Số lần đọc/download: 0 / 26
Cập nhật: 2020-10-08 20:42:06 +0700
Chương 9
Qua hai lần cho sứ đi dụ hàng Đại Việt, chờ mãi không thấy hồi âm, chủ soái Ngột-lương-hợp-thai bèn triệu các tướng vào trong lều trướng thương nghị.
Ngoài các tướng của Mông Cổ, Ngột-lương-hợp-thai còn triệu cả Đoàn Hưng Trí cho được dự bàn.
Đoàn Hưng Trí nguyên là vua nước Đại Lý, sau khi bị người Mông Cổ đánh bại, đã nghe lời dụ ra hàng và quy thuận. Tới nay Đoàn Hưng Trí đã chiêu mộ được năm vạn quân gồm các dân man Thoán, Bặc đặt dưới quyền sai khiến của Ngột-lương-hợp-thai. Vì vậy, Trí được người Mông Cổ tin dùng.
Ngồi cạnh những tướng soái Mông Cổ lừng danh, Đoàn Hưng Trí cảm thấy mình chỉ là một kẻ bé mọn, lạc lõng. Nhưng nếu không núp bóng người Mông Cổ thì chẳng còn gì, kể cả tấm thân nhơ nhuốc.
Bắt đầu vào cuộc, Ngột-lương-hợp-thai nói:
- Đầu năm chúa thượng làm lễ tế cờ ở sông Khiếp Lỗ Liên, chia quân bốn mặt cùng tiến đánh nhà nam Tống. Đích thân chúa thượng đánh vào Hợp Châu và sai ta từ đây đánh vào Đại Việt để tập hậu quân Tống ở phía nam, rồi cùng hội quân với chủ tướng và chúa thượng ở Ngạc Châu. Ta muốn nhàn sức quân nên đã hai lần cho sứ đi dụ hàng Đại Việt. Tháng tám một sứ, tháng chín ta lại cử tiếp, nay đã sang tháng mười mà vẫn bặt tin tức là cớ làm sao. Vừa rồi chúa thượng sai sứ sang hỏi ta đã tiến binh đến đâu, ta cứ tình thực tâu về. Lại dò biết qua viên trung sứ thì quân Tống ở Ngạc Châu dám hỗn hào chống cự, nên đại binh còn vướng chân tại đó.
- Tại sao sứ đi không trở về? Ta muốn biết trước khi ta khởi binh. Ngột-lương-hợp-thai nhìn về phía Đoàn Hưng Trí gặng hỏi: - Hay là mấy kẻ dẫn đường lại không biết đường vào kinh đô Đại Việt đã đi lạc sang nẻo nào rồi?
Đoàn Hưng Trí tỏ ra bối rối, sau đó y nói:
- Tâu đại vương, những đứa thần sai đi đều là dân thương lái, chúng rành đường đi lối lại lắm. Đây chỉ có thể là người Đại Việt lập mưu giết sứ trên đường về.
- Thật vậy sao? Quân sâu bọ nào dám giết sứ của ta? Ngột-lương-hợp-thai nổi nóng bất thường khiến Đoàn Hưng Trí càng thêm rối trí.
Phò mã Hoài-đô (Qaidu) bèn lên tiếng:
- Đường từ đây tới Thăng Long kể hơn nghìn dặm, đường sá bất trắc, thời tiết bất thường, chưa lường được hết, thái sư hãy nán chờ xem sao, ta không tin Đại Việt dám cả gan giết sứ.
Triệt-triệt-đô (Cacakdu) cũng nói:
- Đại Việt nước nhỏ như cái bàn tay lại chỉ có một dúm người sao dám cưỡng mệnh.
- Nhưng ta không thể nán được nữa, chúa thượng vừa sai sứ đến giục tiến binh. Nhìn về phía vị tướng trẻ, Ngột-lương-hợp-thai hất hàm hỏi:
- A-truật (Aju) ý con thế nào?
Được cha hỏi, A-truật liền đáp:
- Thưa cha, nhà ta ba đời làm tướng, ơn trên sâu nặng, nay chúa thượng đang kỳ vọng nơi cha. Theo ý con, cha không nên chờ tin sứ nữa, cứ đem quân thẳng tới Thăng Long bắt lấy vua nó, chiếm lấy nước nó, việc dễ như trở bàn tay, sao cha còn phải nấn ná.
Thấy con trai nói “ba đời nhà ta làm tướng”, Ngột-lương-hợp-thai lấy làm hãnh diện. Bởi không chỉ là tướng thường mà còn là danh tướng bất hủ như tướng Tốc-bất-thai (Subutai) ông nội của A-truật đã từng theo Đại Hãn Thành-cát-tư-hãn (Jenjis Kan) đánh vào nước Nga-la-tư (nước Nga) từ năm Tân Tỵ (1221) đến năm Quý Mùi (1223). Sau đó lại được cùng đương kim chúa thượng tiến đánh Nga-la-tư một lần nữa vào các năm Ất Mùi (1235) và Bính Thân (1236) chinh phục hoàn toàn nước Nga-la-tư mênh mông và biến nó thành chư hầu của Mông Cổ, là thuộc quốc của Mông Cổ. Nay ta lại sắp nuốt chửng cả nước Trung Hoa mênh mông, thế mà nước Đại Việt chỉ bằng cái mắt muỗi kia lại dám kháng mệnh của chúa thượng ta sao. Nhà ta ba đời làm tướng, đại danh tướng, ơn chúa sâu dày, còn chờ gì nữa mà không làm cỏ Đại Việt. Nghĩ vậy, Ngột-lương-hợp-thai bèn nói:
- Các tướng hãy nghe lệnh đây: - Chuẩn bị năm ngàn quân kỵ, lương thực và cỏ ngựa đủ dùng trong sáu mươi ngày.
Quay về phía Đoàn Hưng Trí, Ngột-lương-hợp-thai nói:
- Ngài Ma-ha-la-sa[60] (Maharaja), ta đã tặng cho ngài tên đó. Vậy từ nay ngài phải coi mình là người Mông Cổ. Ngài có phận sự phải tận trung với nước mẹ Mông Cổ. Trong lần ra quân đánh Đại Việt này, trong số năm vạn quân Thoán-Bặc, ta cho ông tuyển lấy hai vạn cùng ta đi chinh phục. Ông phải tự lo lương thảo cho quân trong chín mươi ngày. Ông cần bao lâu để hoàn tất?
Đoàn Hưng Trí bối rối, bởi quân mới chiêu mộ, sao có thể đi trận ngay được. Hơn nữa lương thảo cho hai vạn quân với vài ngàn ngựa nữa đâu có thể kiếm ra trong mươi ngày được. Nhưng lại không được phép không tuân lệnh. Vì rằng ngài thái sư đây không nói hai lời, không cho phép người dưới quyền ngập ngừng khi nhận mệnh chứ đừng nói đến khước từ. Nghĩ vậy, Hưng Trí mạnh dạn nói:
- Về các điều thái sư nói, hạ cấp xin tuân mệnh. Quân có thể tập hợp trong mười ngày, lương thảo xin thái sư cho hai mươi ngày.
- Hai mươi ngày thì chậm mất của ta. Ngột-lương-hợp-thai hơi chau mày.
Phò mã Hoài-đô liền nói:
- Thái sư nên cho quân kỵ của ta dời xuống đóng tại A Mân[61] gần giáp biên thùy Đại Việt, vừa là nghe ngóng tình hình, vừa chờ Ma-ha-la-sa đưa quân tới sau. Vả lại từ đó ta có thể cho du binh vào thăm dò đất nó.
- Được! Ý của phò mã được đó. Ngột-lương-hợp-thai gật đầu. Lại nói: - Hôm nay là ngày cuối tháng mười, Triệt-triệt-đô lấy trước năm trăm quân kỵ tới A Mân lo chỗ đóng quân, mười ngày nữa ta cho đại quân qua, Ma-ha-la-sa phải đúng hẹn, nghe chưa.
Lại nói ở Thăng Long khi hai viên sứ thần Mông Cổ vừa được nhìn thấy nhau, chúng vội thét gọi nhau. Cũng là lúc người ta dẫn mỗi đứa đi về một phía. Từ đó, tinh thần chúng suy sụp hẳn. Thêm vào đó là hằng ngày vẫn phải ăn đói, bó gối ngồi trong gian phòng hẹp, có lính canh nghiêm cẩn. Và cái khổ của chúng là chỉ được ngửi các mùi xào nấu thơm đến thắt lòng, nhất là mùi rượu hâm nóng thơm đến cháy cổ họng, và cái bọn chết tiệt trong nhà công quán này nó ăn uống, nó cười, nó chạm chén chạm bát cứ lanh canh lách cách mà nó không đoái gì đến sứ của Đại Hãn. Lại hằng ngày chúng đem sữa ngựa đến uống ngay trước mặt ta. Ngửi thấy mùi sữa ngựa khiến ta chạnh nhớ thảo nguyên; nhớ đất mẹ bao la, đồng cỏ trải mênh mông tới tận chân trời và những đàn cừu xa trông như những đám mây trắng. Ôi, cái bọn quái quỷ này nó có phải là người không mà nó không biết sợ oai phong của Đại Hãn. Và nữa, nó sẽ cắt cổ mổ bụng ta lúc nào đây… Đại Hãn với binh uy rầm rập khắp gầm trời. Đánh Nga-la-tư sập đổ phải quy hàng. Đánh cả một triều đại nhà Kim và chôn vùi nó mất tiêu như ném một viên đá xuống bể bùn. Quân vừa kéo tới Đại Lý chưa kịp đánh, Đại Lý đã tan, vua nó phải quy hàng. Thế mà cái nước Đại Việt chỉ bằng chiếc bàn tay này, hai lần sứ đến đều bị nó tống giam. Sớm muộn nó cũng giết thôi. Hóa ra dưới gầm trời này vẫn có kẻ không sợ Đại Hãn và binh uy Mông Cổ.
