuốc dịch dung, đổi trắng thay đen, lật đổ chứng cứ của La Tử, đưa Giang Vãn Y đi. Di Phi nhìn ra sơ hở, trong lòng hoài nghi, dứt khoát thuận nước đẩy thuyền, để họ rời khỏi hoàng cung, lại tìm cách khác tiếp tục điều tra.
Ngày mùng ba tháng sáu, Di Phi đoán ra người Giang Vãn Y gặp đêm đó là ca ca của mình, nhưng lại không thể chắc chắn, vì thế hẹn gặp Khương Trầm Ngư, yêu cầu nàng liên thủ, muốn mượn cơ hội lôi kéo Bích quốc.
Cùng ngày, cứ điểm của Khương Trọng không biết vì cớ gì bị Trình quốc phát hiện, Lân Tố biết tin xong cố ý sắp xếp lộ ra mấy sơ hở, ra ám hiệu cho người liên lạc của Bích quốc đi khỏi đó còn Khương Trầm Ngư không phụ kỳ vọng, nhìn ra sơ hở liền quay sang đi vào cửa hiệu bán đàn.
Khi về đến dịch trạm, Khương Trầm Ngư đổ bệnh, Lân Tố xúi giục bách quan hùa theo tặng thuốc.
Ngày mùng sáu tháng sáu, Di Thù đến tìm Phan Phương tỉ võ thua rồi để lại mũi thương, ám chỉ nàng ta là người được Bích quốc ủng hộ.
Ngày mùng bảy tháng sáu, Khương Trọng dùng tên các loại thảo dược báo cho Khương Trầm Ngư phải đề phòng Giang Vãn Y. Còn Di Thù cũng mời họ đến phủ công chúa, muốn mượn đao của Phan Phương giết Hàm Kỳ, không ngờ lại bị Di Phi ngăn cản.
Trên đây chính là toàn bộ quá trình sự việc xảy ra trong mấy ngày qua.
Dây chuyền sắp xâu chuỗi thành một vòng hoàn chỉnh.
Có điều còn vài điểm nghi vấn: Khi tới dáng điệu của Di Phi ung dung bình tĩnh rõ ràng trong lòng đã nắm chắc mọi việc hơn nữa còn báo cho Khương Trầm Ngữ biết tin “Ngũ Hầu sẽ làm loạn vào canh hai”, so với Di Thù và Lân Tố có Trình vương sủng ái, Bích quốc chống lưng, gã rốt cuộc nắm được thứ gì mới có thể không hề sợ hãi như thế?
“Nửa canh giờ trước, trong cung truyền tin Giang Vãn Y mất tích. Hơn nữa, hắn còn dẫn theo hoàng thượng cùng biến mất”.
Trong lòng Khương Trầm Ngư có phần chắc chắn, nếu như nàng đoán không sai, sở dĩ Di Phi bình tĩnh như vậy, chỉ có thể vì một nguyên nhân: Đó là gã đã khống chế Trình vương và Giang Vãn Y. Cũng tức là, gã nhân lúc Di Thù toàn tâm toàn lực mưu sát Hàm Kỳ, đột nhập vào trong cung, bí mật đưa Trình vương và Giang Vãn Y đi, sau đó lại ngang nhiên xuất hiện trong phủ công chúa.
Di Thù thấy gã xuất hiện, biết sự tình bại lộ, sau cơn thất sắc cả kinh liền lập tức mượn cớ rời đi, liên lạc với Lân Tố, vì thế phát hiện Trình vương và Giang Vãn Y đều biến mất, trong lúc bất đắc dĩ, đành phái người đi bắt nàng và Phan Phương, hòng khống chế Bích quốc. Chẳng ngờ họ lại trốn thoát theo các bước như vậy, bước tiếp theo chính là phát binh sớm hơn dự định.
Đến đây, sợi dây chuyền gồm ba viên bạch châu một viên hồng châu, kết nối tinh xảo, ăn khớp nhịp nhàng đã hoàn toàn thành hình trong đầu Khương Trầm Ngư, có thể thấy cảnh tượng huyết quang nổi lên tứ phía, các hạt châu không chịu nhường nhau, va đập vỡ vụn. Nàng không kìm được nhắm chặt mắt lại.
Mà đúng lúc này, Phan Phương hít vào một hơi.
