Số lần đọc/download: 102 / 66
Cập nhật: 2020-06-24 21:49:52 +0700
Chương 9
C
uối cùng Amy Parker đã sinh con, hàng xóm nhào nặn khuôn mặt cho ra cái vẻ chúc mừng và hoan hỉ, dĩ nhiên đây hoàn toàn là một việc bình thường. Biết bao phụ nữ đã trở dạ và sinh con, sau khi giặt giũ, hoặc nướng bánh xong, hoặc sau buổi lễ nhà thờ trong buổi sáng nóng nực mà hoàn toàn chẳng ầm ĩ gì cả. Nhưng Amy Parker thầm tự đắc vì hành động của chính mình. Chị bước quanh trong bóng râm bao quanh căn nhà, và lúc này chị thực sự là trung tâm của vũ trụ. Ánh sáng tụ hội vào cái kén trắng tinh chị đang ẵm trên tay; đàn chim dò xét nó với vẻ quan trọng huyền bí khi chúng liệng lơ lửng trên đó, gần như rối rít, hoa lá nghiêng mình trên đầu người thiếu phụ bế con hoặc ban phúc lành bằng những cái vẩy đũa phép đầy rộng lượng mỗi khi có cơn gió nhẹ.
- Chị có con thật tuyệt, - bà trưởng trạm bưu điện nói, ấn ngón tay cái vàng khè vào miếng bọt biển khô. - Có bạn rồi đấy. Cháu ngoan không?
- Cháu ngoan, - Amy Parker nói. - Chỉ có thỉnh thoảng cháu bị trái nắng giở giời. Hôm thứ Sáu cháu khó chịu. Do nóng quá, nên cháu bị đi tướt.
- À, - bà trưởng trạm bưu điện nói qua vành mũ ngay ngắn, bằng một giọng dành cho những vấn đề của người khác. - Bị như thế thì phải thuốc thang gì đấy.
- Ồ, - Amy Parker trả lời, - tôi biết cần cho cháu cái gì rồi. Và cháu ổn rồi. Mà bà Gage ạ, cháu là một đứa bé khỏe mạnh.
Đứa bé thừa hưởng thân hình của vợ chồng chị. Chị thường bỏ tã lót ra nhìn vào thân thể trần trụi, khỏe mạnh của nó. Chị gọi nó là Ray. Đỏ là cái tên mà trước đấy chị chưa hề nghĩ đến, mà cũng chẳng nghe đến nhiều, nhưng chị thấy nó hợp với miệng mình, cả với cậu bé tí teo, hoàn hảo, nằm trong ánh nắng ban mai vàng rải trên chiếc giường trải rộng. Ánh nắng lấp lánh trên miệng chú bé và những sợi tóc tơ đầu tiên.
Giờ đây căn nhà như đượm hơi ấm, hiền dịu của đứa bé, nên người bố càng ngại ngùng hơn khi bước vào nhà. Anh hân hoan trong lòng, miệng ngân nga một mình, và nện chân trên con đường lát gạch dẫn đến nhà bếp, khiến những hòn đất bám vào đôi ủng long ra, khiến cây hoa vân anh cũng phải rùng mình. Sau đó anh ngạo nghễ đi vào, hoặc dường như là thế, thẳng đến chỗ đứa bé nằm trong nôi hay trên cánh tay bà mẹ, và nhìn thẳng vào mặt nó. Để cho xong chuyện. Đứa bé đáp lại cái nhìn chăm chăm của bố nhưng lại chẳng hé lộ chút nào bản thân qua đôi mắt hời hợt, trong sáng ấy. Những cái liếc nhìn và những nét thể hiện của nó để dành cho mẹ nó. Cái cuống rốn còn chưa bị cắt đứt. Nó không thừa nhận mà chỉ chịu đựng người bố, hình như cảm thấy sự e dè ngại ngùng giữa tấm thân cứng rắn của người bố và tấm thân mềm mại, nhưng cũng đầy quyền uy của chính nó. Nó nhìn người bố với vẻ ngạo mạn nghiêm nghị, thuyết phục hơn.
- Xem ra mọi thứ đều ổn cả, - người bố thường nói.
Đoạn anh quay lưng lại, vui sướng vì sự giải thoát này. Về sau - anh tự nhủ - anh sẽ chuyện trò với nó, và dạy nó làm mọi thứ. Hai bố con sẽ đi vào rừng, xách theo cái rìu hay khẩu súng, và sẽ có nhiều điều để trao đổi. Họ sẽ lau mồ hôi trên mặt, vốc nước lạnh lên uống rồi trở về vào buổi tối với xác con cáo mà cậu con trai đã bắn được. Không rõ liệu anh có truyền đạt nổi cho con trai cái run rẩy của tâm hồn mình trước bờ vực của sự khám phá điều mới mẻ hay không. Mà liệu anh có muốn không. Có lẽ anh sẽ đâm nghi ngờ bộ mặt rắn rỏi, tò mò của đứa bé khỏe mạnh.
- Anh chẳng bao giờ đụng vào con cả, - người mẹ nói. - Em nghĩ anh chẳng yêu con chút nào, - vừa nói, chị vừa ẵm đứa bé, mà riêng một mình chị yêu cũng đủ rồi.
- Anh phải làm gì? - Anh hỏi và giơ hai bàn tay trống rỗng ra. - Anh có thể làm gì với một đứa bé được nào?
Đứa bé là một khái niệm trừu tượng, vẫn còn là một ý tưởng mà ta chưa có thời giờ để điều chỉnh lại cho khớp với những ý nghĩ và thói quen của ta.
- Anh có thể làm gì à? - Chị hỏi. - Hừm, anh có thể ăn nó!
Chị có thể làm được. Chị yêu nó bao nhiêu cũng không đủ được, thậm chí kể cả bằng những cái hôn từ từ, ngấu nghiến. Thỉnh thoảng cặp mắt ướt của chị hầu như khao khát muốn có nó trở lại trong bụng mình.
- Anh thì anh sẽ đặt nó xuống, - người bố nói. - Cứ vầy nó mãi không tốt cho sức khỏe nó đâu.
- Anh thì biết gì? - Người mẹ nói. - Nó ở bên em là an toàn rồi.
Nhưng “an toàn” là một từ lạc quan. Đôi bàn tay chị sẽ rút khỏi đứa bé chị vừa đặt nó ngủ, và tương lai đang lớn lên từng ngày trong căn nhà, làm xáo trộn hiện tại. Chị trở nên bất lực.
Người bố và người mẹ thỉnh thoảng ngắm con ngủ, và bằng cách đó họ lại gắn bó với nhau, nhưng khi nó tỉnh, sự gắn bó đó không còn. Thoát khỏi cuộc đời thứ ba ám ảnh này mà họ hình như tạo nên, những cuộc đời mà họ đã sống và hiểu trở nên đơn sơ như tấm bìa. Sự âu yếm không khó bằng tình yêu. Nhưng đứa bé đang ngủ, cựa quậy đầu, bố mẹ lại bị một nỗi sợ hãi mơ hồ ám ảnh, đối với mẹ thì sợ không biết có chống chọi nổi bão tố của tình yêu không, còn người bố thì sợ sẽ mãi mãi là một người xa lạ với đứa con trai.
Đồng hồ tích tắc trong nhà bếp. Đó là một cái đồng hồ xấu xí, bằng đá cẩm thạch màu sẫm, mà ban đầu họ rất tự hào. Đứa bé lớn lên, rắn rỏi và hào nhoáng, nó thường đòi bế bổng lên ngang chiếc đồng hồ để nhìn nó chạy. Rồi nó ép đôi môi đỏ vào tấm kính và như uống cạn những phút giây, khiến trong chốc lát sự xấu xí được nuốt trôi và mặt kính đồng hồ bị mờ đi, trước đôi má rạng rỡ ánh vàng của đứa bé. Một hôm vào lúc nó đã biết chạy vững và trở thành một tai họa, cái đồng hồ chết vĩnh viễn, và chính vào khoảng thời gian này, Amy Parker có đứa con thứ hai.
