Số lần đọc/download: 309 / 22
Cập nhật: 2020-07-08 19:36:12 +0700
Chương 9
Tiếng giấy sột soạt đánh thức tôi. Enola đã ngủ dậy, đang ngồi bên bàn, lật giở cuốn sách của tôi, tóc ẹp xuống vì ngủ nghiêng sang một bên. Cánh cửa trước bị rạn nứt, làn gió từ biển thổi vào mang theo cả muối mặn. Tôi ngáp ngắn ngáp dài. Con bé chỉ xuống sàn nhà, nơi có một cốc cà phê bốc khói nghi ngút, mà chẳng buồn liếc nhìn. Cả hai chúng tôi đều biết là không nên nói chuyện trước khi uống cà phê.
Cà phê này thật kinh khủng, nó bị cháy, nhưng vì không phải tự tay làm nên tôi vẫn thấy nó ngon lành. Enola đẩy nhẹ cái ghế về phía sau và uống cốc cà phê của mình.
- Cám ơn!
- Em xem cuốn sách của anh.
- Anh thấy rồi. Anh sẽ rất cảm kích nếu em không lục lọi đồ của anh.
- Những cái tên đó, những người phụ nữ ấy, họ là họ hàng phải không?
- Anh đoán vậy. Em biết những người làm việc trong gánh xiếc rồi đấy. Thật khó mà biết ai thực sự là ai. - Những cái tên có một cách thức biến đổi khi mọi người đắm mình vào những màn biểu diễn và những cuộc sống nặc danh mới, trôi giạt cùng với gió trời.
- Tất cả đều bị chết đuối.
Có điều gì đó trong giọng nói của con bé khiến tôi thốt ra:
- Nguồn tài liệu của anh hơi bất thường.
Enola hơi cắn môi:
- Anh nghĩ họ tự tử phải không?
- Có thể đúng, có thể sai. Alice nghĩ vậy. - Thật khó để hợp lý hóa một chuỗi những cái chết như vậy theo bất cứ một cách thức nào khác, song có điều gì đó ở danh sách những người này khiến tôi có cảm giác không được hợp lý - Một số trường hợp có thể là do tai nạn.
- Anh biết là em có thể biết khi nào anh nói dối rồi đấy. Tay trái của anh giật giật kìa. - Enola đặt một chân lên mặt bàn. Quần áo của nó nhăn nhúm, chân váy như một tấm khăn trải giường. Con bé bắt đầu nhai ngón tay cái, rồi đập vào bàn tay mình, như kiểu đang bị trừng phạt.
- Nó bắt đầu với cuốn sách, phải vậy không?
- Nó là một bí ẩn. Anh thích những bí ẩn. - Tay tôi có giật giật không? Khi thấy Enola hành động như mẹ tôi, còn chín ngày nữa. Để làm gì? Lúc này Enola đang rất năng động, tràn đầy sức sống. Tôi đã bỏ qua điều gì đó. Liệu nó có liên quan đến tuổi tác không? Mẹ tôi mất khi bà mới chỉ ba mươi hai tuổi. Bà tôi chết trẻ hơn, tôi nghĩ là thế. Celine Duvel, ôi trời! Tôi sẽ phải kiểm tra lại.
- Được rồi, vậy anh cứ tiếp tục nói dối đi. - Enola kéo căng người, khiến từng đốt xương sống của nó nổi khúc - Em muốn đi bơi. Anh hãy lấy bộ đồ tắm của anh đi, trừ phi anh sợ rằng em sẽ chìm nghỉm, hay có lẽ anh nghĩ anh sẽ như vậy. - Nó cười tự mãn, như thể nó biết rằng bụng tôi vừa thắt lại.
Chúng tôi đi xuống cầu thang. Lũ sam lấm chấm ở mép nước, những hòn đá sáng bóng với cái đuôi của quỷ.
- Ôi, biển có màu xanh! Không có sứa. - Enola lên tiếng, đặt một bàn chân xuống nước - Tuyệt. Em ghét lũ sam chết tiệt. - Nó tìm kiếm một con đường rõ hơn để đi tới vùng nước sâu hơn, nhưng có rất nhiều sam.
- Chúng vô hại mà. Chúng không cắn em đâu.