Khương Trầm Ngư ở trong lòng y ngẩng đầu lên, liền thấy cách đó khoảng trăm trượng chính là phố Hoa Tân. Nhưng, giờ này phút này, mặt phố đã bị phong tỏa bởi đội quân đông nghìn nghịt.
Trái tim nàng liền chìm xuống – Hóa ra, Hách Dịch cũng không thể may mắn thoát được.
Một tảng đá to rơi xuống, làm nổi lên sóng lớn kinh trời, con sóng ấy ngày càng lan rộng, cho đến khi kéo tất cả những người ở đây vào trong nó, không ai tránh được, không thể trốn thoát…
Mình đã rơi sâu vào trong lốc xoáy, nếu như không tự cứu mình, tất sẽ bị vạ lây.
Nhưng tự cứu mình như thế nào?
Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, còn chưa định đoạt, Phan Phương đã đặt nàng xuống, thì thào: “Ta vào trong xem tình hình ra sao”.
Khương Trầm Ngư kinh sợ, đang định ngăn cản, đã thấy y lướt đi như ánh chớp, mau chóng biến mất trong màn đêm đen. Nàng cảm thấy có gì đó không ổn, cho dù nói thế nào, Phan Phương tuy võ công cao cường, nhưng là một viên tướng quân quen đường đường chính chính giao chiến với người khác, việc lén lút thám thính này hẳn không giỏi bằng Sư Tẩu, nhưng y đã đi rồi, không gọi lại được, đành như vậy thôi.
Đứng ở bên góc khuất cạnh một cửa hiệu, ở đây chất đống vô số hòm rương, nàng núp sau một chiếc hòm, chăm chú nhìn phía xa, lại ngó nghiêng tình hình xung quanh một lượt, xem ra cũng không an toàn lắm, bèn khẽ gọi: “Sư Tẩu?”.
“Chủ nhân, có thuộc hạ”. Chỉ nghe thấy tiếng mà không thấy người.
“Đợi lát nữa nếu như xảy ra đánh nhau, nơi này cũng rất nguy hiểm, ngươi có biết cách ẩn náu nào tốt không?”. Thân là ám vệ, hắn hẳn đã từng được huấn luyện về những trường hợp nguy hiểm như thế này?
Sư Tẩu im lặng suốt một thời gian rất dài.
Khương Trầm Ngư không nhịn được, sốt ruột truy vấn: “Sao? Không có ư?”.
“Có.” Ngừng lại một lát, trong giọng nói ẩn chứa rất nhiều áy náy, “Nhưng…
không hợp với chủ nhân”.
“Bởi vì ta không biết võ công?”.
“Tỉ như…”, Sư Tẩu ấp a ấp úng, “ẩn náu trong hố phân nhà xí”.
Khương Trầm Ngư liền thấy toát mồ hôi, phương pháp này đúng là rất tốt, nhưng cũng quá…
Sư Tẩu nói khẽ: “Để hoàn thành nhiệm vụ và giữ mạng sống, có rất nhiều phương pháp người thường khó mà chịu đựng nổi…”.
Khương Trầm Ngư nghĩ đến trên thế giới này còn có rất nhiều người giống như Sư Tẩu, từ khi sinh ra họ đã bị bí mật chọn lựa, đưa về ám bộ, chịu đủ mọi huấn luyện nghiêm khắc và tàn khốc, rất nhiều đứa trẻ không thể chịu đựng được đã chết yểu, số người có thể thực sự “học thành nghề”, trờ thành một ám vệ không đến một phần mười. Cái gọi là học thành nghề mới là khởi đầu của một số mệnh thực sự bi thảm, theo chủ nhân như hình với bóng, phục tùng mọi mệnh lệnh lúc nguy cấp còn phải lấy thân giúp chủ nhân đỡ đao cả kiếm… Tóm lại, họ sống một cách hoàn toàn không có cái tôi không hề có tôn nghiêm.
Đôi mắt nàng hơi ươn ướt, nhưng cũng hiểu rõ bây giờ không phải là lúc cảm động đồng tình, vì thế vội lau đi hơi nước nơi khóe mắt, nở nụ cười nói: “Ta có cách rồi!”.
“Dạ?”.
“Hố phân nhà xí dĩ nhiên là tốt, nhưng có một nơi khác cũng có có hiệu quả tốt tương tự”.