Lần này khó khăn hơn. Việc gì sẽ xảy ra nếu như mình không mẹ tròn con vuông? Chị tự nhủ, nhớ lại những đứa con mà chị đã sẩy, rồi co rúm người lại một cách tuyệt vọng, không một chút tin tưởng. Có những hôm chị kiệt sức, người vàng vọt gớm guốc, cứ như những mong cho đứa bé ra đời, và thấy một sự thương cảm thể hiện nơi miệng chồng mình khi anh áp cái hôn lên gáy chị.
- Không lý nào lại có gì trục trặc đâu. - Anh nói. - Em đã sinh được con trai rồi còn gì.
Trước đây anh cũng nói những lời đó, nên nghe thấy thế, chị chỉ nhoẻn miệng cười gượng gạo. Chị thường lôi những công việc lặt vặt tẻ nhạt vào trong lòng, hoặc ngồi áp má mình vào má con, hằn in chút hơi ấm vào da thịt mình. Chị thường đợi cho chồng ra khỏi phòng, vì những lúc này nhất thời anh trở nên dễ ghét. Chị thù ghét những đường gân trên cánh tay lực lưỡng của anh.
Khi chị lắng sâu vào những ưu tư của mình, Stan Parker gần gũi với đứa bé hơn. Anh thường đánh bạo chạm vào nó thường xuyên hơn, và đôi lần đã nhìn sâu vào mắt nó, như tìm kiếm một vùng đất nào đó mà anh có thể nhận ra. Nhưng gương mặt trong sáng của nó cười vang, và rồi nó hét lên, ngọ nguậy khoái chí khi đụng vào chòm râu tua tủa trên cằm của ông bố. Dần dà người bố quen với đứa bé, thậm chí còn quên cả sự có mặt của nó khi nó ngồi chơi với những hộp sắt tây, hay hòn đá, hoặc những bãi phân bò đen khô cứng. Đứa bé mỗi ngày một bẩn thỉu hơn vì xa mẹ. Nếu có ai đến trang trại, mà là kiểu người ưa bình phẩm, họ thường nói: “Thằng bé nom nhếch nhác quá!” Nhưng thằng bé hài lòng và vẫn khỏe mạnh. Lúc nào thấy mệt, nó lăn ra ngủ. Có lần ông bố tìm thấy nó trong thùng rơm và lôi nó ra như lôi một con mèo ấm hơi và hãy còn ngủ rũ, bụi rơm vàng rơi lả tả.
Chẳng bao lâu cái sau khi đồng hồ xấu xí trong nhà bếp ngừng chạy, và Amy Parker sinh đứa con thứ hai. Họ vời bác sĩ từ Bangalay đến. Lần này chị ốm. Nhưng cuối cùng chị thấy rằng mọi thứ vẫn đâu vào đấy, rồi chị ngồi dậy, và ẵm đứa con mới sinh đi lại trong bộ quần áo kỳ lạ, một đứa con gái hay quấy, bọc trong cái khăn quấn mà chị hàng xóm Doll Quigley đã đan cho thằng bé.
Mọi người lại đến nhân dịp sinh đứa bé, uống trà, la ó ầm ĩ và nói về bản thân mình, rồi ra về. Nhưng Doll Quigley và cậu em trai Bub chỉ đến và đứng nhìn. Họ giống như bàn ghế, hay đúng hơn là những cái gióng cửa, cái khung gỗ dài ngoằng. Đôi lúc Doll bồng đứa bé, những nếp gấp trên chiếc khăn quấn rủ xuống khỏi cánh tay dài ngoẵng của chị ta như những nếp uốn lượn dài của gỗ chạm trổ, như thể chị ta không ẵm đứa bé theo bản năng, mà theo mẫu của một nhà điêu khắc lương thiện nào đó.
Amy Parker vội ôm lấy đứa bé và kêu lên: “Ôi chao, Doll, cô vụng ơi là vụng!” Và vội cuốn lại khăn theo kiểu yêu thích của chị.
- Đúng đấy, tôi vụng lắm, - Doll Quigley nói. - Trước đây tôi cũng vụng lắm, mẹ tôi vẫn thường bảo vậy. - Rồi xoa hai bàn tay vào nhau, phát ra tiếng thô như gỗ.
Chị em nhà Quigley dường như tương phản giữa tình yêu và cái nóng nực mùa hè mà giờ đây Amy Parker cảm thấy, bản thân chị trông cũng tròn trặn và ấm áp khi bế đứa bé trên tay, nó ngả đầu vào váy chị. Cuối cùng chị cũng như con suối triền miên. Không ngừng chảy. Bộ ngực to đầy đặn của chị trở nên ngạo mạn trong niềm thỏa mãn. Chị vất vả lắm mới có thể ngước lên nhìn những hình thù của Doll và Bub.
Song Doll Quigley tràn đầy tình yêu. Chị ta sẵn sàng chịu đựng nếu được yêu cầu. Nhưng chẳng ai yêu cầu.
Thế là chị ta cầm chổi đưa những nhát dài quét rác rưởi và bụi bặm quanh chân Amy Parker, khiến chị nhíu mày vì thấy hành động đó quá khiêm nhường.
- Không sao đâu, Doll, - chị nói. - Cứ để đấy. Tôi cũng biết là mình bê trễ quá, nhưng rồi sẽ đâu vào đấy thôi.
Chị nhíu mày và đưa mắt qua cửa, nhìn chỗ bóng râm của cây tiêu nơi Bub Quigley đang chạy chơi với con trai chị. Lúc này sự xuềnh xoàng của Bub nom gớm ghiếc, mái tóc chưa mọc ra hàng ra lối trên bộ mặt xanh nhợt, cái mồm lệch pha với lời nói. Giờ đây Amy Parker không biết mình vừa thoát khỏi điều gì, nhưng chị biết đang tồn tại cái gì đó, mà chị ghét cay ghét đắng.
- Này, - Bub nói, - đây là cái lá. Nhìn thấy chưa? Nhưng là lá trơ xương. Mày, có thể nhìn xuyên qua được. Nó như bộ khung xương con cừu, hay con bò, có điều đây là cái lá. Chị tao bảo nó làm bằng đăng ten. Một cái lá đăng ten. Từ một cái cây đăng ten.
Chú bé giơ cái lá lên trước mắt. Chú thật là đẹp.
Bub Quigley thấy thế, cười vang.
- Cháu muốn chiếc lá, - chú bé nói.
- Không được, - Bub nói. - Đó là lá của tao. Thứ tao thích nhất đấy.
- Ray, - người mẹ gọi, - giả cái lá đi và vào nhà ngay.
- Của cháu cơ, - chú bé nói, khóc òa và nhảy cẫng lên. - Của cháu. Của cháu.
Nó hờn dỗi ầm ĩ như một cơn bão.
- Chúng mình sẽ kiếm chiếc lá khác, Bub, - người chị nói. Chị hiểu rằng trên đời này chẳng có vật gì quan trọng cả.
- Nhưng đây là cái lá tuyệt nhất, - cậu em nói.
Cái lá đó là tác phẩm huyền bí, kỳ lạ nhất cậu ta giữ trong quyển sách của người ông mà không ai đọc cả. Cậu ta không thể từ bỏ cái lá đó. Những vòng tròn của sự huyền bí, của cái đẹp và sự bất công lan tỏa khắp người cậu, khiến cho mặt cậu méo xệch. Cậu ta rên rỉ.
- Ôi giời ơi! - Amy Parker kêu lên.