- Trông chúng như thể đang ủ mưu gì đó. - Rồi con bé xuống nước, chạy về phía trước, đập cho nước bắn tung toé và lặn xuống. Tôi lao theo sau. Chúng tôi thở hổn hển, cười toe toét vì lạnh, và rồi Enola lặn xuống nước, một chỏm tóc bập bềnh phía trên sóng nước. Tôi vẫn mở mắt dù muối mặn châm chích mắt tôi. Enola ở gần tôi và khuôn mặt nó dài ra như một dây dải rút. Tôi bắt đầu đếm, vì thói quen, có lẽ là vì tò mò nữa. Con bé có thể nín thở bao lâu? Tôi có thể làm vậy bao lâu? Một Mississippi. Hai Mississippi. Enola khua tay thành những vòn tròn nhỏ và lặn sâu hơn. Tôi đi theo. Tám Mississippi.
Simon.
Một phần của bà ở đây, một lời thì thầm của mẹ tôi ở trong nước - một nửa mong mỏi, một nửa sợ hãi. Tất nhiên là bà sẽ ở đây khi mà Enola đã về nhà. Tôi túm lấy tay em gái mình, nó lạnh và trơn như một con cá. Tôi kéo nó về phía mình. Nó mở mắt. Tôi đủ nặng để giữ cả hai chúng tôi ở phía dưới, nếu không Enola có thể nổi lềnh bềnh như một khúc gỗ trôi. Nó nhìn thấy tôi đang đếm bằng ngón tay và lắc đầu. Tôi siết chặt cánh tay nó. Bốn mươi Mississippi.
Simon.
Enola quằn quại, chân giật mạnh, kéo tôi sang một bên. Thật mạnh mẽ và nhanh chóng, chúng tôi trồi lên mặt nước.
- Lạy Chúa, Simon! - Nó thổi phì phì - Anh có biết em làm việc đó đã bao lâu rồi không? Suýt chết đuối, anh suýt giết chết em rồi.
Giết người. Tôi luôn nghĩ đến khả năng giết người, dù đó không phải là chuyện có thể xảy ra với mẹ tôi. Không đời nào.
- Em thậm chí còn không hết hơi. - Tôi đập mạnh cho nước ra khỏi tai - Em luôn có thể nín thở lâu hơn anh.
- Chà, đã lâu rồi. - Trông nó có vẻ hơi tái người.
Chúng tôi trùm quần áo ra ngoài bộ đồ bơi ướt sũng. Enola nói rằng nó thấy thật tuyệt khi muối khô trên da mình. Nó nói:
- Cảm giác như mùa hè vậy.
Chúng tôi bước về phía bờ biển Tây, gần cầu tàu. Tôi nhìn những đốt xương sống của nó, quá mỏng manh, lúc nào nó cũng mảnh mai, nhưng không quá gầy gò. Khi chạy khỏi bãi biển, chúng tôi leo lên những vách ngăn.
- Anh nghĩ là anh đã nghe thấy thứ gì đó khi chúng ta ở dưới nước. Em có nghe thấy gì không? - Tôi hỏi Enola.
- Làm thế quái nào mà anh có thể nghe thấy khi nước đầy trong tai anh chứ?
- Đừng bận tâm.
Cát tràn qua khu rừng nơi một khu vực gồm những vách ngăn đã lún xuống và cọc gãy nghiêng xuống eo biển. Chẳng nói chẳng rằng, chúng tôi bắt đầu trèo lên vách đó, bàn chân vùi sâu trong cát và bụi.
Đi được nửa đường thì Enola thở hổn hển:
- Cha sẽ giết chúng ta vì đã làm thế này.
- Có lẽ.
Ông đã bắt quả tang chúng tôi một lần. Chúng tôi chạy khỏi vách đá và đang chạy lên một con đèo khác, bất thần ông xuất hiện ở rìa vách núi. Ông túm chặt lấy chúng tôi mạnh đến nỗi nhiều ngày sau đó dấu vân tay của ông vẫn còn in hằn trên cánh tay tôi, nhắc tôi nhớ rằng tôi có một người cha. Ông lôi chúng tôi về nhà, tôi thì ông túm cổ áo, còn Enola thì ông túm quần. Chân con bé không lúc nào chạm đất. Tôi thấy ghét ông một chút.
Chúng tôi đứng trên đỉnh dốc trông ra. Một bên sườn ngôi nhà nghiêng xuống rìa vách đá, bức tường phía sau đã bị mòn. Những thứ còn lại đã trôi giạt đi theo con bão vừa qua.
Enola nói:
- Đó là nhà của Murphy phải không? - Đó là nhà của Murphy, và Enola có thể biết nếu con bé thực sự nhìn và thấy tủ lạnh nhà họ được đặt trên thanh sắt oằn xuống, bàn ăn của bà Murphy bị lật ngược, chân bàn đã gãy từ lâu.