“Xin chủ nhân nói rõ”.
Rõ ràng biết đối phương rất có khả năng không nhìn thấy, nhưng Khương Trầm Ngư vẫn chớp mắt vẻ tinh nghịch, “Ao hồ”.
Trong đêm tối, sự tĩnh mịch bao trùm, rất lâu sau, mới có một giọng nói rất khẽ rất khẽ “ừ” một tiếng.
“Nối ống thân lau với nhau, người có thể trốn dưới nước, dùng ống lau để thở.” Giọng điệu Khương Trầm Ngư thay đổi, lại nói: “Có điều cách này chỉ là nhất thời, không giữ được lâu. Nhưng theo ta thấy, cuộc nổi loạn trong đêm nay chắc chắn sẽ phân thắng bại, chúng ta chỉ cần ở một đêm dưới đầm nước, đợi trận chiến có kết quả sẽ định đoạt bước tiếp theo”.
Nàng càng nghĩ càng cảm thấy cách này không tồi, hơn nữa cũng lờ mờ nhớ không xa có một đầm nước, ngày hôm đó nàng còn vứt hạt châu hoa tai có độc xuống đó. Việc không thể chậm trễ, nên mau chóng rời đi.
Khương Trầm Ngư rút một cây trâm ra, vạch lên hòm gỗ bốn chữ “Trầm Ngư Lạc Nhạn”, sau đó vẽ mấy dòng nước, phía dưới có một con cá, lại vẽ thêm một cây lau. Lát nữa Phan Phương quay về nhìn thấy, với trí tuệ của y đương nhiên sẽ dễ dàng đoán ra, “Trầm Ngư” là một từ hai nghĩa, ý chỉ nàng trốn dưới nước.
Làm xong tất cả những việc này, nàng gài lại trâm len đầu, đứng dậy định đi, nhưng đột nhiên nhìn thấy Sư Tẩu.
Đúng là vô cùng vô cùng đột nhiên nhìn thấy.
Trước mắt hoa lên, Sư Tẩu hiện ra giữa không trung, lao ra từ trong bóng tối.
Nàng còn không kịp kinh ngạc đã bị hắn ôm lấy, lăn một vòng, cùng lúc đó, mấy tiếng gió rít xé tai bay qua đỉnh đầu, nhìn kỹ, hóa ra là ba lưỡi phi đao!
Khương Trầm Ngư lập tức quay đầu, phía trước có bốn người không biết đến từ lúc nào, chúng mặc trang phục màu đen, che mặt bằng khăn đen, không giống quan binh thông thường.
Sát thủ!
Ngay tức khắc nàng rút ra kết luận này.
Nhưng, sát thủ do ai phái đến? Tại sao lại phải dồn nàng vào chỗ chết?
Khi nàng vẫn còn đang kinh ngạc hoảng hốt, Sư Tẩu đã phi thân, lao vào giao đấu với bọn chúng. Một tên áo đen trong đó nhân lúc ba tên còn lại bao vây Sư Tẩu, lao về phía nàng.
Sư Tẩu ba mặt chống địch, không thể lo được cho nàng, đành hét lên: “Chạy!”.
Khương Trầm Ngư lập tức quay người bỏ chạy, thế nhưng, nàng chỉ là một nữ tử yếu ớt không biết võ công, làm sao nhanh hơn tên áo đen được? Mới chạy được vài bước, dưới chân đã lảo đảo, ngã nhào xuống đất. Cùng lúc đó, tên áo đen cũng giơ tay tóm lấy cổ áo nàng, đang định cúi xuống, trước ngực bỗng lạnh toát, hắn cúi đầu, đã thấy một lưỡi chủy thủ cắm ngập tim, mà cán của lưỡi chủy thủ đó nằm trong tay Khương Trầm Ngư.
Hóa ra nàng tự biết mình không thể chạy thoát, nên cố ý giả vờ ngã, sau đó rút thanh chủy thủ giấu bên mình, lại thêm tên áo đen biết nàng không biết võ, sơ ý không phòng bị, liền bị nàng một nhát đâm trúng.
Nhưng rõ ràng người bị đâm là tên áo đen, nhưng vẻ mặt của Khương Trầm Ngư còn sợ hãi hơn cả hắn, sắc mặt trắng bệch ra, hai tay run lẩy bẩy, muốn nhổ lưỡi chủy thủ đó ra nhưng không sao đủ sức.