Chị chạy ra đánh con mình, không phải là trừng phạt nó, mà là vì kinh tởm chị em Quigley, thằng bé bắt đầu rống lên khóc và quẳng cái lá xuống đất.
- Kia kìa, Bub, - Doll nói.
- Nó rách rồi, - cậu ta mếu máo. - Rách bươm ra rồi. Chẳng dùng được nữa.
Cậu ta lê bước bỏ đi, giống như cái ô bị ai giẫm nát.
Nhưng Doll Quigley chỉ mỉm cười, bởi vì chị ta chẳng làm gì khác được.
- Xin lỗi, Doll, - Amy Parker thì thầm, dẫu làm thế có vẻ ngớ ngẩn, và cả câu chuyện ầm ĩ ấy nữa, mà chị biết nói gì được. - Cháu nó mệt và quấy lắm. Mới lại tôi phải cho cháu bé bú, chị thứ lỗi nhé!
Tống khứ chị em nhà Quigley ra khỏi sân, chị biết rằng mọi chuyện sẽ kết thúc nhanh chóng và mình đúng là bà chủ.
Chẳng mấy chốc chị lại một mình bên các con, và ngay cả chồng chị cũng không thể phủ nhận chủ quyền của chị. Trong khi cho con bú, chị đã quên chồng mình đang quanh quẩn ngoài nhà với những thứ cần làm. Công việc của anh là tránh xa khi đứa bé đang bú và thằng con trai bắt đầu ngủ gà ngủ gật trên giường. Nếu ông bố có vào nhà vào thời điểm này, mà cũng may là anh không vào, chắc hẳn người mẹ đã nhướn vai xua anh đi, để che chở những cử chỉ thanh bình và thân thiết chỉ chị được ngắm nhìn, hoặc để che chở cho con chim run rẩy trong bụi thục quỳ. Dĩ nhiên chẳng ai công nhận những điều này. Người mẹ thường đi đến, vừa cười vừa đặt hai đứa con vào tay người cha, làm anh phải chấp nhận tình phụ tử mà anh vẫn còn e ngại. Chị có thể làm như thế vì những khi đó chị nhận thức được sức mạnh của mình. Mặc dù đôi lúc, đặc biệt vào buổi tối, khi các con đang ngủ và quần áo của chúng treo trên dây trong bếp, người vợ từ chỗ người mẹ ngồi đứng dậy vào trong phòng, băn khoăn không hiểu người bố, cũng là chồng chị, có còn nhận ra chị không. Rồi đến lượt anh cười nhạo trước sự ngần ngại. Thường anh làm ngơ sự chần chừ ngại đến gần của chị, bởi vì anh mệt mỏi hay vì những đứa con đang ngủ, vốn cũng là thành quả của anh, và giờ anh thấy yên lòng trước ý nghĩ đó.
Nhưng thế mạnh gần như lúc nào cũng thuộc về chị. Nó tự tin chảy ra từ bộ ngực chị, và thân hình mỏng manh của đứa bé đón nhận lấy chút sức mạnh dịu hiền ấy, còn đứa con trai gọi mẹ trong giấc mơ đã được bàn tay chị vỗ về.
Có lần khi cho con bú, Amy Parker đang cởi cúc áo, còn thằng bé đang dụi đôi mắt mọng lên cho hết ngái ngủ lúc nó lăn lộn trên giường, thì có tiếng xe kêu lạo xạo, có người nào đó đến, và loáng một cái đã thấy chị O’Dowd.
- Ồ, ra là chị đang ở với các cháu, - chị hàng xóm, vẻ hơi câu nệ, cô ngoái vòng quanh, nói một đàng nhìn một nẻo.
- Hầu như suốt ngày tôi ở nhà với các cháu, mà tại sao lại không nhỉ? - Amy Parker nói, lúc này đã chỉnh trang áo xống.
- Ừ, sao lại không, - người bạn nói. - Nuôi con thì phải mất thời giờ, rõ ràng là thế, bản thân tôi cũng biết vậy, dù cho chỉ qua việc nuôi đàn lợn con và đàn bê non.
Amy Parker dẫn người bạn vào nhà, người mà bấy lâu nay chị không gặp, dẫu cho chị không biết tại sao.
- Cũng vì lý do này nọ, - chị O’Dowd nói, - bản thân cũng thấy mình có lỗi và sốt ruột muốn giải thích. - Anh ấy lại say bí tỉ. Thế rồi nhà bị đổ, bọn tôi phải dựng lại mất mấy tháng, có cải tiến thêm, và dán giấy lại cái buồng tốt nhất. Đủ đẹp để hưởng tuần trăng mật, ấy vậy mà tôi lại vớ phải cái gã nát rượu chết tiệt. Chị đến tham quan đi. Có cả giấy dán tường in hoa hồng. Chị sẽ thấy. Mà chắc chị nhận ra là tôi vừa nhổ mấy cái răng. Một ông đi du lịch ghé qua nhà, tôi liền tranh thủ nhờ anh ta nhổ hộ. Nhổ hết, trừ một cái. Tôi không thể nào nhổ cả cái của nợ đó được. Không được, chừng nào cả đời tôi còn phụ thuộc vào nó. Chị ạ, nhẽ ra chị phải thấy cái cảnh máu me be bét ấy, mà cái anh chàng tội nghiệp đó phải chống một chân vào tường, lấy hết sức bình sinh như một con bò đực. Ôi, thật kinh khủng, - chị O’Dowd nói. - À, cháu trai đây hả. Trông nó khỏe mạnh lắm, chẳng mấy chốc lại làm được ối việc. Còn đây là cháu gái.
Chị O’Dowd trước đây đã nhìn thấy thằng bé khi nó vừa mới cai sữa xong, lúc này chị cố giữ im lặng cho bé gái, nó đã lẻn qua người chị, có lẽ là vậy, không hiểu vì lý do gì, nhưng chắc có lẽ vì những cái răng.
- Nó nhỏ hơn cháu trai, - chị ta nói. - Mặc dù con gái thì phải nhỏ hơn thôi.
- Cháu ngoan lắm, - người mẹ nói, rồi lại quan sát kỹ gương mặt đứa bé.
- Mà nước da cũng không đẹp lắm. Chắc đấy là do khí trời nóng nực. Khi mùa thu đến, ai cũng có nước da đẹp hơn.
Amy Parker bắt đầu thấy khó chịu trước sự có mặt của một người bạn có thể biến con mình thành một đứa bé mảnh mai yêu đuối trước mặt chị.
- Chị ăn bánh nhé, uống trà nhé, chị O’Dowd? - Chị mời, vẫn tỏ ra lịch thiệp. - Cũng hơi cũ rồi, nhưng chị đến bất ngờ quá. Lâu lắm rồi, nên tôi có hơi sơ suất.
- Con cũng muốn ăn bánh, - thằng bé hồng hào kêu lên.
- Ừ, cháu sẽ được một miếng, - chị O’Dowd nói. - Và cả một cái hôn nữa.
Nhưng thằng bé bắt đầu nhìn chị ta, nhét cả miếng bánh vào mồm, sợ chị ta thay thế bằng những cái hôn. Nó nhìn mũ chị, có đính con bướm bằng đá sáng lóng lánh, rồi nhìn cái mặt dúm lại chỉ toàn lợi là lợi của chị.
Chị ta thấy lúng túng, thậm chí buồn bã.
- Bọn con trai không bao giờ thích chuyện hôn hít. Sau này thì có đấy, nhưng chỉ đến mức nào thôi. Thật buồn cười.
Một bó hoa hồng cô dâu to treo trên khung cửa sổ, chị ta nhìn thấy khi cặp mắt thằng bé buông tha chị. Đó là những bông hồng giấy lớn của các cô dâu thôn quê.
- Chính những cô gái khát tình mà lại làm bộ tịch và chối nguây nguẩy.