Giữa lúc tinh thần sứ giả suy sụp, trạng nguyên Nguyễn Hiền tiếp riêng từng viên sứ. Thoạt đầu là cho chúng tắm nước lá thơm, cho mặc áo quần Đại Việt, và mời cơm thịnh soạn có rượu Thạch xương bồ hâm nóng, có thịt cừu và sữa ngựa cùng các đồ biển như tôm, cua, sò, ốc, hải sâm, bóng cá…
Nguyễn Hiền mời sứ ăn, hỏi chuyện gia đình vợ con, gợi lại tuổi thơ của sứ nhưng tuyệt nhiên không hỏi gì về cuộc đời chinh chiến của y cũng không hỏi sứ mệnh y vào Đại Việt làm gì. Cũng không đả động đến thái độ hống hách, vô lễ của sứ.
Cơm nước xong, Nguyễn Hiền dẫn sứ đi chơi ngoạn cảnh Thăng Long. Xem vườn hoa, cây cảnh, phố thị rồi dẫn y vào thăm chùa Nhất Trụ, chùa Sùng Khánh và tháp Báo Thiên, lại quành về thăm trường Quốc học viện, thăm Văn miếu thờ Khổng Tử. Đến đâu y cũng khen, nước ông đẹp quá, giàu quá, dân sống trong thanh bình yên ấm. Mặc cho y nói, Nguyễn Hiền cứ lặng thinh. Sau rốt ông lại đưa sứ vào nhà công quán, trao cho viên giám quản và bảo: “Lại nhốt nó vào chỗ cũ”.
Vừa trông thấy viên giám quản, sứ vội thét lên và chạy ra ôm lấy chân Nguyễn Hiền kêu cứu:
- Sao ông không hỏi chuyện ta đến đây làm gì. Ông tiếp ta như một thượng khách rồi lại giam ta như một tên tù sao. Ta sẵn sàng nói tất cả những gì các ông cần biết.
- Không cần ông nói, ta cũng biết cả rồi. Ông đến đây để lung lạc vua ta và chiêu hàng nước ta.
- Nhưng các ông đã được đọc điệp văn chiêu dụ của thái sư Ngột-lương-hợp-thai đâu?
- Không đọc nhưng ta biết rõ trong đó nói gì rồi.
- Vậy sao ông lại đối tốt với ta như vậy?
- Thông thường khách đến nước ta đều được đối xử rất trân trọng vì tục nước ta hiếu khách. Ta cho ông nếm thử phong tục nước ta để biết.
- Bây giờ ông lại định giam ta nữa sao, định giam sứ của Đại Hãn sao?
- Ông nhầm đấy, nước ta chỉ cầm bắt những kẻ ngạo mạn, coi thường dân ta, xúc phạm đến vua ta và phong tục nước ta, chứ chưa hề có chuyện giam sứ thần ngoại quốc.
Viên sứ giả trở nên biết điều, y nói:
- Quả thật ta không được biết nước ông lại ở vào tầng mức cao như thế này. Ta chỉ được chủ tướng sai đi và dặn bảo: “Phải tỏ rõ thiên uy cho các man quốc phải thần phục. Phải nạt nộ để vua nó sợ thì cả nước nó phải khiếp phục, khiến ta không đánh nó cũng phải quy thuận. Kẻ nào đi sứ mà làm nhụt nhuệ khí của Đại Hãn sẽ bị tội chém đầu”. Bởi vậy, ta chỉ làm những gì mà thái sư dạy bảo. Ai ngờ… Thôi được, ta cứ đưa tờ điệp văn này để ông về trình với quốc vương rồi thả cho ta về lại nước Đại Lý.
Nói xong y móc từ trong lằn áo nịt sát ngực, lôi ra một bao da trong đó có tờ điệp văn, đặt vào tay Nguyễn Hiền.
Nguyễn Hiền rụt tay lại và nói:
- Đúng ra ông phải quỳ xuống rồi hai tay nâng tờ điệp văn này trao cho quốc vương của ta. Đó là lễ luật của bang giao. Đằng này ông lại đòi quốc vương ta phải quỳ xuống để nhận điệp văn của một viên tướng của Mông-kha. Ông chỉ là một kẻ cưỡi ngựa bắn cung, còn ta là trạng nguyên, người giỏi chữ nhất của một nước tiếp ông, ông lại quay mặt đi. Các ông định đem nền văn hóa du mục áp đặt cho chúng ta, thật khó coi quá.
Viên sứ giả vừa xấu hổ vừa ân hận, y cố đặt tờ điệp văn vào tay Nguyễn Hiền và nói:
- Ta biết đã xúc phạm đến các ông, nhưng ta không thể làm khác được. Bởi làm khác đi, trở về, ta sẽ mất đầu.
Nguyễn Hiền miễn cưỡng nhận tờ điệp văn. Thực ra thì viên sứ kia đã nộp từ mấy bữa trước rồi, cho nên Nguyễn Hiền làm ra vẻ thờ ơ, bởi hai tờ điệp văn đều chung một nội dung ép hàng. Và cả hai viên sứ này đều là những con hổ có lá gan chuột nhắt y hệt nhau.
Trung tuần tháng mười một, lại một viên sứ Mông Cổ nữa tới Thăng Long và thái độ của tên này còn ngạo mạn hơn cả hai tên trước. Vua Thái tông không hỏi han gì nữa và sai nhốt chung cả ba tên lại với nhau, nhưng ban đêm thì phải trói chúng lại.
Vua xuống chiếu mở kho khí giới phát cho các đội điền binh. Nhà vua, Thái sư Trần Thủ Độ và Thái úy Trần Nhật Hiệu chia đi duyệt lại các sắc quân. Vua sai tướng Lê Tần đi kiểm xét các nơi hiểm yếu từ Thủy Vĩ đến Quy Hóa giang xuôi về ngã ba Bạch Hạc. Tướng Khuê Kình đi về phía ải Hà Dương rồi xuôi theo đường men sông rồi cũng về ngã ba Bạch Hạc. Hoàng thái tử Hoảng cùng với Công bộ thị lang Nguyễn Hiền đi dọc biên thùy với nhà nam Tống từ cửa Pha Lũy đến châu Vĩnh An.
Cả nước đang sôi sục khí thế kháng giặc giữ nước.
Bữa nọ phu nhân nói với thái sư:
- Cả nước tất bật lo đánh giặc, nhưng liệu quân ta có cản được nó từ biên ải không ông?
- Cái đó còn tùy sức giặc. Nếu giặc mạnh quá, ta chỉ đánh cầm chừng rồi dụ nó vào sâu đất mình mà đánh, tản mỏng nó ra thì điền binh, dân binh cũng có thể đánh được.
- Nếu giặc cứ vào sâu mãi, vào tới Thăng Long thì sao?
- Thăng Long thì phải quyết giữ chứ bà.
- Nhưng nếu sức giặc mạnh quá thì sao hả ông? – Phu nhân hỏi và có ý hơi nghi ngờ về sức mạnh của quân ta.
Thái sư Trần Thù Độ với vẻ điềm tĩnh vốn có lại đáp:
- Nếu sức giặc vẫn cường thì ta tạm nhường nó, luồn về sau nó mà đánh, chia cắt đường về của nó, quân nó đầu đuôi không ứng cứu nhau được ắt phải hoảng loạn mà bỏ chạy.
Nhìn phu nhân, Thái sư vuốt râu rồi nhón một khẩu trầu nhai bỏm bẻm. Lát sau ông lại nói:
- Bà phải bình tâm, phải tin vào triều đình, tin vào muôn dân. Nếu vạn nhất phải bỏ kinh thành lập trận tuyến để cản giặc, thời đó cũng là chuyện thường trong binh pháp. Bà nên biết, mất kinh thành không có nghĩa là mất nước. Nước chỉ mất khi vua tối, tôi hèn, lòng dân ly tán. Còn như từ vua, tôi cho chí muôn dân khắng khít một lòng giữ nước, dẫu thế giặc có mạnh, nước cũng không vì thế mà mất được. Tuy vậy, cuộc chiến sẽ rất cam go.
- Ông ạ, tôi mặc giả trang với mấy đứa hầu gái đi chợ. Nghe họ kháo nhau nước sắp có giặc, nhưng không thấy ai tỏ ra sợ hãi. Qua mấy phố, phố nào cũng thấy dân binh chăm chỉ tập tành lắm. Lại hôm vừa rồi ở quê có người lên thăm, khoe làng nào cũng có một đội điền binh, tập riết lắm. Mà bây giờ đi tập được nhà nước cho ăn, không phải đem gạo nhà đi nữa. Lòng dân phấn khích lắm.
Thái sư vui vẻ nói xen vào:
- Lòng dân như thế, triều đình như thế bà biết cả rồi đấy. Có gì mà phải lo, giặc đến thì đánh, nếu giặc không đến cũng là may, cũng là dịp đo lòng dân đối với nước.
- Ai chẳng biết vậy, có điều này tôi muốn nói, được thì ông để, không được cũng đừng chê tôi nhát.
- Việc gì bà nói thử xem.
- Cứ nghe ông nói thì chưa chắc quân ta đã đủ sức cản giặc từ biên thùy. Lại vạn nhất có khi cũng không thể cản được nó chiếm kinh thành. Vậy nên tôi muốn ông xin với nhà vua sai Phủ tông chinh[62] di bớt đồ thờ tự, ngọc phả đưa về Long Hưng[63], tránh khi giặc đến, cùng đường nó có thể đốt phá trả thù. Lại nữa con cái các vương gia, vương phủ trong tôn thất hoàng tộc cũng cho hết về Long Hưng. Thì đấy, mẹ nào con ấy, kể cả con trai cứ dưới tuổi hoàng nam là đi di tán hết, để trong kinh thành chỉ còn binh lính và dân binh. Ngay cả dân thường cũng cho họ di tán đi kẻo giặc tới nó tàn sát.
Đấy, tôi đàn bà cạn nghĩ, nếu sai ông đừng chấp.
Trần Thủ Độ sửng sốt về những điều phu nhân vừa nói. Ông khen:
- Đầu óc của bà thật là thông sáng. Đó là việc không chỉ nên làm, mà phải làm sớm. Giời ơi sao tôi không nghĩ ra nhỉ. Đúng rồi, đàn bà trẻ nhỏ di tản hết đi, để cho dân binh ở lại cùng binh lính rảnh tay đánh giặc. Hay! Kế của bà hay đấy.