May mà lúc này Sư Tẩu đã tìm được cơ hội thoát khỏi ba tên kia, lao tới đạp tên áo đen kia ra, thuận tay rút lưỡi chủy thủ găm trên ngực hắn, máu tươi phun lên như suối, có mấy giọt bắn lên mặt Khương Trầm Ngư, nàng trợn mắt trừng trừng toàn thân cứng đờ.
Sư Tẩu biết đây là lần đầu tiên trong đời nàng giết người, thân tâm đều chịu đựng một nỗi chấn động tột độ, nhất thời không biết phải an ủi thế nào, lại thấy ánh mắt nàng lóe lên, tỉnh táo trở lại, hét: “Cẩn thận!”.
Phập.
Trường kiếm đâm toạc áo, lưng hắn đã bị thương.
Sư Tẩu cắn răng, quay người gạt lưỡi kiếm thứ hai, vừa quấn lấy ba tên áo đen, không cho chúng có cơ hội đến gần Khương Trầm Ngư, vừa hô: “Chạy!”.
Khương Trầm Ngư loạng choạng bò dậy, sấp ngửa chạy về phía trước, chạy được mấy bước lại dừng lại, quay người ngóng nhìn.
Sư Tẩu càng cuống hơn, hét: “Chạy đi”.
Khương Trầm Ngư nhếch khẽ môi, lộ nụ cười cứng ngắc rồi nói: “Không phải ta không muốn chạy, mà là… chân ta mềm nhũn, chạy không nổi…”.
Sư Tẩu trong lòng run lên, hoàn toàn không biết phải làm thế nào, mắt nhìn thấy ba tên kia chiêu chiêu hiểm hóc, đao đao chí mạng, xem ra chúng tuyệt đối không chừa đường sống cho hai người. Như thế, hắn cũng chỉ còn cách liều mạng chống đỡ, kéo dài được lúc nào hay lúc ấy. Vết thương trên lưng rách toác, máu tuôn không ngừng, trong tình hình này, hắn còn có thể chống đỡ bao lâu?
Nếu hắn thua, nữ tử đứng không xa ân cần quan sát đó chắc chắn sẽ chết.
Vừa nghĩ tới đây, lồng ngực trào dâng một cảm giác ấm nóng, động tác càng nhanh nhẹn, hiểm độc hơn, tay trái xoay một cái, tóm chặt cổ tay của một tên sát thủ, rồi “rắc” một tiếng, chớp mắt đã bẻ gãy xương tay của đối phương.
Khương Trầm Ngư im lặng đứng một bên, nhìn trận chiến sống còn liều mạng này, vô cùng hối hận vì sao mình không học võ. Nếu nàng biết võ công thì tốt rồi, ít nhất lúc quan trọng như thế này có thể hữu dụng một chút, không phải như bây giờ chỉ có thể đứng một bên trơ mắt nhìn, không làm được gì, còn liên lụy đến người khác.
Thông minh trí tuệ đầy đầu, nhưng giờ khắc này đây lại không có chỗ dùng.
Nếu như là quan binh, nàng còn có thể thử đàm phán với đối phương, ngã giá thương lượng, bởi vì thân phận nàng đặc biệt, lại giỏi thuyết khách, chắc chắn có thể hóa nguy thành an; thế nhưng, kẻ đến lại là sát thủ, rõ ràng muốn lấy mạng nàng. Rốt cuộc là ai? Là ai muốn giết nàng? Vì nguyên nhân gì mà phải giết nàng?
Thật không thể hiểu được…
Từ khi nào mình lại quan trọng đến mức trở thành cái gai trong mắt, cái dằm trong thịt của người nào đó, chỉ hận không trừ đi được?
“Rắc rắc!”.
Chân phải Sư Tẩu trúng một đạp, hắn ngã quỵ xuống đất, phát ra âm thanh xương gãy giòn giã.
Sau đó lại “phập” một tiếng, trường kiếm đâm thẳng vào vai trái hắn, máu tươi ộc ra xối xả, nhỏ xuống đất, nhức mắt kinh tâm.
Khương Trầm Ngư bất giác nắm chặt hai tay, mở to mắt nhìn cảnh tượng này – nhìn thuộc hạ của mình bị ba tên sát thủ dùng thủ đoạn tàn nhẫn nhất đồ sát như thế nào.