Trong lúc ấy thằng bé vẫn ngồi nhai tóp tép và nhìn, cho đến lúc người đàn bà béo ị ý thức được èo uột của mình.
- Cháu cứ ngồi mà nhìn cho đến Chủ nhật, cháu sẽ thấy gì, hả cậu con? - Cuối cùng chị ta nói.
Chị chẳng bao giờ lo sợ chuyện xấu xảy đến với mình, kể cả trong bóng tối, hay dè chừng thiên hạ. Chị cũng nhớ lại một đám tang mà chị thấy từ cửa sổ tầng trên khi đang chùi sạch bọt xà phòng trên cánh tay. Có một cô gái tên là Beatrice, cùng cảnh ngộ với chị, bèn nắn lại mũ cho cho ngay ngắn và pha trò về một người đàn ông chết như những bông hoa hồng quý giá tàn lụi dưới cơn mưa dầm.
- Hả? - Chị hỏi. - Cháu nhìn thấy gì nào?
- Thế mấy cái răng bác để làm gì? - Thằng bé hỏi, mặt ngơ ngác đầy vụn bánh.
- Ồ, bác bỏ vào một hộp sắt tây, - chị ta nói và thở dài, - Giữ đấy, đến một ngày nào đó bác sẽ buộc chúng vào một sợi dây bạc, đeo cùng với bộ quần áo đẹp nhất của bác vào những dịp đặc biệt.
Thằng bé giấu mặt vào lòng mẹ, vì nó không biết người ta có cần đến mình nữa hay không?
- Thôi, chạy chơi đi con, - người mẹ nói, - chơi gì cũng được. Luẩn quẩn ở đây làm gì. Chơi bên ngoài tốt hơn.
Thằng bé miễn cưỡng bỏ đi, đôi mắt vẫn còn đăm chiêu về những ý niệm thoáng qua về cuộc đời mà nó vừa được tiết lộ.
Sau đó, Amy Parker ngồi xuống hàn huyên với bà bạn, uống cạn ấm trà, cạn cả mối tình thâm. Bà bạn lần lượt làm cho chị cảm thấy thỏa mãn, lo âu, khinh khỉnh, tha thứ, kẻ cả, ngốc nghếch, trong trắng, đạo đức giả, cười khúc khích, chán ngấy, hồi hộp, chiếm hữu, thậm chí tàn bạo; song tất cả những giai đoạn này đều là hiện thân của con người thật của chị, con người đã yêu những cuộc sống mà họ cùng chia sẻ trên con đường lún vệt bánh xe, nằm giữa hai hàng cây xơ xác. Hai người đàn bà ngồi, mũi lấm tấm mồ hôi do nói nhiều hoặc do nước trà, trước tiên rịn ra từ lỗ chân lông của họ, sau đó chỗ nào cũng như vậy. Dĩ nhiên, phải đúng lúc. Hoặc ta quay lưng vĩnh viễn với những ai đã chứng kiến tuổi trẻ của ta, hoặc ta sẽ công nhận sự trần trụi của nó, và thậm chí sự hổ nhục cũng có nỗi buồn man mác ngọt ngào. Vậy là hai người đàn bà lại nhớ đến hôm đánh xe ngựa đến Wullunya trong cơn mưa, và người đàn bà béo tốt chăm sóc người kia vào cái đêm chị bị sẩy đứa con đầu tiên, cái đêm con bò Julia chết.
- Chậc, chậc, - chị O’Dowd thở dài qua cái miệng móm mém khi đã kể hết mọi thứ. - Tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng chị lại thích nuôi con, chị Parker ạ.
- Có dự định cả, chị ạ, - người mẹ thì thầm.
Vì chị không biết nói gì, câu trả lời của chị mang lại một niềm tin dứt khoát có thể gây tổn thương, mà đã gây rồi thì phải.
- Vậy dự định ấy của ai, - chị O’Dowd nói, - rất lâu rồi không con cái gì. Rồi đùng một cái hai đứa con. Chà, xin chúc may mắn, Chúa ban phúc lành cho các cháu.
Sau khi chúc phúc lần cuối, chị ta đứng dậy, lào khào nói gì đó, vụn bánh rơi lả tả khỏi áo.
Nếu Amy Parker cứ tiếp tục ngồi, chẳng qua vì cây hồng lâu năm đã bắt rễ và trơ trơ ra đó. Những bông hồng to màu trắng sữa gật gù trên khung cửa sổ. Chị bắt rễ sâu vào quá khứ, như những bông hồng. Đó là sự cứu vớt của chị dù cho ai nói gì chăng nữa, song chị vẫn ngồi, nhúc nhích và gà gật ngủ, nhưng không thể vượt qua số phận, dù cho người bạn láng giềng vẫn đợi. Chị đã lớn lên đầy đặn và nhu mì từ trong quá khứ, thậm chí cô con gái bé nhỏ của chị cũng phải đợi những bông hồng, rồi trong lúc gật gù và động đậy, tâm trí chị lại bện xoắn, quanh co suốt đêm trăng, những bông hồng hé miệng nửa như nói, nửa như mơ.
- Rõ ràng chị may mắn, không chối vào đâu được, - người bạn nói.
- Chỉ có cô bé đây là tôi thấy lo lo, nếu như nó là con tôi, mà thực tế là không phải.
- Cháu bé chẳng làm sao cả, - Amy Parker trả lời, đứng bật dậy khỏi ghế. - Chẳng làm sao cả. Tôi đã nói chị hay rồi còn gì.
- Chẳng việc gì đâu, - chị O’Dowd nói, - nhưng nó xanh xao.
- Sao chị biết, chị O’Dowd? - Amy Parker hỏi. Giọng chị nghẹn lại.
- Dĩ nhiên, tôi chẳng biết gì, nhưng có những lúc những người tưởng như chẳng biết gì mà hóa ra lại biết.
Hai người ra đến cửa, chẳng mấy chốc đã bước trên con đường bao năm nay đã chứng kiến tình bạn của họ. Có mùi hoa hương thảo khi họ đi qua, và mùi cỏ bị giẫm nát phảng phất mùi mèo, tất cả đè nặng lên ngực.
- Nói chuyện với chị thú vị lắm, - Amy Parker nói.
- Tôi chỉ nói chuyện tào lao ấy mà.
- Tưởng như tào lao, mà không phải vậy.
- Một cậu con trai kháu khỉnh. Nhưng con trai chúng độc lập lắm. Ban đầu nó thuộc về mình. Quay ngoắt chỗ khác. Nó đã bỏ đi rồi.
Amy Parker cong môi. Khắp nhà chị là những đứa trẻ chị đã sinh ra, còn người đàn bà béo tốt, đôi lúc chị yêu quý, lại là một kẻ rỗng tuếch, lố bịch.
- Bọn con trai, - chị O’Dowd vừa nói, vừa mở cái cổng nhỏ, - chúng sẽ thành người lớn, và ưu điểm duy nhất của chúng là chúng quả thật cần thiết.
Nói xong chị ta đẩy cái cổng cứng nhắc ra.
- Một hôm nào đó tôi sẽ đến thăm chị, - Amy Parker nói, giờ có thể tỏ ra tử tế, - dẫu cho chị có nói gì chăng nữa.
- Đúng, chị ạ, chúng ta sẽ nói chuyện, - người bạn láng giềng nói.
Chị ta tháo xích buộc bánh xe ra.
- Chẳng có gì làm tôi vui thú, - chị nói, - bằng nói chuyện với bạn bè về những chủ đề thú vị.