- Gớm, ông cứ khen quá làm tôi ngượng. Chẳng qua tôi quẩn quanh bếp núc nên chỉ nghĩ được các việc nhỏ, còn đầu óc các ông thuần chứa những điều to lớn nên chẳng để tâm tới thôi. Nhưng ông bảo làm sớm là làm thế nào, tôi sao tự ý mà làm được.
- Để tôi tâu lên hoàng thượng. Khi hoàng thượng có dụ rồi bà phải đứng ra quán xuyến việc này chứ.
- Chẳng nhẽ tôi chỉ nói mà không làm sao, - phu nhân đáp.
Thái sư có vẻ băn khoăn hỏi lại:
- Thế bà đã dự tính số gia đình và số người phải di tán là bao nhiêu chưa? Tôi thấy đông đấy, có tới cả trăm nhà, cả nghìn người chứ không ít đâu. Chỗ ăn chỗ ở khó đấy.
Phu nhân cười xuê xoa:
- Ông khỏi lo, tôi đã trù liệu tất cả rồi. Chỗ ăn chỗ ở cho từng nhà tôi lo hết rồi. Thì đấy, cùng với việc mua sắm khí giới, tích trữ lương thực và nơi chốn di tán tôi làm cùng một lúc. Có chỗ thu xếp được thì mượn nhà, có chỗ phải dựng nhà mới. Tôi cũng chỉ làm loàng xoàng thôi, lúc về triều thì để lại đấy cho nhà chùa làm lớp học, hoặc chia cho các nhà nghèo. Chẳng hiểu tại sao khu mật viện chỉ biết có hai việc, còn việc này lại bỏ sót chưa tâu báo lên hoàng thượng.
- Đúng là trời cho bà xuống để dựng đế nghiệp cho nhà Trần, lo toan cho con cháu nhà Trần. Nhà vua biết việc này chắc khen bà cô lắm đây.
Phu nhân nguýt dài thái sư rồi nói giễu:
- Chú cháu ông suýt nữa thì ghép tôi vào tội tru di còn khen, khen cái nỗi gì.
- Bà chỉ được cái thù dai.
Vua Thái tông sau khi đi duyệt một vài chủng quân về, ngài thật sự hài lòng, liền vào cung Thủy Tĩnh thăm Thái sư.
- Bệ hạ vừa về chắc có tin vui? - Thái sư hỏi.
- Thưa chú vui lắm. Thế quân lên, thế nước cũng lên. Quốc dân đồng lòng kháng giặc.
- Thần cũng đi duyệt vài sắc quân. Ta thật hài lòng về các viên đô tướng dạy quân có kỷ cương lắm, kỹ xảo dùng các loại binh khí cũng thành thạo, mà cũng khéo nuôi quân, béo tốt, khỏe mạnh.
- Thưa chú Lê Tần về chưa ạ?
- Tần về rồi. Tần nói Quốc Tuấn lên trên đó cố kết được các đầu mục người man, lại đang cho tướng huấn dạy dân binh man. Nay mai nếu giặc vào cõi, chắc là người man sẽ phối với quân của Quốc Tuấn.
- Thế thì hay lắm. Cháu không ngờ Quốc Tuấn lại thu phục được người man nhanh thế.
- Từ lâu ta đã nói với bệ hạ: Quốc Tuấn sẽ là bậc kỳ tướng, bậc huân tướng, một cây cột trụ vững chắc của cả quốc gia này.
Bệ hạ còn được biết nhiều cái không ngờ nữa đấy. Thái sư nhìn vào hậu điện gọi phu nhân. Khi bà ra, ông mỉm cười nhìn nhà vua và thuật lại các dự định của bà.
Nhà vua cảm động ứa nước mắt, nói:
- Quốc mẫu tuổi cao, nhẽ ra phải được dưỡng nhàn, thế mà vẫn gắn mình với nước, lo cho nước, lo cho con cháu. Công của quốc mẫu lớn lắm. Cháu vui mừng thấy thế nước được hưng lên từ mỗi nhà, từ mỗi người. Quốc mẫu thật xứng là bậc mẫu nghi thiên hạ.
Phu nhân nghe nhà vua nói như nở ra từng khúc ruột. Bà vội cáo từ:
- Hai chú cháu ngồi đây mà bàn việc nước.
Bóng bà khuất sau hậu điện.
Giây lâu Thái tông lên tiếng:
- Chú à, cháu định đại duyệt toàn quân để dấy sức quân lên nữa.
- Bệ hạ chớ ham. Phải cấp tốc đưa quân lên trấn các nơi hiểm yếu ngay kẻo không kịp đâu. Giặc đã ba lần đưa sứ đi thuyết hàng mà không một đứa nào trở lại. Nhất định chúng sẽ khởi binh.
Đoàn Hưng Trí mà người Mông Cổ biệt đãi cho mang tên mới là Ma-ha-la-sa sau khi nhận mệnh của Ngột-lương-hợp-thai, y hết sức lo lắng. Đoàn Hưng Trí bèn triệu em ruột của mình là Tín-thư Nhật và người chú là Tín-thư Phúc. Ba chú cháu bàn đến nát nước về việc làm thế nào vơ vét được đủ số lương thực dùng trong sáu mươi ngày cho một đoàn quân hai vạn người mà trong hai mươi ngày nữa phải có mặt ở A Mân.
Viên phụ trách quân lương tính ra số lương thực cho mỗi người ăn trong sáu mươi ngày nặng gần gấp rưỡi trọng lượng của chính người đó. Vậy làm thế nào có thể chuyển vận được số lương thực kia theo đoàn quân viễn chinh. Ấy là chưa nói đến việc vận chuyển binh khí dự phòng. Và nếu có kỵ binh đi theo thì số lượng cỏ khô đem theo không phải là ít.
Tính ra bảo đảm được số lương thực cho đoàn quân hai vạn người đủ dùng trong sáu mươi ngày thì số lượng phu tải lương phải cần đến sẽ lên tới ba vạn người. Ấy là vận chuyển bằng xe. Mỗi xe có ba người, một người kéo hai người đẩy chở được số lương thực đủ dùng cho năm người.
Đoàn Hưng Trí giãy nảy người lên như đỉa phải vôi:
- Không thể được. Như thế có khác gì kéo cả một đội quân năm vạn người đi, và số lương thực sẽ tăng gần gấp ba lần số cần thiết cho hai vạn quân. Mãi nửa chiều, viên quan quân lương mới đệ trình một phương cách:
- Một là bắt buộc mỗi người lính phải luôn đem theo mình mười ngày lương thực. Hàng ngày người lính trích ra một phần mười số đó nộp cho nhà bếp, tối lại được kho cấp bù. Hai là ra khỏi biên cương ngày thứ nhất đã có thể cho một nghìn người quay trở lại. Và cứ thế ngày nào cũng có người quay trở lại và tới ngày thứ hai mươi chỉ cần giữ lại năm nghìn binh phu để làm các việc cần thiết. Ba là số kỵ binh, chủ tướng chỉ có thể đem theo bao nhiêu tùy ý, nhưng số ngựa cho kỵ binh thì không thể quá một nghìn con. Nhưng sẽ có hai nghìn con ngựa khác tham gia tải lương, tải cỏ. Khi vào trận, chủ tướng có thể dùng tạm số ngựa tải này làm ngựa chiến. Bởi lũ ngựa tải này cũng từ ngựa chiến thải ra theo cách chọn lựa của các tướng Mông Cổ, chứ thực ra chúng còn khỏe lắm.
Chú cháu, anh em nhà Đoàn Hưng Trí đã bàn xong công việc. Đoàn Hưng Trí sẽ đích thân cầm hai vạn quân viễn chinh Thoán, Bặc để phối với đại quân của thái sư Ngột-lương-hợp-thai. Người chú là Tín-thư Phúc sẽ là tướng tiên phong. Còn em trai của Trí là Tín-thư Nhật được tạm quyền coi giữ nước. Thực ra lúc này người Mông Cổ đã chia nước Đại Lý thành quận huyện của họ rồi. Đại Lý được phép cử các chức quan bên cạnh các quan Mông Cổ để tiện việc cho họ sai phái.
Chú cháu Đoàn Hưng Trí đưa đủ cả quân, lương tới A Mân đúng kỳ hạn, Ngột-lương-hợp-thai mừng lắm. Y ban lời khen ngợi vỗ về.
Sau ba lần cử sứ vào Đại Việt không thấy một người nào trở lại, Ngột-lương-hợp-thai không còn đủ kiên nhẫn nữa. Ông cho triệu các tướng đến hội.
Các tướng vừa an tọa xong, chủ tướng liền hỏi:
- Tríệt-triệt-đô, du binh của ngươi vào sâu đất Đại Việt được bao nhiêu dặm, có gặp cản ngại gì không, có thấy dấu hiệu khả nghi nào không?
- Tâu chủ tướng, ngày thứ nhất tiểu tướng cho quân đi vào sâu đất giặc năm dặm, đi tản về hai phía, mỗi phía chừng mười dặm nữa. Tuyệt nhiên không gặp sức chống cự nào, không gặp một người dân nào. Ngày thứ hai quân thám vào sâu hai chục dặm. Ngày thứ ba vào sâu ba chục dặm. Càng vào sâu rừng càng rậm rạp, đường đi càng khó khăn, vẫn không gặp quân nó, không gặp dân nó. Thấy nói dân nó ít lắm và nhát lắm. Có khi nghe danh đại vương, chúng nó chạy vào hang núi ẩn nấp hết rồi.
Bẩm, có lần tiểu tướng đã dẫn du binh vào sâu đất giặc tới năm chục dặm, nhưng quay lại ngay vì sợ giặc có mưu nhử quân ta. Tuy vậy, vẫn không thấy một dấu hiệu gì ở miền biên địa này có quân Đại Việt đồn trú. Còn dân chúng chỉ thấy loáng thoáng vài mái nhà nhỏ xíu nằm nép dưới rừng cây, tuyệt nhiên không thấy có bóng người đi lại.
Ngột-lương-hợp-thai nhìn tận đáy mắt viên tướng Tríệt-triệt-đô hỏi:
- Ngươi đã vào sâu đất giặc tới năm chục dặm, vậy chớ cảm nghĩ của ngươi về cái nước Đại Việt này thế nào?