Cái chết của tên sát thủ kia dường như kích thích bọn chúng, bọn chúng không chỉ muốn lấy tính mạng của người khác mà còn cố ý lăng nhục, từng chút từng chút bẻ gãy tứ chi đối thủ. Võ công của Sư Tẩu tuy không tệ, nhưng hai tay khó địch sáu tay, chẳng bao lâu sau, toàn thân hắn đẫm máu, nhiều chỗ bị thương.
Phan tướng quân… Khương Trầm Ngư tuyệt vọng kêu gào trong lòng, ngươi mau quay về đi… Ông trời ơi, ai đó mau đến giúp nàng với! Cứu Sư Tẩu với. Mười lăm năm nay, lần đầu tiên nàng cảm thấy thân cô thế cô như thế này, tuyệt vọng như thế này. Có một người liều mạng vì nàng ngay trước mắt, còn nàng chỉ có thể trơ mắt ra nhìn!
“Khậc”, lại một tiếng xương gãy. Hai chân Sư Tẩu đã bị phế rồi, hắn quỳ dưới đất, rõ ràng đã không thể đứng dậy nổi, nhưng vẫn ưỡn thẳng lưng, điên cuồng huơ thanh chủy thủ hoàng đế ban cho Khương Trầm Ngư, không để đối phương có cơ hội rời khỏi đó.
Màn đêm nặng nề. Gió lạnh như dao.
Trong con ngõ nhỏ vắng lặng lại diễn ra màn địa ngục nhân gian tột cùng thảm khốc…
Hắn không nhìn thấy gì, máu tươi nhuộm đỏ tầm mắt, động tác cũng hoàn toàn biến thành sự giết chóc bản năng, đâm tiếp đâm nữa, hoàn toàn mặc kệ những bộ phận khác trên cơ thể đang chịu sự tấn công còn nghiêm trọng hơn.
Chỉ có một giọng nói, từng tiếng từng tiếng vang bên tai: “Sống tiếp!”. “Sống tiếp!”.
“Sư Tẩu, phải sống tiếp!”.
Hắn phải tiếp tục sống! Mà tiền đề của việc sống tiếp chính là – đảm bảo người nói với hắn câu đó cũng còn sống!
Đối diện với sự tấn công mạnh mẽ, liều mạng như thế của hắn, ba tên áo đen nhất thời cũng bó tay, không thoát thân được, đành dùng chiêu thức càng ác độc hơn giày vò hắn, thế nên đao quang sáng lóa, một cánh tay của Sư Tẩu rơi khỏi cơ thể lại một đao, một chân cũng lăn xuống mặt đất…
Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, đầu lưỡi nếm phải vị tanh mằn mặn, thầm nói với chính mình hết lần này đến lần khác bằng một giọng nói gần như tê dại: Ta thấy rồi. Ta đều thấy hết rồi… Ta sẽ ghi nhớ thảm cảnh máu thịt bầy nhầy, tứ chi đứt gãy này, ta sẽ ghi nhớ giọng nói tuyệt vọng, bi thảm, nhục nhã thảm khốc này, ta phải ghi nhớ tất cả mọi thứ, sau đó nếu lần này may mắn không chết, ta phải báo thù! Ta nhất định phải báo thù!
Khi một tên sát thủ áo đen dùng móc câu sắt đâm trúng mắt trái của Sư Tẩu, mà Sư Tẩu đã không còn sức để kêu lên, chỉ có thể phát ra tiếng rên rỉ mơ hồ từ trong cổ họng, Khương Trầm Ngư không thể nhìn tiếp được nữa, xông đến nắm chặt cán của móc sắt, thảm thiết kêu: “Một trăm vạn lượng! Ta mua tính mạng của hắn, một trăm vạn lượng!”.
Bọn sát thủ dừng lại, đưa mắt nhìn nhau, vì chúng bịt mặt nên không nhìn được vẻ mặt của chúng.
Khương Trầm Ngư gằn giọng: “Mặc kệ người thuê các ngươi là ai, cái hắn cần chẳng qua chỉ là mạng của ta. Mạng của ta cho các ngươi, các ngươi giữ lại mạng của hắn. Hắn chỉ là một tên vô danh tiểu tốt, ta dùng một trăm vạn lượng đổi lấy một mạng của hắn, một trăm vạn lượng này đủ cho ba người các ngươi sống cả đời! Cầu xin các ngươi…”.