Không ai khác chê bai gì về sức khỏe của con cái nhà Parker, mà nếu có tìm thấy khuyết tật gì, vì lịch sự họ chẳng bao giờ nói ra. Người mẹ nuôi lũ con, lúc đầu còn bằng sự ngập ngừng và theo sách vở, rồi bằng sự ngạo mạn không thể sai sót bởi kinh nghiệm dần tích lũy. Chẳng mấy chốc, không còn lời dạy nào lọt tai chị nữa. Thật ra chị đã trở thành nhà thông thái, ban phát lời khuyên trong những giây phút ngẫu hứng, khiến những cô gái trẻ hơn, rụt rè hơn phải hàm ơn, nhưng những bà nhiều tuổi hơn đón nhận với những nụ cười mỉm chua chát.
Amy Parker không nhụt chí, giờ chị đã gây dựng được một gia đình.
Nếu như việc làm lễ thánh cho đứa con thứ hai có bị chậm trễ thì chẳng qua cũng vì đứa bé có dấu hiệu thể trạng yếu vào những tháng đầu, mặc cho người mẹ phủ nhận. Nhưng cuối cùng hai vợ chồng cũng quen dần với nỗi sợ hãi, và đã thu xếp với ông Purbrick đưa đứa bé xanh xao đến nhà thờ đơn sơ quét vôi màu nâu, trên chiếc xe độc mã mà anh mua của một chị vợ góa anh chủ hiệu bánh mì ở Bangalay. Cả nhà ngồi tựa sát vào nhau trên chiếc xe còn khá lịch sự, diện quần áo tươm tất, màu sắc quá tối so với cái nóng ngày hôm đó. Người mẹ ôm chặt đứa bé vào lòng, trong cái khăn quấn đẹp nhất, lấy chiếc găng tay xua ruồi. Đôi bàn tay rắn chắc, to lớn của người bố nắm dây cương một cách thành thạo nhẹ nhàng, vui vẻ đánh xe như thể hôm đó anh đang đóng vai một con cá to tướng và ham vui, khi anh huýt sáo qua đôi môi khô nẻ do ánh mặt trời. Còn thằng bé phồng đôi má đỏ ra và cứ thổi phù phù, cho đến khi mẹ nó phải bảo nó im đi.
- Con làm mẹ nhức óc lắm, - chị nói.
- Tại sao ạ? - Nó hỏi, giọng hờn dỗi sắp khóc.
- Bởi vì, - chị uể oải trả lời, cúi xuống tìm kiếm khuôn mặt đang ngủ của đứa bé như sáp ong, chỉ hơi cựa quậy bên dưới con ruồi đập cánh vo ve.
- Này, - người bố giảng hòa bằng một giọng thân ái, khỏe khoắn. Hai con bê sinh đôi nhà Peabody kìa. Chúng ta sắp đến đó rồi. Không rõ ông già Purbrick đã hết nói liều chưa?
- Thế nào cơ bố? - Thằng bé hỏi.
- Bố nói thật vớ vẩn, - người mẹ nói. - Bố định nói ông già Purbrick lúc nào nói cũng không rõ. Cái gì thế kia? - Đột nhiên chị hỏi. - Con làm sao mà xước đầu gối thế, Ray?
- Con có làm gì đâu, - nó trả lời.
- Nhưng sờ sờ kia kìa, một mảng tướng còn gì nữa. Mẹ đã cấm con nói dối. Hoặc nghịch dao.
- Người ta đưa con đấy.
- Người ta nào? Ai? - Chị hỏi.
- Bố đấy.
- Nhưng con không được phép nghịch dao!
Chị siết chặt đứa bé hơn trong chiếc khăn quấn, như để che chở nó khỏi cuộc đời.
- Con trai đứa nào cũng phải thế, - người bố nói.
Hôm nay anh lười không buồn cãi, chống cự hay phản đối gì. Mắt anh nheo lại trong nắng, biết rằng mình sở hữu con ngựa và chiếc xe, thậm chí cả người đàn bà và hai đứa con bên cạnh. Họ đã cùng nhau có hầu như tất cả mọi thứ. Giây phút sấm chớp khiến họ chia cách đã rất xa xôi rồi.
- Đến nhà thờ rồi, - anh nói.
Mấy con bồ câu gật gù trên mái nhà làm tôn thêm cảnh thanh bình của ngày hôm đó, và người mẹ bắt đầu cảm thấy nửa buồn, nửa vui. Nhà thờ đã khiến chị xúc động như thế đấy.
- Em hy vọng con sẽ không làm sao, - chị thì thầm, nước mắt lưng tròng.
Sau đó chị chuẩn bị nụ cười chào đón cha xứ già, những nếp nhăn trên mặt ông co vào giãn ra chuẩn bị cho những lời nói thần thánh, và cả để chào đón những cha mẹ đỡ đầu đang đứng túm tụm, phân vân không biết, ngay lúc đó và về sau, họ cần phải làm gì. Liệu họ từ nay về sau cứ phải cho lời khuyên, hay tệ hơn, cho tiền, cho ai đó mà họ không quen biết? Hoặc, nếu cẩn thận ra, họ sẽ âm thầm bị lãng quên chăng? Bản thân ông bố bà mẹ cũng không chắc tại sao những người này lại được lựa chọn. Song dù sao vẫn phải có người. Vì thế ta thấy ở đây Ossie Peabody, đội cái mũ bị anh ta làm méo mó thành hình thù kỳ dị nhất trần đời, cùng bà Gage và chị Firth nào đấy, là một kiểu phụ nữ không ai có thể chê trách vào đâu được.
Nhà thờ có mùi một chiếc hộp gỗ bị đóng kín mít, lẫn mùi phân chim, nhưng những lời nói bên trong lại đơn giản lạ kỳ, buông rơi giữa những chiếc gối quỳ và tỏa sáng những tia sáng thạch anh tím cùng ruby qua một, hai ô cửa kính màu mà những nhà giàu đã quyên tặng và kể lại một cách sống sượng những câu chuyện chúng buộc phải nói ra.
Đám người đứng làm lễ rửa tội cho đứa bé dưới một cửa sổ như vậy. Cô bé sẽ được gọi là Thelma, cái tên mà người mẹ nhìn thấy lần đầu trên báo, tên con gái thừa kế một phú nông. Người bố thoạt tiên thấy ngờ vực, nhưng cuối cùng đã bị thuyết phục trước sự im lặng của vợ. Dẫu sao anh cũng không quan tâm mấy đến tên. Vì vậy bé gái đã trở thành Thelma. Người mẹ nhẩm lại cái tên ấy, lấp đầy nó trong miệng mình như một thứ mứt quả, chỉ có điều cái từ đấy có một cái gì đó phong phú hơn, hiếm có hơn, khó đạt tới hơn.
Khi vị cha xứ già đọc cái tên Thelma Parker nghe thánh thót như dòng nước mát, thằng bé, anh trai nó, mỉm cười như chú đã nhận ra trong mớ từ ngữ khó hiểu kia một điều gì đó. Cái tên đang mất vẻ huyền bí, và đến một lúc nào đấy sẽ trở nên ngắn ngủi và bình dị để khắc trên cây.
Dĩ nhiên đứa bé khóc, còn người mẹ tự hào và xúc động, cái khăn quấn chạm vào người khiến chị ngứa ngáy.
Stan Parker, người bố, đang cố lấy lại ý thức sở hữu mà anh đã thể nghiệm trên đường đến nhà thờ, nhưng giờ khi con gái đã mang họ của anh, thì anh lại cảm thấy phân vân. Anh cũng không dám chắc về cả đôi ủng của mình khi lắng nghe những nghi thức lạ lẫm nối đuôi nhau tuôn ra từ bộ ria của vị cha xứ già. Cho nên Stan Parker cảm thấy sự căng thẳng quanh mình. Trong tâm trí, anh tách xa khỏi nhóm người làm lễ rửa tội một chút. Chẳng mấy chốc anh bước thẳng ra khỏi ranh giới của cái nhà thờ thô bạo, không chút thẹn thùng trước sự trần trụi bất ngờ đổ ụp lên người anh. Cùng lúc với sự trần trụi dễ chịu này, những tràng giang ngôn từ, những hình hài máu thịt, đang trở thành thứ yếu so với ánh sáng của sự hiểu biết. Anh ngẩng mặt lên để đón nhận món quà mà anh chưa tỏ tường.