- Thưa chủ tướng, cứ như sự suy đoán của tiểu tướng thì dân nước này còn man mọi lắm, vua nó cũng ngu lắm, không thể so với nước Đại Lý được.
- Vì sao ngươi nói vậy?
- Dạ là bởi nếu dân nó khôn thì nghe tiếng vó ngựa của quân ta tới, chúng phải kéo nhau ra đón chứ. Vua nó nghe danh thái sư, phải đem theo quần thần tới trướng xin quy hàng như ngài Ma-ha-la-sa đây mới là người trí chứ. Để làm gì à? Để dân nó không bị quân ta làm cỏ, kinh thành nước nó, mồ mả tổ tiên nó không bị quân ta biến thành gò hoang chứ sao.
- Phải! Ngươi nói phải. Thiên hạ còn lắm kẻ ngu, Đại Hãn mới phải cho quân đi chinh phục, đi khai sáng. Thôi được, ta sẽ bắt vua nó là Trần Nhật Cảnh về nướng trên lửa như nướng cừu. Ta sẽ đạp đổ thành Thăng Long và biến nó thành vùng đất chết. Các tướng nghe lệnh ta đây. Tất cả hãy nhìn vào chiếc bản đồ này. - Vừa nói Ngột-lương-hợp-thai vừa chỉ lên tấm bản đồ hình thể núi sông của Đại Việt to bằng chiếc chiếu đôi treo trên vách tường: - Đây là A Mân, là nơi ta đang đóng quân, sẽ thẳng theo đường này qua Mông Tự mà vào đất giặc. Đây là con sông[64], cứ men theo hai bờ tả hữu ngạn của sông tới đoạn này thì gặp nơi ba con sông[65] giao nhau rồi cứ men theo con sông này theo hướng đông nam mà vào Thăng Long. Chỉ tay về phía Đoàn Hưng Trí, Ngột-lương-hợp-thai nói:
- Ma-ha-la-sa, cứ theo Triệt-triệt-đô nói thì giặc sợ oai ta bỏ chạy hết rồi. Vậy ta cho ông đem quân đi tiên phong mà lập công. Vả lại quân ông chạy bộ đi chậm phải đi trước. Đi trước gặp giặc thì đánh, gặp suối sâu thì bắc cầu, gặp bất cứ vật gì cản trở thì hất nó đi, tức là quân tiên phong có trách phận mở đường cho đại quân ta khi xuất phát là không có gì cản trở trên đường đi. Ngày mai ông xuất binh; phải kiểm xét mọi thứ cho chu đáo trước khi xuất chinh.
Nhìn Đoàn Hưng Trí với vẻ cảm thông, Ngột-lương-hợp-thai lại nói: - Ta chỉ tiếc mùa này nước cạn, vì đã sắp sang tháng chạp, nếu không quân ông đi thuyền thì nhàn sức lắm. Thế nhưng mùa này khô ráo lại hợp với quân ta, cả người và ngựa đều hợp.
Quay về phía các tướng, Ngột-lương-hợp-thai nói:
- Ta sẽ đem theo ba vạn quân kỵ tinh nhuệ nhất cùng với hai vạn quân của Ma-ha-la-sa đánh vào Đại Việt.
Khi xuất chinh, Triệt-triệt-đô lĩnh ba nghìn quân làm đội tiên phong. Hậu quân do phò mã Hoài-đô và tướng A-truật, mỗi người lĩnh năm nghìn quân. Trung quân do ta thống suất với mười bảy nghìn quân còn lại.
Dò biết thế giặc mạnh, Quốc Tuấn bàn với các đầu mục Hà Khuất, Hà Bổng sẽ không cản trở quân của Đoàn Hưng Trí để nuôi vỗ lòng kiêu mạn của đám quân Mông Cổ. Chỉ dùng bẫy đá lưa thưa trên đường hành quân của kỵ binh Mông Cổ, và quân phục kích đánh tập hậu cũng chỉ dăm bảy người lách trong rừng rậm bắn hạ sát chúng xong liền rút sâu vào trong, giặc có tản ra hai bên sục tìm cũng không có đường cho người ngựa đi vào. Như vậy giặc chỉ nhận được cái chết bất ngờ mà không biết kẻ thù của chúng là ai. Và nữa dọc đường tiến quân của giặc, dân chúng sẽ di tản hết thóc lúa, trâu bò để vườn không nhà trống khiến giặc không kiếm được miếng gì gọi là lương thực, thực phẩm. Tất cả phải bảo toàn được lực lượng để nếu cần sẽ quay về xuôi đánh vào sau lưng nó, hoặc nếu giặc thua thì tiêu diệt nó trên đường tháo chạy.
Sau khi bàn bạc với Thái sư, nhà vua không đại duyệt toàn quân nữa mà đích thân Thái tông đưa quân đi lập phòng tuyến cản giặc. Thái sư ở lại cùng với quân Thiên thuộc và Củng thần cùng với cả mấy chục đô dân binh được trang bị khí giới đầy đủ để bảo vệ kinh thành. Hoàng thái tử Trần Hoảng và em là Trần Quang Khải cũng ở lại Thăng Long được Thái sư sai coi quân Thiên thuộc và Củng thần cùng các đô tướng.
Quốc mẫu đã đưa hết con cháu cùng gia quyến các nhà trong hoàng cung và hoàng tộc về Long Hưng từ sau khi có dụ của nhà vua. Phu nhân xếp cho đám nội nhân, nội thị và các cung tần ở ngay dinh cũ của đức Thái tổ (Trần Thừa) nơi làng Phù Ngự.
Thăng Long bỗng chốc trở nên vắng vẻ, hoang rỗng bởi dân chúng và cả các nhà buôn cũng đóng cửa để đi di tản. Các sắc quân nườm nượp di chuyển lên các phòng tuyến, nơi nhà vua bày trận cản giặc.
Bình Lệ Nguyên nơi xưa nay vẫn là một vùng quê yên ả, có đồng ruộng, có bãi bồi phù sa màu mỡ, đồng lúa và bãi ngô mướt một màu xanh nói lên sự trù phú, sự no đủ của dân quê quanh vùng. Xung quanh ruộng đồng và bờ bãi, xen kẽ những ngôi làng chìm sau những lũy tre xanh ngút ngàn tựa như những cánh rừng cô lẻ. Tuy vậy các làng quê, các cánh đồng và các bờ bãi kể cả dòng sông kia chỉ là những đốm loang lổ trong trùng điệp những cánh rừng nối rừng. Có nơi rừng cây còn lan tận mép sông. Thuở ấy rừng cây nhiều hơn đồng ruộng và muông thú tràn ngập bầu trời và rừng núi. Vua Thái tông đã kéo quân lên đây bày trận, nào voi chiến, ngựa chiến, máy bắn đá, quân thủy, quân bộ. Nhà vua đích thân làm tướng chỉ huy chiến trận. Tả hữu dực gồm hai viên thượng tướng dạn dày trận mạc như Lê Tần, Trần Khuê Kình và các đô tướng của các vệ tả, hữu thánh dực, tả hữu vũ vệ và các quân thiết kỵ luôn túc trực hộ giá.
Vua Thái tông mặc giáp trụ đen có giáp hộ tâm, đội mũ đâu mâu, bên sườn trái đeo thanh bảo kiếm, cưỡi ngựa sắc tía đi kiểm tra trận địa có tướng Lê Tần luôn theo sát.
Trận địa bày xong, khí thế ba quân hừng hực. Ngày mồng mười tháng chạp, quân ta đã sẵn sàng xung trận thì nhà vua nhận được thư cáo cấp của Quốc Tuấn.
“… Giặc đã vào cõi. Quân Thoán, Bặc đi đông như nước chảy. Quân kỵ Mông Cổ do đích thân thượng tướng thái sư Ngột-lương-hợp-thai cầm đầu và phò mã Hoài-đô lam phó tướng. Quân Mông Cô đã bị quân ta phục kích lẻ tẻ, thiệt hại không nhiều nhưng chúng rất hung hãn…”.
Ngày mười một du binh của Mông Cổ đã tới bến sông đối ngạn với Bình Lệ Nguyên bắn tên xuống sông thăm dò nông sâu rồi vội vã quay về thượng lưu.
Cũng từ ngày mười tháng chạp, hậu quân của ta ở hạ lưu do thái úy Trần Nhật Hiệu cầm đầu có các tướng Phạm Cụ Chích, Phú Lương hầu phụ tá đã bày xong trận.
Ba vạn quân Mông Cổ đã bỏ lại phía sau mấy vạn quân của Đoàn Hưng Trí và chiều ngày mười một tháng chạp năm Đinh Tỵ (1257) đã hội đủ bên tả ngạn, cách trận địa Bình Lệ Nguyên bên hữu ngạn của quân Trần năm mươi dặm hạ trại. Ngay tối hôm đó, Ngột-lương-hợp-thai hội chư tướng lại sai bảo:
- Quân Trần đã bày trận lớn ở Bình Lệ Nguyên phía hữu ngạn sông này, cách ta đóng năm chục dặm đường, tức là bằng ba khắc canh giờ ngựa chạy, đích thân Trần Nhật Cảnh[66] vua Đại Việt làm chủ trận. Vì vậy trận này ta không chỉ đánh tan tác quân Trần, mà còn phải bắt sống Trần Nhật Cảnh, khiến nước nó phải quy hàng như ta đã bắt sống Đoàn Hưng Trí. Sau đó cả Đại Việt và Đại Lý đều là hậu phương của ta để ta lấy sức người, sức của của chúng mà đánh vào sau lưng nhà nam Tống. Sứ mệnh các tướng trong trận này lớn lắm. Các tướng nhất nhất phải theo kế của ta, kẻ nào trái mệnh để cho quân giặc chạy thoát chớ trách ta vô tình.