Sư Tẩu trên mặt đất bắt đầu giãy giụa, dùng một cánh tay còn lại bấu lấy gấu váy nàng, sức giật giật. Thế nhưng, Khương Trầm Ngư không để ý đến hắn, chỉ chăm chăm nhìn bọn sát thủ, lạnh lùng nói: “Thế nào? Các ngươi giết người chẳng phải vì tiền sao. Một trăm vạn lượng! Tính mạng của một phế nhân”.
Kẻ trông có vẻ là thủ lĩnh cuối cùng mở miệng nói: “Ngươi đưa tiền cho bọn ta thế nào?”.
Khương Trầm Ngư lập tức lấy một miếng ngọc từ trong cổ áo ra, gỡ xuống đưa ra: “Các ngươi cầm miếng ngọc này đến Bích quốc tìm Vũ lâm quân kỵ đô úy Khương Hiếu Thành, y sẽ giao tiền cho các ngươi”.
Sát thủ cầm ngọc rồi lại nhìn nhau…
Khương Trầm Ngư vội nói: “Ta không cần phải lừa các ngươi. Hơn nữa, chỉ riêng miếng ngọc này đã có thể bán được không ít tiền. Các ngươi hẳn cũng biết giá trị của nó”.
Sát thủ trầm ngâm một lúc mới gật đầu: “Được”.
“Tuy ta không hiểu các ngươi, nhưng nghe nói mỗi nghề đều có quy định riêng, các ngươi nhận tiền của ta phải đảm bảo giữ lời, sau khi ta chết, lập tức đưa hắn tới y quán”.
“Được.”
Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, quay người, nhắm mắt nói: “Như thế…
các ngươi hãy lấy mạng ta đi”.
Nghe nói người sắp chết sẽ nhìn thấy cảnh tượng mình muốn thấy nhất.
Nàng thoáng nghĩ, vậy thì ta sẽ nhìn thấy gì?
Tại sao không nhìn thấy gì cả? Những người vẫn hằng nhớ nhung, mãi không thể quên đó, tại sao không đến cáo biệt?
Tiếng gió ào ào lướt qua bên tai, tiếp theo là một tiếng kêu thảm thiết, có người ngã xuống.
Khương Trầm Ngư ngạc nhiên mở choàng mắt, liền thấy một đạo hồng quang bay sát qua tóc của nàng, cùng lúc đó, một cỗ xe ngựa xuất hiện trong tầm mắt, phu xe một tay giữ dây cương, một tay còn lại vung lên, hồng quang lại lần nữa bay tới, đâm thẳng vào cổ một tên áo đen, đến kêu hắn cũng không kịp kêu, đầu đã lìa khỏi cổ, lăn lông lốc trên mặt đất.
Tên sát thủ còn lại thấy tình thế không ổn, đang định quay người bỏ chạy, hồng quang quấn lấy thắt lưng hắn, nhấc bổng cả người hắn ném lên không trung, rồi đập mạnh xuống mái nhà, chỉ nghe một tràng ầm ầm long trời lở đất, ngói lợp vỡ tan thành từng mảnh, căn nhà sụp mái, còn người đó rơi vào giữa nhà không rõ sống chết.
Mà lúc này, xe ngựa đã phi đến trước mặt, phu xe dùng dây thừng đỏ cuốn Sư Tẩu trên mặt đất lên, lại ôm Khương Trầm Ngư, nhét nàng vào trong thùng xe, nói một tiếng: “Đi!”.
Xe ngựa tiếp tục phóng về phía trước, ngoài ba thi thể trên mặt đất và một căn nhà đổ nát, dường như chưa từng có chuyện gì xảy ra.
Sự tình phát sinh quá đột ngột cũng quá mau chóng, vì thế, khi Khương Trầm Ngư nằm trên tấm thảm mềm mại trong xe ngựa, vẫn không thể hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Bốn tên sát thủ đó võ công đều khá cao, Sư Tẩu và chúng giao tranh hồi lâu mà không địch nổi, còn phu xe này lại chỉ trong giây lát đã có thể giải quyết gọn ghẽ ba tên: Người này có võ công đáng sợ đến nhường nào?
Hắn là ai?