- Phần cuối cùng của mái hiên đã bị mất từ hai năm trước. - Đâu đó bên kia eo biển, những đứa trẻ Connecticut đốt lửa mừng bên ngoài mái hiên nơi chúng tôi đã từng ngồi với Jimmy Murphy và uống nước chanh.
- Rồi anh có, cái gì, hai năm à? Hay ba?
- Còn tùy. - Đất đai ở gần bờ biển bị mất ba mét một năm không phải là điều hiếm gặp, tùy thuộc vào những cơn bão và chi phí sửa sang dốc đứng. Từ khi cơn lốc dữ dội quét qua, mọi thứ đã trở nên tồi tệ hcm, và việc ngôi nhà của Murphy biến mất cũng chẳng giúp ích gì cho ngôi nhà của tôi. Khi bờ kè của họ bị cuốn mất, nước ào đến phía sau ngôi nhà của tôi, ăn mòn hai bên vật chắn cuối cùng giữa tôi và eo biển. Khi đó có thể có những cơn bão mùa đông, gió đông bắc, hay một cơn lốc biển, ai mà biết được?
- Anh có tiền để sửa không?
- Ngay bây giờ thì không. - Tôi sẽ cần một khoản vay. Kiếm một khoản như vậy khi không có công ăn việc làm sẽ gần như là không thể, và công cuộc săn tìm việc làm thật khó khăn. Tôi có thể hỏi vay tiền Frank. Có thể tôi sẽ có nhiều khả năng thành công hơn, tiền để cứu chữa ngôi nhà của tôi cũng là tiền để cứu chữa ngôi nhà của ông, và đó là điều quan trọng với Frank. Nhưng vì Alice. Lấy tiền của Frank là một chuyện. Lấy tiền của cha Alice lại là một chuyện khác. Tôi nên hỏi cô ấy, nhưng tốt nhất là tôi nên thử ở hội Lịch sử Napawset trước; họ có thể làm một việc nghĩa, một việc quan trọng cho tôi. Tôi nhìn ra, thấy Enola đang khẽ đu đưa người theo những con sóng dập dềnh.
- Anh nên đi cùng với em! - Con bé nói nghe có vẻ khẩn thiết đến lạ lùng.
- Tại sao?
- Ở đây còn gì chứ?
- Ngôi nhà. Anh không thể rời khỏi nơi đây. - Thỉnh thoảng tôi có cảm giác rằng cha mẹ tôi vẫn ở đây, trong những bức tường, và cần phải có người nào đó chăm sóc họ cho đến cùng. Lúc này tôi không nơi nương tựa như tôi đã từng, nhưng lúc này tôi biết phải làm thế nào khi nước dâng lên cao, mọi người ở đâu khi có thủy triều, ai là con người của mùa hè, ai sống ở đây. Lúc này bàn chân chai cứng của tôi đã trở nên có ý nghĩa. Và Enola đã biết trở lại nơi đây.
- Anh cứ đi đi.
- Anh sẽ không biết phải làm gì và anh không biết bất kỳ ai cả.
- Anh sẽ tự tìm ra và anh biết em. - Con bé đáp.
- Việc đó thường không hiệu quả cho lắm.
Enola nhăn mặt, rồi thở dài:
- Anh sẽ ổn thôi. Em sẽ giúp đỡ anh. - Bàn tay con bé biến mất vào trong túi áo và tôi có thể nghe thấy một tiếng xáo bài nhẹ nhàng.
- Anh thấy tối qua em thức khuya. - Tôi nói, và đôi tay nó ngừng cử động - Có chuyện gì với những lá bài thế?
- Chỉ là chúng bí ẩn thôi.
Khi tôi thúc ép Enola nói về chúng, nó đâm bổ vào tôi và dùng những đốt ngón tay chà mạnh vào đầu tôi, khiến da đầu tôi như cháy bỏng. Cả hai chúng tôi cùng phá lên cười. Nó cù léc hai bên sườn tôi và tôi vặn vẹo người cố gắng thoát ra. Tôi vặn cánh tay nó cho đến khi nó rú lên và gõ mạnh tay vào đầu tôi, chấm dứt mọi chuyện nhanh như lúc bắt đầu. Chúng tôi ngã xuống cỏ. Trong một chốc chúng tôi lại ổn thỏa.
- Tối qua anh có Alice đến chơi à? - Enola thở hổn hển và nói.
- Anh nghĩ em đã ngủ rồi.
- Có chuyện gì giữa anh và chị ấy thế?