Rồi nước rơi tí tách, không những xuống mặt đứa bé, mà còn vào cả người anh khiến anh thấy xấu hổ. Anh bắt đầu thấy lo về khoản tiền phải trả cho cha xứ, anh ho và anh cảm thấy lúng túng. Anh to lớn quá cỡ, bàn tay lấm bùn vì lao động chân tay thật đáng hổ thẹn.
- Cái gì? - Anh thì thầm đầy tội lỗi. Vì vợ anh đang nói.
- Con bé ngoan quá, - chị nhắc lại đầy thỏa mãn, như thể chính là chị chứ không phải đứa bé, rồi chị chỉnh lại chiếc khăn.
Bàn tay cha xứ già chạm vào mát rượi, mỏng tang, không chê vào đâu được như khi ông ban lời khuyên và cố gắng pha trò, tuy không hoàn toàn thành công. Vì bản chất của ông vốn không phải là một cha xứ vui tính, dẫu cho ông cảm thấy lẽ ra mình phải thế.
- Cô bé sẽ trở thành một cô gái khỏe mạnh, nở nang đấy, và sẽ mắc lỗi ngay khi bắt đầu học sách giáo lý. Có đúng không? - Ông Purbrick nói.
Nhưng ông ta không thuyết phục nổi mình. Ông thấy sung sướng nhất khi ngắm chim muông trong cảnh tĩnh mịch của khu vườn.
Thằng bé chạy lăng xăng dọc theo lối đi giữa hai hàng ghế ngay khi buổi lễ chấm dứt, rồi nó đứng lên mấy chiếc gối quỳ trong khi người lớn mải nói chuyện, nhìn ngược sách kinh rồi bỗng khóc rống lên.
- Làm sao thế cháu, Ray? - Bà Firth tốt bụng hỏi, chìa tay về phía nó.
Nhưng thằng bé tiếp tục rống lên.
- Ô, cháu không chịu nói, thì các bác biết làm sao bây giờ.
Nhưng thằng bé vẫn khóc, bước thẳng đơ trên đôi chân xây xát, hậu quả của một tai nạn vừa xảy ra.
Chẳng mấy chốc nhóm người rời khỏi nhà thờ, còn lại cha xứ già đứng trên bậc thềm, ông mỉm cười, để tiễn đưa người trong xứ đạo thì ít, mà vì sắp trở lại với cảnh cô đơn thì nhiều. Trong giây phút chia ly, thu gọn lại trong ánh nắng hè vàng ruộm, mọi người, kể cả bầu đoàn thê tử nhà Parker, ai cũng cảm thấy hơi cô đơn. Những cây thông mới lớn xơ xác thách thức bản ngã tự khẳng định mình. Những nấm mồ mới chôn trong nghĩa địa nhà thờ chưa tôn được cảnh quan lên. Chúng quá gần với cái chết, thứ đương hiện tồn trong những vết thương chưa kịp lành của lớp đất sét vàng. Nhưng gia đình họ đã kéo nhau đi, qua những bình hoa đã héo, qua những vạt cỏ lòa xòa úa vàng, và chẳng mấy chốc mọi cảm giác kinh sợ, phấn chấn, bất hạnh hay hợm hĩnh bắt đầu thoát thai vào tiếng xe ngựa lăn lạo xạo, dễ chịu và trần tục.
Trên đường về nhà, và sau đó, những đứa trẻ hoàn toàn chiếm ưu thế. Thời thơ ấu của chúng kéo dài như thường lệ. Sự kéo dài ấy đôi lúc cũng tác động lên bố mẹ, khi họ leo lên ngọn đồi nóng bức hay ngồi nghe các con ngủ trong căn buồng khác vào những đêm dài lê thê. Nói chung những năm này yên bình, mặc cho những biểu hiện rõ rệt của sự phát triển. Người ta nhắc đến tương lai không vì tin tưởng mà theo đúng với ước lệ.
- Em muốn thằng Ray nhà mình phải làm chức gì đó trong chính phủ, hoặc là một nhà phẫu thuật nổi tiếng, hoặc đại loại như thế. Mặc trang phục thẫm màu. Và chúng mình sẽ đọc thấy tên nó trên báo chí, - người mẹ nói, giọng mơ màng.
Người bố cười vang, nhớ đến ngày xưa mẹ mình cũng không kiềm tỏa được mình như thế nào. Anh cười và nói:
- Thế đàn bò thì sao?
- Chúng ta có thể bán chúng đi, - thằng bé nói, bấy giờ đã biết nghe lỏm đủ thứ. - Con rất ghét sữa ôi. Con muốn trở nên giàu có, giống như người nhà Armstrong, có cả ngựa và các thứ, và một đôi ủng màu vàng nữa.
Nói xong nó chạy băng qua sân, chấm dứt mọi mơ tưởng, vẫn chưa tin rằng chúng sẽ ứng nghiệm. Xung quanh nó ánh ban mai chan hòa, đá sỏi ấm áp và rắn chắc, những con gà mái đỏ mịn màng như tan chảy trong cát bụi. Chú sống vì những gì chú thấy và làm. Chú rút trong túi ra một cái súng cao su nhỏ mà một thằng bé lớn tuổi hơn chế ra, ngó quanh định bắn thì nghe bố gọi:
- Bố mà thấy con còn bắn gà nữa, bố đánh đòn đấy.
Thế là nó bắt đầu vạch tên mình lên thân cây, để đôi tay khắc đậm ý chí mình vào một thứ gì đó. Nó còn bé mà đã khỏe mạnh lắm. Hơn hẳn đứa em gái mà nó vẫn thích quấy rầy. Cô em có nước da xanh xao ưu phiền, nhìn tổng hòa thật đối chọi với sự khỏe mạnh.
- Anh đi đi, để mặc em, - cô bé học nói, miệng tròn vo. - Bọn con giai các anh quậy lắm.
Con bé thích chơi những trò chơi gọn gàng với búp bê, lấy khăn tay làm khăn trải giường. Hai bàn tay nhỏ xinh, ươn ướt của nó vuốt phẳng khăn trải giường cho con búp bê, nó cúi khom người phía trên cái hộp đựng, làm bộ tóc thưa màu nhạt xõa xuống. Bộ tóc không quăn như mẹ nó đã từng mong muốn. Màu vàng nhợt nhạt tỏa trên mái tóc thẳng của Thelma Parker, nhưng xem ra ít có niềm vui. Nó mệt mỏi, khiến mẹ lo lắng, đôi lúc nó ho. Sau này người ta chẩn đoán đó là bệnh hen.
- Con không được quấy rầy em, em yếu con ạ, - người mẹ nói.
- Tại sao?
Thằng bé không hiểu được điều đó. Nó hay lang thang một mình, ném đá ra xa, vục mặt xuống khe suối chảy, quan sát thú vật, nhưng không thấy say mê với quang cảnh. Nó không thể làm tới nơi tới chốn.
Đôi lúc nó đánh em để trả đũa những gì nó không hiểu. Cô em oan ức khóc rống lên.
- Em mách mẹ, - con bé gào lên.
Nhưng thỉnh thoảng, đặc biệt vào buổi tối, khi sự mệt mỏi và ánh nắng đã lắng lại, hai anh em liền quấn lấy nhau, hoặc quấn với mẹ, trong tình yêu thương trìu mến, kể cho nhau những câu chuyện mà chúng tưởng tượng ra, và cuối cùng ngủ gà ngủ gật. Vào những lúc ấy, người mẹ cảm thấy vô cùng sung sướng. Giây phút gần gũi với con đã loại bỏ mọi thứ khác trên đời.