Không đợi Khương Trầm Ngư nghĩ kỹ, tiếng rên rỉ đã kéo nàng trở lại trong xe, nàng cúi đầu, thấy Sư Tẩu toàn thân chi chít vết thương, nàng không còn để ý đến điều gì khác, vội vàng kiểm tra vết thương cho hắn.
May mà dọc đường cải trang làm dược nữ, ít nhiều đã học được một ít y thuật từ Giang Vãn Y, có thể băng bó vết thương.
Vì thế, nhìn thấy Sư Tẩu không ngừng chảy máu, bước đầu tiên cần làm là lập tức cầm máu.
Nàng vội vàng lấy một số thuốc từ trong người ra, cảm tạ trời đất, may mà có mang theo thuốc cầm máu, đáng tiếc bên người không có băng gạc, đành nhấc váy lên, xé vải ra băng bó cầm máu. Nhưng, vết thương của Sư Tẩu thực sự rất nặng, đặc biệt là chỗ tay và chân bị chặt đứt, vải vừa mới băng lại đã ngay tức khắc thấm đẫm máu, thuốc bôi lên cũng lập tức bị trôi đi, không sao cầm máu nổi…
Đang rầu rĩ vì không biết phải làm thế nào, hai ngón tay vươn tới, nhanh như chớp điểm mấy cái vào chỗ bị thương, máu lập tức chảy chậm lại.
Khương Trầm Ngư mừng rỡ, vội vàng nhân đó bôi thuốc lên, cẩn thận băng lại. Đợi đến khi làm xong mọi việc, nàng mới rảnh rỗi quay đầu lại, cảm ơn người vừa ra tay đó: “Đa…”.
Chữ “tạ” biến mất.
Cỗ xe ngựa vẫn phi như bay về phía trước, tiếng vó ngựa rầm rập, bánh xe lộc cộc, còn có tiếng vang rất lớn khi thiết kỵ đi qua. Thế nhưng, cỗ xe này dường như đang lao đi trong một không gian khác, cho dù bên ngoài xảy ra chuyện gì, cảnh tượng trong xe vẫn như ngưng lại.
Cho dù đèn xe rung rung lắc lắc;
Cho dù ánh sáng chiếu trên mặt người đó mờ mờ tỏ tỏ;
Cho dù một trận gió thổi tới, vén tung rèm xe, đem theo hơi lạnh ban đêm, Thế nhưng, tất cả những thứ đó đều đã không còn bất cứ ý nghĩa nào đối với Khương Trầm Ngư.
Đêm nay là đêm nao.
Vạn nước ngàn non, chân trời gang tấc, lại khiến người này xuất hiện trong giờ phút này.
Bỗng nhiên nước mắt Khương Trầm Ngư lăn xuống.
Trước đó, khi gặp sát thủ, nàng không hề khóc;
Lần đầu tiên trong đời giết người, nàng sợ muốn chết nhưng cũng không khóc;
Nhìn thấy Sư Tẩu bị những tên sát thủ đó tra tấn, giày vò từng chút từng chút một, nàng đau khổ không thể chịu nổi, nhưng cũng không khóc;
Thế mà bây giờ, khi tai qua nạn khỏi, khi nàng ngồi trong cỗ xe ngựa êm ái dễ chịu, bị ánh đèn như thủy tinh chiếu vào, lại chạm phải đôi mắt thanh u, trong vắt, thấu suốt như nước thu đó, nước mắt đã bất ngờ lăn xuống.
Đại Thiên thế giới, chúng sinh đông đúc, luôn có một người sẽ là tử huyệt.
Khi đối diện với chàng, không có cái gọi là lý trí, không có cái gọi là lý lẽ thông thường, không có cái gọi là hết thảy hết thảy những thứ khác, chỉ còn lại phản ứng tình cảm chân thực nhất.
Dịu dàng nhất cũng diễm lệ nhất.
Kiên cường nhất cũng yếu mềm nhất.