- Anh không biết. - Tôi đáp. Không hẳn là tôi không biết, nhưng tôi muốn bảo vệ thứ mới mẻ xưa cũ này giữa hai chúng tôi.
- Em thích chị ấy. Chị ấy rất tốt với anh. - Enola bẻ một nhánh cỏ bãi biển, cho vào giữa hai hàm răng và nhai - Anh sẽ thích gánh xiếc của Rose. Đó là một gánh xiếc lưu động khi chúng ta còn nhỏ. Đó là một nghề gia đình.
- Sao em lại gặp họ?
- Một người bạn em gặp bói bài ở thành phố Atlantic. Anh ấy làm việc với Rose từ trước và giới thiệu em. Em bói bài cho Thom Rose, chúng em nói chuyện với nhau và rất tâm đầu ý hợp. Đó là một chuyến đi tuyệt vời và một cỗ xe chắc chắn suốt các mùa hè. Tiền thì không quá thấp.
- Em có nhắc đến mẹ không?
- Em không phải một con ngốc. Gì chứ, em sẽ nói rằng mẹ em đã làm trong một gánh xiếc ư? Có lẽ đó là lý do tại sao anh ấy thuê em. Anh ấy sẽ nhận anh nếu anh muốn.
- Thế anh sẽ làm gì?
- Đừng có ngớ ngẩn thế.
Tôi không hiểu biết về những gánh xiếc. Thực tế là đây, em gái có đôi chân vòng kiềng và đôi mắt hoang dại của tôi đang bảo tôi chạy trốn. Nó sẽ lý giải cho việc mà tôi luôn tự hỏi rằng mẹ tôi như thế nào trước khi có bố.
- Nó có giống như trước đây không?
- Khá giống! Nhưng lớn lao hơn một chút, nhiều chuyến đi hơn, nhiều trò chơi hơn. Những màn diễn phụ đã thay đổi, nhiều tiết mục hơn. - Con bé thấy tôi bối rối - Những cái lọ, đồ đạc bên trong những cái lọ. Đừng bận tâm, anh không muốn biết đâu.
Những thứ được bảo quản bằng formaldehyde, động vật hoặc ngược lại. Tôi nhớ mình đã đứng bên trong một cái lều quá nóng không thể thở nổi, ngón tay nhớp nháp mồ hôi, nhìn chằm chằm vào một con cá mập ngâm dấm màu trắng như sữa có hai đầu.
- Em thích nó à?
- Chắc chắn rồi.
- Em có vẻ không được ổn lắm khi gọi điện cho anh. Giờ thì trông em thật mệt mỏi.
- Không phải lúc nào cũng ổn. Nhưng gì chứ? Ăn cua, đau bụng, rặn đến long cả não. - Enola đưa một cánh tay lên đầu. Vai nó tạo ra một âm thanh lốp bốp. - Năm ngoái em đã vô cùng mệt mỏi ở ngoài Philly. Em đi vào một hiệu sách bởi vì họ dọn dẹp sạch sẽ những nhà vệ sinh đó. Em ở trong đó, đau bụng tưởng chết, ruột lộn tùng phèo, nhìn chằm chằm xuống sàn nhà, cố gắng không bất tỉnh, và em có thể thấy đôi giày màu vàng này thò ra khỏi ngăn buồng bên cạnh em. Người phụ nữ đoán ra em có thể thấy bàn chân cô ấy nên cô ấy rụt chân lại, như thể em không nên biết cô ấy có ở đó. Như thể, nếu cô ấy nhấc chân lên, cô ấy có thể quên mất cô ấy đang nghe thấy những âm thanh phát ra từ em. Anh không phải xử lý những vấn đề như vậy. Anh có một ngôi nhà. Anh luôn có nhà vệ sinh của riêng anh. - Enola gãi gãi cổ. Hình xăm con chim trên cổ tay nó run rẩy - Nhưng phần lớn thời gian thì mọi chuyện đều tốt đẹp. Thom sẽ yêu quý anh.
- Sao em lại muốn anh đi cùng đến thế?
- Có lẽ là do em nhớ anh.
- Anh cũng nhớ em. - Đúng vậy, tôi luôn nhớ con bé. Tôi có thể đi không? Chất đồ của tôi lên xe, lái xe xuống đường cao tốc, đi theo một vệt những chiếc xe móc, những người cắm trại, ở suốt ngày đêm trong một thùng nước được khử trùng bằng clo, sáu tháng sau trở lại, bẩn thỉu, hốc hác, và cô đơn. Không, không phải bây giờ. Chúng tôi vừa mới thấy sợ ngày 24, và Enola đang ở đây. Tôi cảm thấy quá trùng hợp - Sao giờ em lại về nhà?