Ngột-lương-hợp-thai ngừng lời nhìn xoáy vào các tướng. Phút im lặng nặng nề khiến không khí như đặc quánh lại. Lát sau Ngột-lương-hợp-thai nói dõng dạc mạch lạc từng tiếng một như người đếm:
- Triệt-triệt-đô nghe đây. Ngươi lĩnh năm nghìn quân đi xuôi về phía hạ lưu cách trận địa quân Trần mười lăm dặm, tìm cách cho quân vượt sông. Quân ngươi khi đã qua được sông chớ đánh vội. Hãy cứ ém quân chờ đó. Đối trận, ta sẽ vượt sông sang đánh vỗ mặt nó. Trong khi đó, phò mã Hoài-đô và tiểu tướng A-truật mỗi người lĩnh năm nghìn quân từ thượng lưu vượt sông đánh vòng sau lưng nó. Khi chúng phải ra sức chống đỡ mặt trước, mặt sau ngươi phải rình cướp lấy thuyền của quân nó. Ta đánh mạnh, quân Trần tan vỡ ắt phải chạy ra sông tìm đường trốn, khi ấy chúng không có thuyền trốn chạy nữa tất bị ta bắt sống.
Nói xong, Ngột-lương-hợp-thai lại nhìn các tướng một lần nữa và gặng hỏi:
- Các tướng đã nghe rõ mệnh ta chưa? Nếu rõ rồi thì về cho quân và cho ngựa ăn uống xong đi ngủ ngay. Giờ tý xuất binh.
Đêm yên tĩnh, gió bấc buốt lạnh, trăng sáng vằng vặc. Trận địa quân ta im phăng phắc chỉ nghe thấy tiếng voi đập tai đuổi muỗi, tiếng cú rúc và tiếng mang tác xa xa phía bìa rừng. Thỉnh thoảng còn nghe được cả tiếng chân ngựa đập móng nhè nhẹ xuống mặt đất, ấy là chúng đổi chân vì đứng mỏi.
Từ chiều, quân thám của ta đã về báo giặc tụ quân phía thượng lưu tả ngạn cách Bình Lệ Nguyên năm chục dặm. Vua Thái tông và các tướng đều nhận định: “Có thể đêm nay vào lúc trăng lu tức là cuối giờ sửu, lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng giặc sẽ vượt sông”.
Khoảng cuối giờ tý, quân thám của ta từ thượng lưu tế ngựa chạy về Bình Lệ Nguyên hối hả tâu vua:
- Tâu bệ hạ, kỵ binh giặc đang rầm rập tiến xuống hạ lưu.
- Ngươi có nhìn thấy giặc vượt sông sang hữu ngạn không?
- Tâu bệ hạ, giặc đi theo đường mòn dọc bờ tả ngạn chứ chưa thấy có dấu hiệu chúng sang sông.
Vua nói nhỏ với Lê Tần và Khuê Kình:
- Các khanh truyền cho quân nghỉ tại chỗ, cho phép họ uống nước hoặc đi ỉa đi đái, hút thuốc lào, cũng có thể ôm khí giới ngủ ngồi trong một khắc canh giờ cho đỡ căng thẳng, sau đó đánh thức họ dậy để sẵn sàng vào trận. Ta ngờ giặc sẽ sang sông vào đầu giờ dần. Bởi lúc đó trời đang mù. Vì vậy quân thám phải canh chừng hai đầu thượng hạ lưu, canh chừng sát mép nước. Phải vùi giặc xuống lòng sông. Phải đánh phủ đầu cho nó choáng váng.
Hai tướng nhận mệnh đi ngay lập tức.
Đúng như nhà vua nhận định, gần về sáng sương mù dày đặc, cách mươi bước chân đã không nhìn rõ mặt nhau. Đúng lúc ấy quân Mông Cổ ào ạt cho ngựa lội tràn qua sông.
Quân ta nổi kèn thúc trống bắn pháo thăng thiên và nhất loạt vãi tên độc từ các nỏ liên châu trên bành voi, trên mình ngựa và từ quân bộ khiến người ngựa quân giặc chết vô số kể. Giặc không hề nao núng vẫn nườm nượp sang sông. Những tên lính Mông Cổ thiện xạ vừa sang sông vừa nhằm bắn vào các nài voi, bắn thẳng vào những người lính trên bành voi. Khi sương vừa tan cũng là lúc giặc đã bám được vào mép sông. Chúng cho cả ngàn con ngựa xông thẳng vào đàn voi đang chắn phía trước như bức tường thành. Những con voi trận to lừng lững văng vòi ra quấn lấy cổ, lấy chân ngựa mà quật. Quân bộ của ta cung, tên giáo mác đứng phía sau voi bắn, đâm, xỉa, chém không để sót một tên giặc nào ngã ngựa. Giặc đánh từ giờ dần qua giờ tỵ vẫn không làm cho trận địa quân ta nao núng. Nhà vua sát cánh với các tướng căng sức ra đánh giặc. Tướng Lê Tần thúc ngựa ra vào trận địa giúp vua động viên quân sĩ.
Lúc này tướng giặc Triệt-triệt-đô đã đưa hết quân kỵ sang sông, chờ lâu sốt ruột, vả lại thấy sườn phải quân Trần có vẻ sơ sài, y bèn thúc ngựa vẫy quân xông lên áp sát quân ta. Hai bên kịch chiến rất căng, quân ta quân giặc đều chết nhưng giặc vẫn không chia cắt được trận địa quân ta.
Đúng lúc này phò mã Hoài-đô và viên tướng trẻ A-truật con trai của Ngột-lương-hợp-thai đã từ thượng lưu vượt sông sang đánh vào sườn trái quân ta.
A-truật công phá sườn trái, Hoài-đô vòng quân lại phía sau. Vậy là ba mặt quân ta đều thụ địch. Tuy nhiên giặc vẫn chưa phá được thế trận quân ta. Chỉ đến khi A-truật cho tập trung các cung thủ thiện xạ bắn tên độc vào mắt voi khiến voi hốt hoảng lùi lại. Khi đã có một vài con trúng thương quay đầu bỏ chạy thì cả đàn voi đều quay đầu. Thế trận của ta lúc này vỡ từng mảng.
Triệt-triệt-đô thừa thế cho quân xông vào trận địa. Thấy thế trận nao núng, viên đô tướng túc vệ Thượng đô khuyên vua: “Xin bệ hạ hãy lùi lại phía sau, lên cao quan sát, thu quân rồi lại đánh tiếp”. Giữa lúc ấy, Lê Tần dẫn kỵ đội đánh giãn vòng vây giặc đi tìm vua và xin nhà vua lên ngựa rút ra bến thuyền. Vua nói lại ý của viên đô tướng túc vệ. Lê Tần vừa giục vua lên ngựa vừa nói:“Bệ hạ phải coi xã tắc làm trọng. Đây là đánh giặc chứ không phải đánh bạc. Xin bệ hạ chớ nghe lời xui”.
Vua nghe quất ngựa đi liền, cả kỵ đội của Lê Tần theo sát hộ giá. Quân ta áp sát che chắn cho vua xuống thuyền. Lê Tần sai quân chèo gấp. Giặc đuổi theo bắn tên xuống như mưa. Lê Tần lấy sạp thuyền làm mộc che tên cho vua. Giặc không cướp được thuyền của quân ta và chúng cũng không có thuyền để đuổi. Cùng lúc đó, Trần Khánh Dư xuất kích đánh vào phía sau lưng địch. Vả lại quân bộ của ta vẫn còn kháng cự và vừa lúc các tướng Phạm Cụ Chích, Phú Lương hầu dẫn một đoàn thuyền lên tiếp ứng. Phạm Cụ Chích cản được quân giặc để thuyền vua xuôi mãi về bến Lãnh My. Hai quân kịch chiến, tướng Phạm Cụ Chích trúng tên độc nên thọ tử. Trời sập tối. Giặc không dám ham đuổi. Hai bên đều lui quân.
Vua rút về đến Phù Lỗ thu quân và lập phòng tuyến cản giặc. Vua sai phá cầu Phù Lỗ, trao việc cản giặc cho tướng Phú Lương hầu. Các tướng hộ giá vua xuống thuyền xuôi về Thăng Long.
Thái sư Trần Thủ Độ ra tận bến Đông Bộ Đầu[67] đón vua.
Vừa trông thấy thái sư vua vội nói:
- Giặc phá tan thế trận của ta rồi. Liệu có giữ được Thăng Long không chú? Vậy chớ phải làm thế nào đây? - Vua hỏi.
Trần Thủ Độ bình thản lấy tay sờ lên vành cổ đáp:
- Tâu bệ hạ, tạm thời không giữ được Thăng Long nhưng vẫn giữ được nước, nếu đầu thần còn chưa rơi thì bệ hạ khỏi lo. Hãy tạm thời lui về Thiên Mạc, thần đã sai thái úy đưa quân về đó chiều nay. Cả hai hoàng tử đều trở về Long Hưng, Thiên Trường để lấy thêm quân tiếp ứng. Về Thiên Mạc để lo kế đuổi giặc, xin bệ hạ kíp xuống thuyền kẻo quân giặc đuổi sắp tới nơi rồi. Vì rằng lực quân ta ở Phù Lỗ mỏng lắm, Phú Lương hầu sao cự nổi sức giặc đang cường.
Quan chưởng ấn từ trong điện Đại Minh chạy bộ ra bến may kịp lên theo thuyền vua. Vua hỏi:
- Ấn đâu, có mang theo không?
Chưởng ấn vội tâu:
- Ấn báu thần đã cất trên nóc đại điện, chỉ mang theo ấn nội mật để bệ hạ tiện dùng trên đường đánh giặc.
Quá nửa đêm thuyền ngự về đậu tại sông Thiên Mạc. Sớm ra, vua thấy quân đóng rải rác khắp bãi Mạn Trù. Phía xa thấy chiếc thuyền treo hiệu cờ Thái úy. Vua sai chèo thuyền ra gặp. Nom sắc diện Thái úy nhợt nhạt. Vua động lòng thương: “Chắc em ta vất vả đêm hôm đốc thúc quân sĩ nên kém ăn ít ngủ”. Vua bèn thuật chuyện quân ta đánh giặc hăng hái. “Giặc chết cũng nhiều. Nhưng sức giặc đang cường. Quân kỵ của chúng rất thiện xảo. Cuối cùng chúng liều đánh phá được thế trận của ta…”. Nói xong, vua hỏi:
- Thái úy có kế gì phá giặc giúp ta chăng?