Vào thời kỳ này, Amy Parker khao khát tình yêu. Chị không yêu ngấu yêu nghiến được chồng mình, mặc dù chị luôn tự hứa vào những giây phút cao hứng rằng chị sẽ đạt được điều đó trong tương lai gần. Nhưng chị không thực hiện được. Anh lại lảng tránh chị. Chị biết rõ anh tận chân tơ kẽ tóc, qua nhiều cử chỉ ân cần, nhưng chính có lẽ sự ân cần đó đã đánh bại chị. Vì vậy chuyện đó phải để lại sau. Chị uể oải mỉm cười trong nhà bếp. Một ngày nào đó chị sẽ yêu chồng mình đầy đủ. Chị vừa nghĩ vừa lột vỏ hành lạo xạo.
Amy Parker ngày một đẫy ra, mà một số người sẽ cho là hơi thô. Hai bàn tay và lưng chị to bè. Với những người khác, lồng ngực căng tràn của chị biểu thị một niềm thỏa mãn, đặc biệt là với bọn trẻ, chúng thích gần bên chị, nghe chị nói, chạm vào người chị. Da chị đặc biệt mát mẻ, mịn màng, màu bánh mật, và êm ái dễ chịu. Song đôi lúc chị cũng hay gắt gỏng, thậm chí chanh chua, như thể vẫn còn mang thai đứa con gái mảnh mai và rầu rĩ, và chị có quyền ca cẩm và cáu gắt. Vào những lúc ấy, bộ tóc đen của chị xòa xuống thành những bím dài mà chị chẳng buồn vấn lên. Còn chồng chị thì bước khẽ, hay loanh quanh phía bên kia nhà. Vào những ngày đó, mặt anh dài thuỗn ra, nom rất nghiêm trang.
- Lại đây, Ray, - chị nói. - Con có yêu mẹ không?
Cứ như thằng bé sẽ trả lời, chứ không đá chân xuống đất.
- Thế Thelma yêu mẹ nhớ, - chị nói, vẩy đôi cánh tay lấp lánh nước, rồi lau khô bằng chiếc khăn.
Nhưng con bé vẫn tiếp tục thì thầm với con búp bê như không nghe thấy.
Người mẹ không thể ép được. Vào những buổi tối như thế, có những lúc chị ôm các con trong vòng tay êm ái, ấp ủ tình thương yêu chan chứa mà không thể nào lọt ra được, cũng có những lúc chị không đọc nổi ý nghĩ của các con, khi mặt chúng trơ ra như tấm ván, hứa hẹn sẽ mãi mãi phẳng lì và không gì lay chuyển nổi.
Chị bèn đi ra ngoài, nhìn dọc theo con đường, dọc theo bụi cát và hàng rào kẽm gỉ.
- Có chuyện gì thế, Amy? - Người chồng hỏi, thận trọng can thiệp vào những dịp như vậy.
- Chẳng có gì cả, - chị nói. - Ồ, chẳng có gì.
Chị vừa nói vừa nhíu mày nhìn con đường trắng lóa.
- Mặt em xị ra thế, - anh nói, cười dò dẫm. - Chắc có chuyện gì không hay.
Câu nói ấy khiến thảm kịch của chị trở nên nhạt nhẽo và nực cười.
- Em đã bảo chẳng có gì mà.
Rồi chị cười vờ vĩnh, nghe vẫn hơi chua chát.
- Ồ, thật ngớ ngẩn, - chị thở dài. - Phải không, Blue?
Vừa lúc ấy con chó cái mon men đi lại phía chị.
- Tội nghiệp, - chị nói, lây lan nỗi thương hại bản thân sang cho con chó, rồi vỗ về nó khoan khoái vì được sẻ chia.
Những núm vú của con chó bị sưng, cái to cái nhỏ không đều, lại bị đàn con cào xước. Dù có bị cấu xé, nó vẫn khao khát tình yêu. Cái lưỡi đỏ của nó liếm liếm, cái mõm nó như thể muốn nuốt chửng lấy chị.
- Chúng nó không để mày yên phải không? - Người đàn bà nói, ngồi trên hàng hiên vuốt ve những núm vú rách nát.
Con chó cong lưng vẫy đuôi mừng. Chị cảm thấy thanh thản.
- Mày là con chó của ta, hả? - Chị nói. - Ngoan lắm. Đôi lúc không phải mong đợi câu trả lời mà lại hóa hay đấy.
Con chó cái lông xanh đã thay thế con chó lông đỏ chết cách đó mấy năm.
- Đây là con chó của em, - Amy Parker đã từng nói ngay thế về con chó cái lông xanh, - và nó sẽ có tên. Chứ không giống con chó lông đỏ xấu xí, chẳng mến em tí nào.
Chị nói vậy vì có bao giờ họ đặt tên cho con chó lông đỏ đâu, dẫu cho chị có ý định thế. Nó vẫn là Con Chó Ấy. Nhưng con chó cái lông xanh này chị đã vội vã gọi là con Blue.
Con chó cái quấn quít và mến người. Hơi vụng về. Cứ lấy chân cào cào để gây chú ý, hoặc vẫy đuôi quật đổ các đồ vật, hoặc lăn người rồi đứng dậy giũ bụi, nước dãi chảy ra từ cái mồm thỏa mãn. Nó đẻ con đều đều, rồi nằm nghiêng xuống cho bú cho đến lúc nó mệt nhoài và gầy trơ xương. Vậy mà nó vẫn tìm kiếm tình yêu ở nơi khác. Đôi mắt chị nguôi đi khi vuốt ve bộ lông con chó.
- Con chó nom xấu lắm, mẹ ạ, - Ray nói.
- Không phải đâu, con ạ. - người mẹ trả lời, tay uể oải vuốt ve con chó. - Xấu với người này nhưng lại đẹp với người khác. Bố con có một con chó lông đỏ già, xấu chưa từng thấy, lại còn không thích mẹ nữa chứ, thế mà bố lại quý nó lắm. Mẹ nhớ cái đêm mẹ đến đấy. Ngày đó bố mẹ còn sống trong túp lều kia kìa.
Nhưng thằng bé không chú ý đến những suy nghĩ của mẹ, đôi mắt nó đang hướng về hiện tại.
- Mấy cái đầu vú nhăn nheo xấu quá, - nó nói.
Người mẹ không nghe thấy đứa bé nói. Chị nâng niu những suy nghĩ trìu mến của mình.
Vì vậy chị không thể không yêu con chó mắn đẻ, nhưng vụng về. Chị thích ôm trong tay những con chó con ngốc nghếch, ấm áp, lần lượt cho chúng bú từng vú một, để cho con còi nhất đàn cũng được bú. Chị thường đến quỳ bên đàn chó trong cảnh tranh tối tranh sáng của nhà kho. Làm như vậy, một mình bên con chó, chị cảm thấy mình trẻ lại. Không ai nhìn thấy chị, mà chị cũng đặc biệt không muốn họ nhìn thấy. Đó là cảm giác riêng tư chị nâng niu như khi chị ấp con chó con vào má. Tóc chị xòa xuống gáy.
Rồi một hôm chị chạy vội vào nhà bếp vào giờ ăn tối và nói:
- Anh Stan, ba con chó con của Blue biến đâu rồi ấy.
Mọi người đều đứng ở đó. Miệng chị mấp máy đầy hoảng sợ.
- Chắc là lũ chuột rồi, - chồng chị nói.
- Chuột thì phải để lại cái gì chứ! - Bác Fritz vừa bước vào nói, tay cầm chiếc cốc vại và cái đĩa. - Có để lại gì không?
- Không có dấu vết gì, - chị trả lời.
Chị thấy lạnh và tái mét. Chị nhớ đến những con chó con ấm áp, và lúc này chị không muốn ở bên những người trong gia đình, đang thảo luận chuyện gì đã xảy ra.