- Dù sao thì gánh xiếc Rose cũng sắp đi ngang qua. Em đã hỏi Thom liệu rằng em có thể về thăm anh một lát không. Em nghĩ rằng chúng ta có thể nói chuyện. - Chúng tôi quan sát những con sóng xô vào cát cho đến khi lũ muỗi bắt đầu đốt chúng tôi. Enola đập được một con - Em có yêu anh một chút. - Một chút. Con bé nói vậy, nhưng cách thức nó nói nghe còn tốt hơn là nếu nó nói nó vô cùng yêu tôi. Chúng tôi sống đơn độc trong suốt nhũng năm tháng ấy, có thể tôi đã không trở nên quá tồi tệ. Chúng tôi đi qua những bụi rậm và thường xuân độc đến con đường dẫn vào nhà. Con bé nhét tay vào túi váy, và tôi lại nghe thấy tiếng giấy sột soạt.
Một chiếc xe tả tơi đậu ở lối vào nhà của chúng tôi - không phải xe của con bé. Một dáng hình mảnh khảnh đứng cạnh đó, tay chống lên mui xe. Trông không thể ấn tượng hơn. Ngoằn ngoèo và uốn khúc với những khả năng không thể biết được.
Enola hít thật sâu giống như một thợ lặn, rồi kêu ré lên và bắt đầu chạy.
- Doyle! - Một niềm vui không bị kiềm chế. Và rồi con bé ở trong vòng tay của người này, chân quấn quanh người cậu ấy. Bờ vai nó đã che mất khuôn mặt cậu ấy. Tôi chỉ có thể nhìn thấy hai cánh tay khẳng khiu, đầy hình xăm quanh eo con bé.
Cậu ấy xoay người, lưng quay về phía tôi, Enola quay mặt về phía chiếc xe. Tôi chạy bộ tới chỗ họ. Enola nói mà chẳng nhìn tôi:
- Đây là anh trai em, Simon.
- Xin chào! Tôi đã nghe kể rất nhiều về anh. Đừng lo, tất cả đều là những điều tốt đẹp. - Đó là một giọng nói như sóng vỗ. Tay cậu ấy đặt lên hông em gái tôi. Cậu ấy không liếc nhìn về phía tôi, nên tôi có thể nhìn chằm chằm vào một hàng những hình xăm chạy dài lên đến tận hai bên cổ cậu ấy, trườn lên đến cái đầu cạo trọc, dừng lại ở những xúc tu màu xanh thẫm quanh hàm.
- Simon, đây là Doyle.
Tôi nói tôi rất vui được gặp cậu ấy. Tôi không nhớ rõ tôi đã nói những điều gì khác, bởi vì tôi không thể không nhìn chằm chằm vào cậu ấy. Không ai xăm hình như thế này trừ phi họ là những kẻ tán tỉnh bằng cách nhìn chằm chằm. Mực xăm trườn xuống khi cậu ấy nói, những chiếc xúc tu quằn quại trên da. Tôi cảm thấy muốn ói. Rồi hai người họ tách nhau ra.
- Quả là một chuyến đi dài. - Cậu ấy nói và vươn vai, ống tay áo bị kéo lên để lộ thêm nhiều mực xăm, nhiều xúc tu hơn nữa. Nó có phủ khắp cơ thể cậu ấy không?
- Em không biết là anh lại tới. - Enola nói.
Cậu ấy rúc vào cổ con bé, chẳng bận tâm đến sự có mặt của tôi, và lẩm bẩm điều gì đó về việc cần “giải quyết nỗi buồn” rồi đi thẳng vào nhà. Enola đi phía sau cậu ấy, gần như vừa đi vừa chạy. Tôi bắt kịp con bé rồi đặt tay lên vai nó, khiến nó đứng sững lại.
- Cậu ấy là ai?
- Em đã nói với anh rồi. Doyle.
- Thế Doyle là ai?
- Doyle là một chàng trai đã lái xe cả một quãng đường rất dài bởi vì em nói với anh ấy rằng em sẽ về gặp anh trai của em. Anh hãy tỏ ra tử tế. - Con bé nói, đi theo cậu ấy và nói với qua vai - Bọn em đã quan hệ. - Chẳng có mấy thứ tàn bạo hơn là việc đột nhiên nhận thức được rằng em gái bạn đã quan hệ. Hình ảnh về cánh tay đầy những xúc tu là quá nhiều rồi. Mãi năm phút sau tôi mới có thể đi vào nhà.