Nhật Hiệu không đáp chỉ cúi xuống lấy ngón tay nhấp nước viết vào mạn thuyền hai chữ “Nhập Tống”[68].
Vua lại hỏi:
- Quân Tinh cương[69] đâu?
- Gọi không đến. - Thái úy nói giọng lí nhí.
Vua sai chèo thuyền về trại thái sư và triệu các tướng đến bàn kế đuổi giặc.
Lại nói trên vùng Quy Hóa có ba ngàn quân triều đình do Quốc Tuấn thống suất. Hai đầu lĩnh Hà Bổng, Hà Khuất mỗi người có một ngàn quân.
Cả hai vị đầu mục đều sẵn sàng chịu sự điều hành của Quốc Tuấn.
Tuy vậy Quốc Tuấn chỉ bàn phối hợp sao cho ăn ý, đánh được giặc mà quân ta ít bị thiệt hại. Và từ sau khi đánh bẫy đá, đánh phục vào những tên giặc đi sau cùng, cộng tất cả giết được hơn ba chục tên Mông Cổ và hơn hai chục con ngựa, bên ta không mất người nào khiến cả hai đầu lĩnh và quân của họ hết đỗi vui mừng vừa tin vào tài thao lược của tướng triều đình vừa không sợ quân kỵ Mông Cổ nữa.
Đội quân kỵ do tướng Ngột-lương-hợp-thai dẫn đầu bỏ lại đám quân ô hợp của Đoàn Hưng Trí gồm hai vạn binh và ba vạn phu cứ ì ạch ngày đi đêm nghỉ trong cái thế giới của rừng rậm âm u.
Không bỏ lỡ cơ hội, Quốc Tuấn bàn với hai vị đầu lĩnh chặn quân tiếp lương lại đánh. Tiếp lương là những điền tốt bị cưỡng bức đi tải lương cho quân, vừa mang vác nặng vừa không có khí giới nên bị đánh là chúng xin hàng ngay. Quân ta gom hết lương của giặc lại đốt rồi trói tay chúng thành một dây dài cứ mỗi dây ba chục đứa đuổi quay lại đất Đại Lý và đe: “Nếu lần sau bắt được sẽ chém đầu”. Lũ giặc van lạy rối rít hứa không dám theo quân đi nữa.
Về tới nước, bọn này rủ nhau đi trốn không ở lại quê hương.
Đoàn Hưng Trí từ khi bị quân ta diệt quân tải lương, đốt hết lương thực, nguồn tiếp tế bị chặn, lòng quân sinh rối. Trí muốn tiến quân theo kịp với tiền quân của Ngột-lương-hợp-thai phần lo bị đánh chặn, mà thực tế quân của Trí đã nhiều lần bị chặn đánh. Quân Thoán, Bặc ít được tập tành, chưa quen chiến trận, cứ hễ gặp đối phương phục kích hoặc chặn đánh là bỏ chạy tan tác. Phần khác Trí còn lo hơn, giả như cố liều chết cướp đường mà đi thì lấy lương thực đâu cho quân ăn hằng ngày. Cái kế của viên quan quân lương tưởng hay mà hóa dở, thế mới có tin đồn gặp giặc là chúng đã trút lương để cho nhẹ thân tháo chạy. Bởi vậy số lương thực bị vứt bỏ dọc đường cũng không phải là ít.
Đoàn Hưng Trí rối lòng bèn triệu tướng tiên phong Tín-thư Phúc là chú họ vào trướng nội để bàn việc quân. Vừa an tọa, Trí hỏi:
- Tình thế rối bời, tiến thoái lưỡng nan, ý chú thế nào?
Tín-thư Phúc hỏi lại:
- Đại vương có biết quân của thái sư hiện giờ ở đâu không? Đã vào lọt trong đất Đại Việt chưa hay cũng như quân ta đang giẫm chân tại chỗ?
- Không có tin tức gì hết. Chỉ biết lúc vượt qua quân ta, thái sư có dụ rằng: “Phải tiến nhanh để theo kịp quân kỵ, tương hỗ mặt hậu để thái sư rảnh tay tiến vào Thăng Long bắt sống vua Trần”.
Tín-thư Phúc lắc đầu nói:
- Chính là quân mình phải dựa vào quân kỵ của thái sư để lấy cái oai hùm sói. Nay thái sư độc dẫn quân kỵ đi xa, quân ta như rắn không đầu khiến quân Việt coi thường đánh ta bất kể lúc nào. Quân ta tuy đông nhưng không có sức giao đấu.
- Vì sao vậy? - Đoàn Hưng Trí hỏi.
- Bởi thiếu mất mấy thứ cần yếu mà một đội quân phải có. Một là lòng cương dũng. Hai là kỹ xảo sử dụng các loại binh khí hiện có trong tay. Ba là vì ai, vì mục đích và quyền lợi gì mà người lính phải dấn thân vào nơi nguy họa. Ba điều đó chúng ta đều khiếm khuyết cả, nên mỗi bước đi như có cả ngàn cân đá đeo nặng dưới chân. Ngay đại vương cũng thế thôi, thử hỏi cuộc viễn chinh này đại vương có thấy thích thú hay bị cưỡng bức ra đi?
- Nhưng ta muốn hỏi, ông vừa là tướng tiên phong vừa là thúc phụ của ta, làm thế nào để quân ta thoát ra được tình thế bi thiết này?
- Khó lắm! Tín-thư Phúc lắc đầu. Tiến lên thì vừa chết đói, vừa bị quân Việt đón đánh. Chết nhưng biết có còn ai sống sót mà theo được đám kỵ binh đi nhanh như gió kia. Lui, tức quay lại nước Đại Lý may còn cứu sống được một ít sinh linh, nhưng đầu của đại vương và của ta chắc thái sư và người Mông Cổ không để cho nó nằm yên trên cổ đâu.
Lại nói quân Mông Cổ tuy có phá vỡ được mặt trận Bình Lệ Nguyên, nhưng không bắt sống được vua nhà Trần khiến Ngột-lương-hợp-thai cả giận thét: Kẻ làm tướng mà không nghiêm lệnh trên để hại cho binh uy ắt không thể tha thứ.
Biết Ngột-lương-hợp-thai không tha thứ, tướng Triệt-triệt-đô bèn uống thuốc độc tự tử.
Sớm hôm sau kỵ binh Mông Cổ thẳng đường tiến về Phù Lỗ thấy cầu đã bị phá sập. Giặc tìm cách vượt sông và mau chóng đánh tan phòng tuyến của quân ta, tôn thất Phú Lương hầu tử trận. Quân ta mau chóng rút theo sông Cà Lồ ra sông Cái rồi xuôi về bến Đông Bộ Đầu. Tới lúc này thì không sức gì cản được kỵ binh Mông Cổ tiến về Thăng Long theo đường thiên lý.
Ngột-lương-hợp-thai dẫn quân vào Thăng Long thấy một tòa thành với những cung điện lâu đài nguy nga tráng lệ nhưng trống rỗng, cả phố xá cũng vắng tanh vắng ngắt không một bóng người, kiếm tìm ra được thứ gì ăn uống ở đây không phải là dễ.
Quân Mông Cổ sục sạo khắp các nơi, sau tới nhà công quán, chúng tìm thấy ba tên sứ giả được cử vào thuyết hàng Đại Việt từ tháng tám, tháng chín và đầu tháng mười một, thấy cả ba tên đều bị trói ép vào cột bằng lạt tre cật, nút buộc chặt đến nỗi khi mở ra thì một tên đã chết cứng, còn hai tên kia cũng ngắc ngoải vì đói và rét, chúng cứng hàm chưa nói được điều gì.
Ngột-lương-hợp-thai tức giận sai quân đi phóng hỏa đốt cháy trụi hết cả sáu mươi mốt[70] phường. Và y đang dò tìm tung tích để truy đuổi vua Trần.
Trước khi rút về Thiên Mạc, thái sư Trần Thủ Độ sai các lộ điều quân về hội tại bãi Mạn Trù. Tới ngày mười sáu tháng chạp, quân các lộ đã về hợp tại bãi Mạn Trù đông đủ. Thái úy Trần Nhật Hiệu cũng đã gọi được quân Tinh cương của ông về hội. Các hoàng tử Trần Hoảng, Trần Quang Khải cũng đưa quân từ Long Hưng và Sơn Nam Hạ đang trên đường về Thiên Mạc.
Linh từ quốc mẫu cũng chỉ cho các hoàng tử và một vài đô tướng chỗ cất giấu số khí giới chưa phân phát hết cùng lương thực đã tích chứa để đem phân phát cho quân. Trên đường ngược sông về Thiên Mạc, thuyền quân đi san sát như lá tre. Khí thế ba quân hừng hực. Bỗng nhiên hoàng thái tử Hoảng nhìn thấy một lá thuyền trong đó có vài người đang đi ngược về phía hạ lưu. Tới gần nhìn rõ mới biết người ngồi phía trước vốn là tiểu hiệu Hoàng Cự Đà.
Vừa lúc đó Cự Đà cũng chợt nhìn thấy thái tử liền vát thuyền né tránh đi. Lúc này hai thuyền xuôi ngược đã cách nhau tới mươi trượng, hoàng thái tử sai đồng thanh hỏi: “Quân Mông ở đâu?”.
Hoàng Cự Đà quay lại gân cổ gào to: “Đi mà hỏi những người ăn muỗm ấy”.
Quân về hội ngày một đông, khí thế đánh giặc ngày càng phấn khích. Nhà vua cho triệu Thái sư, Thái úy, các tướng Lê Tần, Khuê Kình cùng các đô tướng tại các lộ, các trấn mới đưa quân về hội để bàn kế đuổi giặc ra khỏi Thăng Long, đuổi giặc ra khỏi bờ cõi.
Ngột-lương-hợp-thai chốt đóng trong kinh thành mọi thứ đều làm y ưng ý, duy có một điều không kiếm ra đó là lương thực cho người và cỏ ngon cho ngựa. Bởi mùa đông cỏ ngoài đồng vàng úa và nhiều loại cỏ hôi mọc xen kẽ nên ngựa Mông Cổ không ăn được. Trong khi đó thì cỏ khô và lương thực ngày một vơi cạn. Ngột-lương-hợp-thai nóng lòng chờ hậu quân do Đoàn Hưng Trí thống suất mãi vẫn chưa thấy tăm hơi. Mặt khác y muốn tung quân đi truy nã vua Trần nhưng với số quân ít ỏi mang theo chỉ có ba mươi ngàn tên thì đã chết mất non năm ngàn, với hơn hai ngàn hai trăm đứa bị thương nằm đó chưa đứa nào có thể nhúc nhích được còn nói gì ra trận.