Trong ánh đèn loang lổ, người đó ngồi lặng lẽ, từ đầu đến cuối đều giữ một vẻ trầm lặng như thế, nhìn nàng bị vứt vào thùng xe một cách lếch thếch, nhìn nàng lo lắng khó xử, nhìn nàng xé váy làm băng gạc, nhìn nàng cởi áo, chạm vào da thịt một người đàn ông khác, nhìn nàng chân tay vụng về lóng ngóng không biết làm sao để xử lý cơ thể đầy vết thương trước mắt…
Chàng nhìn thấy mọi dáng vẻ chân thực của nàng…
Nghĩ đến điểm này, Khương Trầm Ngư vừa thẹn thùng vừa cuống quýt vừa lo sợ lại vừa xấu hổ, còn thấp thoáng một chút vui mừng, một chút bi thương, bao nhiêu cảm xúc đan xen với nhau, khiến nàng hoảng loạn vô cớ.
Nàng cụp mắt, nhìn chiếc váy bị xé rách của mình, đôi chân để trần lộ ra ngoài, nàng vội vàng rụt lại, dùng váy che đi.
Một chiếc áo khoác dường như vẫn còn mang hơi ấm của đối phương, nhẹ nhàng choàng lên vai nàng.
Nàng nắm chặt chiếc áo khoác đó, lại ngẩng đầu lên nhìn, nước mắt vẫn tuôn không ngừng.
Thế nên, người ấy lại đưa cho nàng chiếc khăn tay.
Cảnh tượng quen thuộc biết mấy, dường như khung cảnh rất lâu trước đây lại hiện ra trước mắt…
Ngày đó, trong hoàng cung, trên nền tuyết, chàng cũng lấy khăn tay ra, dùng tuyết làm ướt khăn, lau máu trên mặt nàng.
Mà phút giây này, cũng là một chiếc khăn trắng sạch sẽ, không có một chút hoa văn, cực kỳ nhã nhặn được đưa đến trước mặt nàng.
Nam tử đưa khăn có ánh mắt dịu dàng.
Mắt Khương Trầm Ngư càng đỏ hơn, một giọng nói vang lên trong lòng: Đừng khóc, đừng khóc, ta không thể khóc nữa, mất mặt quá, Trầm Ngư, mất mặt quá… Thế nhưng, không hiểu tại sao nàng không kìm được nước mắt, nước mắt cứ thế rơi xuống! Tại sao giơ tay lau, lau hoài lau mãi, mà nước mắt rơi càng nhanh hơn?
Làm thế nào đây? Làm thế nào đây? Làm thế nào đây?
Một tiếng gọi tựa như đã đè nén suốt ngàn năm, trắc trở bao lâu, nhưng cuối cùng vẫn đến bên bờ môi: “Công… tử…”.
Đêm nay là đêm nao?
Đêm nay là đêm nao?
Vạn nước ngàn non, chân trời gang tấc, là vận mệnh đáng sợ nhường nào khiến chàng xuất hiện trước mặt ta?
Công tử… của ta.
Chú thích
(1) Bảo bối trấn điếm (trấn điếm chi bảo) tức là món đồ quan trọng nhất của cửa tiệm, nếu không có nó tình hình cửa tiệm sẽ không ổn. Thường được người bán hàng chỉ món đồ có giá trị nhất, đặc sắc nhất cửa hiệu.
(2) “Hoạch lân” hay còn gọi là “Hoạch Lân Thao”: Nội dung căn cứ vào một câu chuyện trong “Xuân Thu tá truyện”: Thời Lỗ Ai công, có người bắt được một con lân, nhưng làm nó bị thương. Khổng Tử sau khi đến xem, cảm thấy bi thương, cho rằng loài động vật mang điềm lành này xuất hiện không gặp thời nên bị hại. Thực ra đó chính là tâm sự Khổng Tử liên hệ đến bản thân không được trọng dụng khi đó. Cầm phổ của “Hoạch Lân” xuất hiện sớm nhất trong phổ tập “Thần kỳ thần phổ”, (Chu Quyền biên soạn năm 1425), căn cứ vào phổ pháp và kết cấu nhạc khúc, có thể thấy rõ sự khác biệt với cầm khúc đời sau, nên có thể coi đây là một cầm khúc tương đối cổ.
(3) Tức Trường Giang và Hoàng Hà.
(4) Tức Chương Hoa là con đích của hoàng hậu.
(5) Chung linh dục tú: Đất thiêng hun đúc ra nhân tài.
(6) Dùng tên các loại thuốc để viết mật mã, tên các loại thuốc gồm ba chữ, truyền thông điệp có chữ phát âm tương tự chữ ở giữa.
(7) Đơn kỵ: Một người cưỡi một ngựa.