Doyle đang nằm ườn trên ghế đi văng của tôi, chiếc giường của tôi. Tôi kéo chiếc ghế bành ra giữa phòng và ngồi xuống trước mặt cậu ấy. Vâng, có những xúc tu bò lên cánh tay và mặt cậu ấy. Tôi có thể nhìn thấy những đường nét rõ ràng của mỗi cái giác hình elíp. Enola đang sắp xếp xong nồi trong bếp. Chỉ còn lại tôi và Doyle. Nét mặt góc cạnh của cậu ấy có vẻ quỷ quyệt. Nếu tôi bật đèn lên, cậu ấy sẽ chạy ra phía sau chiếc ghế.
- Ông anh, nơi ở của anh thật hoang sơ. Hoang sơ. Ngôi nhà của anh như cheo leo trên vách đá vậy. - Cậu ấy lên tiếng.
- Xói mòn. Đó là vấn đề của những ngôi nhà quanh đây. - Con bé nói Bọn em đã quan hệ. Con người này đã làm tình với em gái tôi.
- Đúng, đúng, đúng là thế. - Cậu ấy cười. Một tiếng khò khè lưòi biếng - Trí nhớ của tôi rất tồi với những thứ như thế. - Cậu ấy rúm người lại. Bàn tay cậu ấy cũng đầy hình xăm. Mực? Hay bạch tuộc? - Tôi toàn ngủ trong giờ khoa học trái đất.
- Vậy là cậu và em gái tôi yêu nhau.
- Đúng, đúng thế. Đó là một cô gái sẵn sàng làm bất cứ việc gì, anh biết không. Rất tuyệt.
Tôi nhìn chằm chằm vào cậu ấy.
Enola trở lại với một hộp bánh quy mà tôi đã quên bẵng mất. Con bé ngồi phịch xuống ghế, ngồi lên người Doyle. Cả hai đều không quan tâm đến việc họ đang ở trên giường của tôi. Con bé đút cho cậu ấy một chiếc bánh quy ỉu và hỏi chúng tôi có hòa hợp với nhau không. Tất nhiên là có. Rất hòa hợp.
- Hai người gặp nhau thế nào?
- Ở thành phố Atlatic, trên Boardwalk. - Enola trả lời. Hóa ra là vậy.
- Đúng vậy. Cô ấy đang trải bài và tôi nghĩ, trời ơi, đó quả là một con chim nhỏ dễ thương.
Có thể cậu ấy không nhìn thấy một kẻ sát nhân trong tôi nhưng Enola thấy. Nó vòng tay quanh vai cậu ấy và mặt dưới cổ tay xanh xao của con bé chạm vào những giác hút của hình xăm. Tôi hỏi cậu ấy làm nghề gì.
- Tôi là Chàng trai Điện. - Tôi bắt đầu hiểu về những cái bóng ở sau xe con bé.
- Chính xác thì Chàng trai Điện là gì? - Tôi tựa lưng vào ghế, suýt làm đổ ghế. Tôi biết chuyện gì sẽ đến.
Enola xen vào trước khi cậu ấy có thể trả lời:
- Anh biết người thắp sáng bóng điện chứ?
Tôi gật đầu. Đó là một tiết mục diễn xuất điện tĩnh, thật sự tẻ nhạt, đó là thứ xuất hiện kể từ khi có dòng điện. Đôi khi nó là một mánh lới với một tấm kim loại ẩn, đó là cách họ thực hiện tiết mục ghế điện. Chẳng có gì đặc biệt cả.
- Doyle có thể thắp sáng một bóng đèn 100 watt bằng miệng và ba bóng đèn như vậy ở mỗi bàn tay. - Enola nói.
Đó lại là một chuyện khác.
- Thật ấn tượng.
- Anh ấy thực hiện màn trình diễn cầu thủy tinh với những chiếc bóng đèn khi chúng đang sáng. Đẹp vô cùng.
- Ừ. - Một người đàn ông đầy những hình xăm xúc tu trên cơ thể biểu diễn nghệ thuật cầu thủy tinh nghe có vẻ thật hay ho.
- Tôi sẽ diễn cho anh xem. Chim Nhỏ, em để bóng đèn ở đâu thế? - Cậu ấy bắt đầu ngồi dậy, song Enola lắc đầu.
- Đừng bận tâm. - Con bé nói, và Doyle nhìn nó - Anh có thể biểu diễn cho anh ấy xem vào khi khác, được chứ? Mà anh có tình cờ mang theo bia không nhỉ? Em thèm bia quá!