Hai tên sứ giả sau mấy ngày phục cơm, phục thuốc nay đã khá, chúng thuật lại đủ mọi điều từ việc vua Trần không chịu lạy chiếu, không tiếp chiếu. Và để tăng sự thù hận y còn thêm: “Chúng nó lăng mạ thái sư, thách thức Đại Hãn và giam sứ lại chứ không thả sứ, không phúc đáp”. Ngột-lương-hợp-thai nghe hai tên sứ tranh nhau kể tội vua quan nhà Trần, máu nóng trong người y bốc sôi lên muốn quất ngựa truy tìm Nhật Cảnh ngay tức thì. Ngặt vì quân quá ít, nếu kéo tất cả ra đi lại phải bỏ trống kinh thành này, lúc quay lại hẳn đã bị quân Đại Việt chiếm mất. Vì vậy, Ngột-lương-hợp-thai cố nán chờ quân của Đoàn Hưng Trí.
Ngột-lương-hợp-thai chiếm được Thăng Long từ chiều ngày mười sáu tháng chạp, nay đã gần hết ngày hai mươi hai rồi mà vẫn bặt tin Đoàn Hưng Trí, trong khi y nóng lòng tìm bắt vua Trần, buộc Nhật Cảnh quy hàng để còn lấy đất cho đại quân qua đây mà đánh sang Ung Châu lấy đường tiến vào Đàm Châu, hội quân với Đại Hãn Mông-kha tại Ngạc Châu như kế đã hoạch định.
Rạng sáng ngày hai mươi ba tháng chạp Ngột-lương-hợp-thai nhận được mật thư của Đoàn Hưng Trí do một viên đô tướng rất thông thạo đường đi lối lại vào Đại Việt, lại biết cả tiếng nói của người Đại Việt, đem theo nhiều tiền và đồ quý vừa giả làm lái buôn, vừa để khi cần có thể dùng tiền của đó mà thoát thân. Vừa trao xong bức thư, y nằm vật ra ngất xỉu.
Ngột-lương-hợp-thai vội mở thư đọc.
“… Quân Đại Việt quỷ quyệt chờ cho kỵ đội của Thái sư đi qua lâu rồi chúng mới quây quân tiếp lương của ta lại đánh, thu hết lương thảo dắt đi và giết chết quân tiếp lương. Sau đó chúng ngày đêm tập kích đánh cho quân ta bải hoải. Vì quân là người Thoán, người Bặc ô hợp lại chưa được huấn dạy nên cứ hễ thấy quân giặc đến là chạy hoặc đầu hàng. Kẻ bạc đức này không biết có chống chọi được với quân giặc để rút về Đại Lý không.
Tình thế thật là khốn quẫn, lương hết, quân vừa đói vừa rét vừa nhát sợ, mong Thái sư sớm quay binh về cứu mạng. Sợ rằng Thái sư cứ nấn ná, khi quân kia dồn xuống Thăng Long, quân ta sẽ bị cắt mất đường về…
Thư nói chẳng hết lời. Rỏ máu mắt xin tha tội chết”.
Đọc xong thư, Ngột-lương-hợp-thai toát mồ hôi ướt đẫm cả lưng áo, mặc dù Thăng Long đang tiết đại hàn. Ngột-lương-hợp-thai không thèm nghĩ đến việc cứu Đoàn Hưng Trí và đám quân Thoán, Bặc mà y thật sự lo với lời cảnh tỉnh của Đoàn Hưng Trí:“… khi quân kia dồn xuống Thăng Long, quân ta sẽ bị cắt mất đường về”. Đó chính là nỗi lo bất chợt vừa ập đến. Viên tướng dạn dày chiến chinh này đã đạp đổ không biết bao thành trì, sát hại không biết bao nhiêu vua chúa, quả không ngờ cái nước Đại Việt chỉ bằng bàn tay với một nhúm người này mà dám chống lại đại binh Mông Cổ. Biết thế, ta đem hẳn mười lăm vạn quân kỵ thì mọi việc chắc xong rồi. Làm lỡ kế hoạch của ta, tội do hai đứa. Một là Triệt-triệt-đô ham đánh vì nó nghĩ là chắc ăn, ai ngờ quân Đại Việt chống trả kiên cường khiến ta sổng mất Nhật Cảnh. Hai là Đoàn Hưng Trí và lũ quân Thoán, Bặc nhát hèn không theo kịp quân ta làm hậu thuẫn.
Suốt cả ngày hai mươi ba tháng chạp Ngột-lương-hợp-thai suy nghĩ rất lung. Truy bắt Nhật Cảnh hay quay về. Nếu bắt được Nhật Cảnh thì mọi chuyện êm ru. Lỡ không bắt được thì sao, và biết vua tôi nó ở đâu mà truy lùng. Ngại nhất là trên đường về gặp quân nó tràn xuống và Nhật Cảnh thấy ta lui binh lại cho quân truy đuổi. Trong khi quân ta đi lâu ngày mỏi mệt mà trước sau đều có quân địch quấn chân là điều thất lợi. Nghĩ vậy, Ngột-lương-hợp-thai ra lệnh cho các tướng phải chuẩn bị sẵn sàng, có lệnh là lên đường.
Chiều hai mươi ba tháng chạp trời rét căm căm, bầu trời xám xịt, bãi Mạn Trù mênh mông cói lác cao lút đầu người, dưới sông thuyền đậu san sát. Mùa đông nước sông cạn để phơi mép cát trắng phau viền lấy bãi cói xanh rờn, nom bờ cát như chiếc lưỡi hến khổng lồ liếm vào mặt nước sông.
Quân các lộ, quân của các vương hầu xếp hàng tề chỉnh giáo gươm sáng lóa, cung nỏ đeo vai đứng theo hiệu cờ của các đô tướng.
Quân các vệ như Tả hữu thánh dực, Củng thần, Thiên thuộc, Thần sách… là các sắc quân tinh nhuệ luôn theo sát bên vua để hộ giá xếp thành từng khối đứng về phía gần với nhà vua.
Trước khi ban lệnh vua dụ:
- Hỡi binh sĩ, để giữ kín nhẹm cho tới lúc xuất binh, các người không được tung hô chúc tụng mỗi khi ta nói. Cốt nhất nghe cho rõ hiệu lệnh để làm cho đúng.
Hỡi binh sĩ,
Hôm nay là hai mươi ba tháng chạp, nếu giặc Mông - Thát không xâm chiếm cõi bờ ta thời hôm nay các người đã được sum họp cùng gia đình làm lễ tiễn Táo quân về Trời rồi lo liệu bánh trái cho ngày tết.
Giặc phá sự yên bình của mọi nhà kể cả ta. Vậy ta cùng các ngươi quyết kề vai sát cánh đuổi giặc ra khỏi Thăng Long, đuổi giặc ra khỏi cõi bờ ta để tết này mọi người đều được sum họp với gia đình họ mạc và xóm làng.
Hỡi binh sĩ,
Nếu các người đồng tâm nhất trí vua tôi một lòng sống chết cùng nhau quyết giữ lấy giang san bờ cõi thì hãy cùng ta giơ tay lên thề cùng với thiêng liêng sông núi.
Lập tức hàng rừng cánh tay giơ lên thẳng đứng, tỏ rõ ý chí sắt đanh của mọi người.
Vua lại dụ:
- Các tướng cho quân nghỉ ăn cơm sớm rồi đi ngủ. Nhưng mọi sự đều phải sẵn sàng. Giờ khởi binh phá giặc ta sẽ báo sau.
Quân nhanh chóng tản ra ai về thuyền ấy.
Cơm nước xong xuôi, quân phải đi ngủ nhưng binh khí vẫn mang trên người.
Các đô tướng đã được lệnh, đầu giờ tí có tiếng pháo nổ làm hiệu, các thuyền nhất loạt xuất quân. Thuyền đổ ra chật sông, tiếng khua nước rào rạt.
Hoàng thái tử Trần Hoảng lĩnh ấn tiên phong đi trên chiếc lâu thuyền Kim Ngư có Khuê Kình làm phó tướng. Vua Thái tông đi với đạo trung quân trên chiếc lâu thuyền Kim Phượng có tướng Lê Tần dưới trướng.
Các vệ quân hùm sói đều chia ra đi hộ vệ trên các thuyền áp sát thuyền ngự và thuyền của hoàng thái tử.
Đại quân theo vua tiến ra sông Cái rồi ngược về bến Đông Bộ Đầu và tỏa ra vây hãm quân giặc trong thành.
Đạo quân đi đường bộ gồm đủ tượng binh, kỵ binh hội quân ở Sơn Nam Thượng tiến về Thăng Long từ lúc sẩm tối.
Thái sư Trần Thủ Độ tiễn vua lên thuyền còn dặn:
- Bệ hạ cứ yên tâm đuổi giặc, còn hai vạn quân, thần sẵn sàng lên đường tiếp ứng sát cánh cùng bệ hạ phá giặc.
Vua Thái tông nói vui:
- Quốc phụ cứ kê gối ngủ cho ngon giấc, ngày mai trẫm sẽ cho quân về rước quốc phụ vào điện Thiên An.
Thuyền quân đi được chừng nửa canh giờ bỗng có gió đông nam thổi nhẹ. Lát sau gió thổi mạnh hơn. Các thuyền đều giương cả hai buồm. Chèo gác mái. Thuyền lướt nhẹ trên mặt nước mà nhanh như ngựa chạy. Đầu giờ dần các thuyền đã đổ hết quân lên bờ. Các đô tướng nhanh chóng đem quân của mình đến phục tại các nơi hiểm yếu đã định. Sương giăng trắng cả kinh thành. Bỗng từ đâu đó pháo hiệu nổ ran. Kèn thổi inh ỏi, trống thúc liên hồi.
Quân ta từ các nẻo ào ạt xông vào trại giặc.
Ngột-lương-hợp-thai là một viên tướng lão luyện. Từ khi nhận được thư cấp báo của Đoàn Hưng Trí, y đã định rút quân nhưng còn phân vân. Tuy nhiên, y bắt các tướng phải cho quân nai nịt sẵn sàng, bất cứ lúc nào có lệnh là lên đường ngay. Y mơ hồ cảm thấy quân Đại Việt sẽ tiến đánh chỉ trong khoảnh khắc. Vì vậy khi nghe thấy hiệu kèn của quân ta, Ngột-lương-hợp-thai ra lệnh cho quân không được lấy bất cứ một thứ của cải nào mang theo. Kẻ nào trái lệnh các đô tướng cứ chém không cần tâu báo. Dọc đường gặp quân chặn phải cố đánh cướp lấy đường mà chạy. Những kẻ chết bỏ lại, kẻ bị thương không tự chạy được cũng bỏ lại. Nếu chậm trễ các người sẽ không có đường về.
Vừa nói xong, y ra lệnh:
- Tất cả lên đường trở về Đại Lý. A-truật đoạn hậu.
Thế là quân Mông Cổ ào ạt chạy, nhanh hơn nhiều khi nó đến.
Quân ta bốn mặt bổ vây nhưng tiền quân của giặc đã chạy khỏi Thăng Long. Kỵ đội của ta xông lên đánh, giặc vừa đỡ vừa chạy. Quân cung nỏ của ta bắn như vãi tên về phía giặc. Người, ngựa của giặc chết lăn quay khá nhiều. Những con ngựa Mông Cổ to cao đổ kềnh, bốn vó giơ lên trời giãy đạp trong thinh không một lát rồi gục hẳn. Những tên lính Mông Cổ bị trúng thương gục trên mình ngựa, theo đà ngựa cứ phi nhanh về phía trước văng cả tên kỵ sỹ khỏi mình ngựa nhưng đôi chân còn mắc dính vào yên cương còn đầu thì kéo lê trên mặt đất. Có những đứa ngả người tránh tên núp mình vào bụng ngựa, y tránh được phía tả liền bị quân phía hữu bắn trúng, buông xuôi hai tay, mặt úp vào bụng ngựa. Ngay cả những con ngựa không còn chủ ấy cũng lần lượt bị bắn gục. Quân Mông Cổ tuy chết, nhưng chúng không hề cứu nhau. Chúng giẫm đạp lên xác của nhau lấy đường trốn chạy.
Tuy vậy, quân Mông Cổ cả người và ngựa đều khỏe, chúng lại chạy thục mạng để tìm đường sống nên khoảng cách giữa quân ta và giặc cứ xa dần. Và ra khỏi Thăng Long chừng hơn trăm dặm, quân ta không đuổi theo nữa, nhưng giặc vẫn chạy căng hết sức ngựa. Đoàn quân Mông Cổ bại trận do hai cha con Ngột-lương-hợp-thai, cha dẫn đầu, con đoạn hậu lần đầu tiên nếm mùi Đại Việt, đã táng đởm kinh hồn tháo chạy không còn phân biệt được trời đâu đất đâu.
Khi cảm thấy không còn bị quân Đại Việt săn đuổi, Ngột-lương-hợp-thai hãm ngựa cho quân đi nước kiệu để chúng vừa nghỉ vừa ăn uống.
Đuổi được giặc ra khỏi Thăng Long, vua tôi hoan hỷ. Vừa về lại trong cấm thành, việc đầu tiên của quan Chưởng ấn là sục ngay vào điện Đại Minh lấy thang bắc lên mái nhà sờ tay vào chỗ sát đấu kèo với rường nhà tìm lại được ấn báu.
Giặc chỉ đốt phá ngoài phường phố chứ trong cấm thành không hề có dấu hiệu phá phách, chứng tỏ chúng có ý định chiếm đóng lâu dài.
Vì cận ngày Tết, vả còn chờ các tướng ngoài biên trở về báo tiệp, vua cho các cơ quan trong lục bộ và các đài, sảnh, viện lo cứu trợ cho các nhà ngoài phố bị giặc tàn phá. Cái chính là cùng với các quan sở tại lo cho những người có nhà bị cháy, hoặc có người chết do tử trận hoặc do giặc giết, nhất thiết trong ba ngày tết phải có chỗ ở tạm, có nơi cúng gia tiên, và vậy mọi việc phải cấp kỳ làm gấp.
Vua Thái tông cũng răn phủ Tông chinh tết này chỉ sửa hương hoa bánh trái dâng cúng tổ tiên chứ không được mổ lợn mổ bò, cỗ bàn yến tiệc. Vua cũng dụ bảo ty Thái chúc[71] tết này bỏ lệ vua thết yến các quan vào đầu năm mới. Tất cả đều phải kiệm ước, phải chia sẻ với nỗi bất hạnh của người dân.
Lại nói Quốc Tuấn phối với dân binh người man của Hà Khuất, Hà Bổng ở Quy Hóa giang đánh tan đội quân đông tới gần năm vạn người vừa lính vừa phu của Đoàn Hưng Trí, khiến chúng chết tới quá nửa và tan tác chạy tháo về đất mẹ mà mặt mày vẫn còn tái mét, tim đập chân run. Tạm thoát được thân, nhưng Đoàn Hưng Trí còn lo Ngột-Lương-hợp-thai không tha tội chết vì đã để thua trận. Đoàn Hưng Trí có biết đâu rằng chủ của y cũng đang lâm vào cảnh ngộ chẳng khác gì y.
Quốc Tuấn chưa vui trọn niềm vui đánh tan đội quân Thoán, Bặc thì đã nghe Thăng Long thất thủ. Ông đang bàn với hai vị đầu mục gom góp thân quân rồi cùng kéo về xuôi góp sức với triều đình đánh giặc. Việc đang tiến hành lại nhận được mệnh vua.
Viên tín sứ cưỡi ngựa lưu tinh vừa móc được tờ chiếu ở trong lồng ngực ra trao cho Quốc Tuấn thì y ngất xỉu, và con ngựa bọt sùi trắng mép cũng từ từ quỵ xuống.
Không kịp lạy chiếu, Quốc Tuấn mở đọc ngay. Ông không tin vào mắt mình nữa. Vội gọi các viên đầu mục lại cùng xem.
“… Quân Mông Cổ đã bị đánh bật ra khỏi Thăng Long. Chúng đang trên đường chạy trốn. Tướng quân kíp phối với các vị đầu mục đánh cho giặc không có đường về…”.
Ngay lập tức quân chia đi phục tại các nơi đã dự liệu. Quả nhiên đêm đó giặc chạy tới trại Quy Hóa. Ngựa chúng phi như gió bỗng sập hố con nọ đè lên con kia, đè lên cả những tên kỵ mã.
Tiếng ngựa rống, tiếng những đứa bị ngựa đè đang ngắc ngoải kêu cứu. Mặc tất cả, những kẻ đi sau cứ vượt lên. Trong khi đó quân của Hà Bổng với hàng trăm cây nỏ cứng bắn tên độc chặn đầu quân giặc. Ngựa của Ngột-lương-hợp-thai vừa dừng lại, chưa kịp khuỵu xuống thì hai tướng tả hữu hộ vệ lướt ngựa qua, y nhẹ co mình để thoát khỏi lưng con ngựa chết, thoắt đã ngồi sau các viên tả hữu hộ vệ.
Ngột-lương-hợp-thai nắm lấy dây cương và khẽ đẩy vào lưng viên hữu hộ vệ. Tên này vừa uốn mình đã bật khỏi lưng ngựa và bắn sang ngồi phía sau viên tả hộ vệ. Tất cả các việc trên đều diễn ra trong đêm tối và chỉ thoáng như một chớp mắt.
Mặc dù bị chặn đánh nhiều nơi, quân Mông Cổ bị băm ra từng khúc nhưng chúng không hề đánh trả chỉ cắm đầu cắm cổ thúc ngựa chạy.
Khi về tới A Mân cả người, ngựa của chúng đều rã rời xơ tướp ra như tàu lá chuối bị bão xé cho rách bươm. Quân, tướng, người, ngựa đều thất thần.
Ngột-lương-hợp-thai cho kiểm lại trong số ba vạn quân ra đi chỉ còn lại non mười ngàn đứa. Hắn lẩm nhẩm: “Không chỉ có thế, ta còn mất thêm viên dũng tướng Triệt-tríệt-đô khiến ta đau lòng. Nếu kể cả số quân Thoán, Bặc nữa thì ta mất tới gần năm vạn quân, đây đúng là mối hận của ta. Bởi mấy chục năm theo Đại Hãn đi chinh chiến, ta chưa hề thua một trận nào thế mà cái bọn man di An Nam Giao Chỉ này dám trêu tức ta, hãm hại sứ giả của ta, rắp tâm kháng mệnh thiên tử, chống lại đại binh của ta. Hẹn bình xong nhà nam Tống, ta sẽ tâu với thiên tử đem binh làm cỏ nước Nam, Thăng Long sẽ thành bình địa”.
Đứng trước đoàn quân thất trận, viên dũng tướng lừng danh Ngột-lương-hợp-thai rút thanh trường kiếm cao giọng đe:“Kẻ nào dám tiết lậu các việc vừa qua ở Đại Việt làm nhụt nhuệ khí và binh uy của ta ắt bị chém bêu đầu”. Nói xong y huơ thanh trường kiếm một vòng. Lưỡi kiếm sáng xanh vút đi như một lóe chớp khiến binh sĩ sợ sệt, tự nhiên chúng đều so vai rụt cổ, tựa như né tránh một lưỡi gươm vô hình vừa lướt qua.
Quốc Tuấn được quân thám về báo, giặc đã chạy ra khỏi biên thùy, ông liền giao cho viên đô tướng một ngàn quân ở lại cùng với dân chúng và các đầu mục canh giữ biên cương. Chia tay các vị trại chủ và dân chúng, ai nấy đều tỏ lòng luyến nhớ vị tướng trẻ tài ba dũng lược cùng đội quân gan góc của triều đình.
Quốc Tuấn dẫn quân xuống thuyền xuôi về Thăng Long báo tiệp.