- Chắc chắn rồi. - Doyle nói và biến mất khỏi phòng.
Enola nhoài người về phía trước, tay đặt lên đầu gối, và tôi lại nhìn thấy hình xăm trên cổ tay con bé. Một con chim nhỏ. Lạy Chúa tôi!
- Hãy thôi cái việc là một kẻ khốn đi và hãy giả vờ anh thích anh ấy. Vì em, được chứ?
- Anh không phải là một kẻ khốn, anh là anh trai em.
- Chà, nghe thật mới mẻ đấy. - Con bé cáu kỉnh nói. Đúng là vậy. Tôi đã là một bậc phụ huynh, chứ không phải một người anh trai.
- Chỉ là anh quan tâm thôi, được chứ? Anh chẳng biết gì về cậu ấy cả. - Hoặc là cả Enola cũng không biết về cậu ấy.
- Chỉ một lần thôi, anh có thể tử tế một chút không?
- Anh sẽ cố.
Doyle nhảy vào phòng, tay cầm một lốc sáu lon bia.
- Anh có muốn một lon không?
- Chắc chắn là có rồi. Cảm ơn! - Ngón tay có hình xăm của cậu ấy bật mở một lon bia, và tôi chỉ có thể nghĩ về việc có những cái kim ở quá gần lòng móng như vậy. Cậu ấy bắt gặp tôi đang nhìn chằm chằm mình, vì thế nên tôi hỏi:
- Có đau không?
- Đau chứ. - Cậu ấy mỉm cười và va hai hàm răng vào nhau.
- Bia ngon đấy! - Tôi nói. Nó có vị như nước đái ấm.
Chúng tôi uống bia trong im lặng, tôi thích thế. Sau một lượt khác, hai người họ bắt đầu tán gẫu với nhau. Những cái tên được gọi ra - bạn bè, thành phố, thị trấn. Enola cười khúc khích, khác hẳn con bé mà tôi nhìn thấy tối qua. Tôi liếc nhìn cuốn sách. Tôi đang bỏ lỡ điều gì đó.
Không ai quan tâm khi tôi lật giở vài trang sách. Sau đó, Enola kéo cậu ấy đến dốc đứng để ngắm mặt trời quét xuống làn nước. Tôi bị bỏ lại với đống sách của mình.
Thỉnh thoảng âm nhạc tràn vào, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy mặt trăng và ánh sáng hình vòm phát ra từ xe Enola. Đường vào nhà tắm trong ánh sáng màu xanh, hai người họ đang khiêu vũ. Con bé đang di chuyển điên cuồng, khuỷu tay vung vẩy, hông nhảy điệu simmi, múa may và bùng nổ. Mồ hôi túa ra khắp người con bé, ngốn ngấu ánh trăng khi nó áp vào người cậu ta. Doyle đổ người lên con bé như thể hai người họ được gắn với nhau bởi một lớp mực mỏng. Chiếc xe rung lên vì tiếng nhạc bass. Tiếp đến là một bài hát chậm hơn, và họ áp da với da, ngón tay đan vào nhau. Họ không biết tôi ở đây. Như thể họ không bao giờ biết.
Alice nghe điện thoại, giọng nói êm dịu, có vẻ buồn ngủ:
- Chào anh. Có chuyện gì vậy?
- Em có muốn ra ngoài không? Em có muốn đi uống chút gì đó không? Anh muốn uống.
Cô ấy ngáp, và tôi nghe thấy tiếng hàm của cô ấy đập vào ống nghe:
- Mai em phải làm việc. - Tiếp đó là một sự im lặng ngắn ngủi giữa hai chúng tôi trước khi cô ấy nói thật nhanh - Em xin lỗi. Có vẻ như điều đó không đúng lắm. Có chuyện gì vậy?
- Chẳng có gì cả. Anh đoán chỉ là anh thấy hơi mất yên tĩnh một chút. Bạn trai của Enola đến chơi. Có quá nhiều người trong một ngôi nhà nhỏ. - Tôi không bao giờ để ý đến chuyện cả bốn người nhà chúng tôi đã từng sống ở đây.
- Còn em thì đang hy vọng anh nói là anh nhớ em đấy.
Tôi có nhớ cô ấy. Tôi nhớ cô ấy bước lên những bậc cầu thang thư viện. Tôi nhớ cô ấy viết kế hoạch chương trình trên một tấm bảng trắng và nét vòng của chữ g thường của cô ấy. Tôi nhớ Alice mà tôi không được thấy nữa.
- Xin lỗi! Anh vừa mới nghỉ. Thật kỳ cục khi thấy điệu nhảy giao phối của em gái anh.
- Em chưa bao giờ cảm thấy may mắn khi là con một cả. - Cô ấy lại ngáp và tôi biết tôi nên để cho cô ấy đi ngủ - Ngày mai được không anh? Em hứa.
- Được rồi. Được rồi. - Và rồi cô ấy dập máy. Tôi đã có thể nói với cô ấy chuyện tiền bạc, số tiền tôi cần, song tôi đã không nói. Tôi định nói, nhưng đã không làm thế. Tôi bật máy tính và viết vội một email cho Liz Reed để hỏi xem liệu tình hình ở Đảo Bắc có biến chuyển gì không, công việc bán thời gian đó sẽ ổn thoả nếu không có gì thay đổi. Hộp thư đến của tôi trống trơn ngoại trừ một lá thư trả lời đơn độc cho một vị trí làm việc. Vị trí điều phối viên liên thư viện tại Commack đã có chân trong. Tôi lướt qua chương trình quản lý danh sách thư tín để xem có những thay đổi hay những vị trí mới nào không. Tôi nghĩ đến những chức danh tôi có thể tự gọi mình: Chuyên viên tin học, kỹ thuật viên tin học, quản lý nguồn thông tin - tôi có thể là bất cứ thứ gì mà công việc muốn tôi trở thành. Cuối cùng những từ ngữ mờ dần và có cát phía sau mí mắt tôi.
Tôi tỉnh dậy nhưng không thấy ánh mặt trời mà thấy ánh sáng trong cửa sổ, rung động như một nhịp tim. Doyle đang ở lối vào nhà, đó là một bóng hình chuyển động ngoại trừ hai bàn tay, trên đó là hai bóng đèn 40 watt sáng rực. Cậu ấy xoay tròn bóng đèn, giữ thăng bằng, đưa chúng lên mu bàn tay bằng những làn sóng êm dịu. Chiếc bóng đèn nóng sáng lăn tròn chiếu sáng một phần nhỏ hình xăm, đó là một thợ lặn chiếu một ngọn đèn vào trong bóng tối. Những xúc tu uốn lượn và gợn sóng lăn tăn. Một luồng ánh sáng, cử động, rồi biến mất. Bóng đèn lăn trên ngực cậu ấy, chiếu rõ khuôn mặt cậu ấy trong chớp nháy. Hàm răng trắng. Rồi đen. Ánh sáng di chuyển, Doyle kéo căng người, khiêu vũ. Ánh sáng nhấp nhô chiếu qua em gái tôi, đang tựa người vào xe. Quan sát.
Cậu ấy đang biểu diễn. Cho con bé.
Tôi đứng nhìn cho tới khi tôi cảm giác như mình đang do thám, rồi kém tấm mành mành lại. Ánh sáng xuyên qua. Tôi đi tới chỗ đống sách, tới cuốn sổ của tôi và những cái tên. Đã đến lúc cần tính toán một chút. Verona Bonn sinh năm 1935, mất vào năm bà ấy hai mươi bảy tuổi. Mẹ bà ấy, Celine Duvel, mất năm 1937, khi Verona hai tuổi - bằng tuổi Enola khi mẹ chúng tôi mất. Cáo phó của Celine không liệt kê ngày sinh. Tôi tìm kiếm một chút trên máy tính và thấy có một tờ giấy đăng ký kết hôn giữa Celine Trammel và Jack Duvel.
Bà ấy sinh vào ngày 13 tháng 2 năm 1915, nghĩa là bà ấy mất khi hai mươi lăm tuổi. Chết trẻ, song không giống như mẹ tôi và bà tôi. Không, có điều gì đó khác biệt.
Điện thoại reo inh ỏi. Đó là Churchwarry.
- Tôi hy vọng là tôi không đánh thức cậu. - Ông ấy lên tiếng. Cả hai chúng tôi đều biết không phải vậy, song tôi vẫn lịch sự trấn an ông ấy.
- Không, không sao mà. Có chuyện gì vậy?
- Đêm hôm và một con chó già. Sheila không thể ở yên cả đêm mà không đi dạo và Marie nghiễm nhiên coi đó là nhiệm vụ của tôi. Dạo này khi nào thức dậy là tôi tỉnh luôn.
Tôi hiểu cảm giác đó.
- Tôi tìm thấy một cuốn sách mà tôi nghĩ là cậu có thể thấy hữu dụng. Tôi băn khoăn không biết nên gửi nó cho cậu thế nào là tốt nhất đây. Nó khá là nặng.
- Gửi chuyển phát nhanh.