- Hay con mẹ nó ăn một vài con đấy, - thằng Ray nói, bắt đầu lấy dĩa ngoáy nát món thịt hầm.
- Chó con lớn rồi nó không ăn đâu, - người bố trả lời.
Con bé Thelma cất tiếng khóc. Nó chẳng bận tâm đến chó con mấy, mà người khác lại bận tâm, rồi khóc, thế thì nó khóc là đúng rồi.
- Chó con chết rồi, - nó khóc òa lên.
- Chắc có kẻ nào nẫng nó khỏi ổ vì thích chúng - thằng bé nói.
Nó vun khoai tây thành một hòn đảo và một eo đất, rồi dồn thứ nước màu nâu chảy qua, hôm nay nó không thích ăn.
- Ăn đi chứ con, - mẹ nó bảo, trải khăn ăn với vẻ hung bạo.
- Dẫu sao con mẹ nó có quá nhiều con, - thằng bé nói. - Nó còn những năm con. Tám con nhiều quá, phải không bố?
- Mẹ bảo con ăn đi cơ mà, - người bố nói.
- Con không ăn đâu! Con không muốn ăn, - thằng bé thét lên.
Nó nhảy phắt lên. Nó ghét bố mẹ và cái bàn ăn. Bát đĩa và cả cái đĩa thịt hầm màu nâu nhão nhoét đều chống lại nó.
- Thịt ôi lắm! - Nó kêu lên.
Rồi chạy mất.
Ông bố lầm bầm, vì trước mắt anh không biết làm gì. Còn đối với người mẹ, rõ ràng lúc này chị không thể làm gì được. Nỗi khổ riêng choán lấy chị, vài cuộc xích mích trong nhà bếp, cái bàn bừa bộn, và những cái đĩa trắng dầy cộm không liên can đến việc này. Chị buồn vì thương chính mình, số phận của những con chó con đã trở thành một phần thân thiết của cuộc đời chị. Bất giác chị quay đầu lại, đau khổ, khi chợt nghĩ cái cổ của những con chó con có thể đã bị vặn ngược.
- Ồ, bàn mãi chuyện đó cũng chẳng đi đến đâu, - Stan Parker nói, đẩy cái đĩa ra sau.
Nhưng anh nghĩ về đứa con trai, anh biết về nó ít quá, và tự hỏi chừng nào hai bố con anh sẽ thừa nhận điều đó. Nó hãy còn bé, và hai bố con vẫn hôn nhau và tỏ ra thân mật gần gũi, dù họ không thể hiểu được nhau. Thằng bé cố kể chuyện cho bố nghe, nhưng không sao kể nổi, mà chỉ đứng ngước nhìn anh, lời lẽ lặn đi đâu mất. Có lần anh lấy một thanh sắt to gần bằng người anh và đập vỡ khung cửa kính, rồi đứng thở hồng hộc, run cầm cập trong đám mảnh kính vụn bắn tung tóe.
- Có bánh pudding đấy, anh ạ, - chị nói.
Nhưng hôm nay Stan Parker không thích ăn bánh pudding. Anh tin rằng giữa thằng bé và sự mất tích của mấy con chó con có liên quan đến nhau.
Đôi mắt của vợ anh đã tinh tường hết rồi. Trong cảnh nóng nực, hai vợ chồng chia nhau cái lạnh lẽo này, vì vậy tốt hơn họ cứ tách biệt nhau ra.
Chỉ vào buổi tối, bóng tối và những bức tường mới buộc họ phải ở bên nhau. Họ nói những chuyện tẻ nhạt, tầm phào. Hoặc anh chong đèn đọc báo. Hoặc họ nghe tiếng ếch nhái quanh nhà, tưởng tượng như có nước. Nhưng lúc đó là mùa khô hạn.
Có lần cậu bé mê sảng gọi mẹ và Amy Parker đã bước vào.
- Sao thế con, Ray? - Chị hỏi và cúi người xuống.
Trong ánh đèn dầu, nước da nâu của chị ngả màu vàng. Thân hình chị phát triển cân đối, trông vừa đường bệ, vừa nhân ái.
- Gì thế con? - Chị nói.
- Con mơ thấy mấy con chó con.
- Thế thì con hãy nằm mơ về những cái khác đi, - chị khuyên con, tựa như mình nắm được mọi bí mật và có thể xảo diệu bỏ qua những mưu mẹo.
Nghe thấy thế, thằng bé nằm ngoảnh đi chỗ khác.
Nếu mình có khả năng ấy, - chị tự nhủ, đôi mắt hừng hực nhìn xoáy vào đầu đứa con đang ngủ, - thì mình phải làm gì nhỉ. Và liệu chuyện này sẽ còn là vấn đề quan trọng không, mặc dù hiện nay nó là thế?
Câu chuyện về những con chó con phai nhạt dần, và dường như hầu hết mọi người trong nhà Parker, nếu không phải là tất cả, đều đã quên.
Có một vài lần, con bé Thelma hỏi:
- Chúng ta sẽ không bao giờ biết chuyện xảy ra với mấy con chó con hả mẹ?
- Sao con cứ muốn gợi lại chuyện đó? - Người mẹ nói.
Chị nhíu mày. Chị không yêu đứa con gái bằng con trai, dẫu cho chị cố làm điều ngược lại và chị đã khổ công hết sức vì con gái. Thelma vẫn cứ mỏng mảnh. Linh hồn nó cũng mỏng manh.
Có lần người mẹ đang đứng cùng cô con gái nhỏ bên cổng, trong ánh chói chang của ngày hè, hàng cây ủ rũ vì khô cạn và nhếch nhác bụi bặm, thì có người cưỡi ngựa đến, bóng người che mắt chị. Con ngựa tiến lên với vẻ uể oải của một con vật nuôi làm cảnh, nó lúc lắc cái đầu, hất chùm lông trán che mắt và thở phì phì từ hai lỗ mũi trần trụi, nom không có vẻ sợ sệt, hay hỗn xược, mà rất đáng yêu. Đó là một con ngựa đẹp. Thân mình đen nhánh lấp loáng mồ hôi, nó tiếp tục tiến lên phía trước, đến lúc nhìn rõ mặt người cưỡi, đó là một người đàn bà mặc bộ đồ cưỡi ngựa, bệ vệ không kém vật của mình. Người đó ngồi, chân hếch lên hai bên đầu mũi yên ngựa, uể oải đung đưa hệt như con ngựa lắc lư và trầm ngâm.
Người đàn bà mặc đồ đen trên lưng con ngựa ô tiến lại dưới những hàng cây trắng. Bụi đường dẫu đang trải ra dưới chân ngựa nhưng không thể bốc lên tận giày cưỡi ngựa vì người đó ngồi rất cao, và trôi nổi trong biển bụi, cô ta nom thần thánh và xa vời.
- Bà ấy trông đẹp quá, mẹ nhỉ? - Cô bé nói, miệng uốn éo.
Nó hy vọng mình đang nói trúng ý. Có những lúc nó nỗ lực gần như mù quáng để làm những điều đúng đắn.
Nhưng Amy Parker không nói gì. Chị đứng che mắt, tựa như đang trải lòng trong nỗi im lặng để chào đón và hòa làm một với người cưỡi ngựa và con ngựa, như thể chị khao khát mong sao đời mình cũng được đặt trong cùng một quỹ đạo chậm rãi và đường bệ đó, vượt lên trên bụi bặm. Chị cố nín thở, khiến cái cổ họng to khỏe sưng lên. Chị cảm thấy chứ không nhìn thấy đường đi của con ngựa và người cưỡi. Tiếng nhạc ngựa của họ rung loảng xoảng trong người chị.
Người đàn bà mịn màng đi qua. Người đó mỉm cười vì một chuyện gì đó mà rõ ràng cô ta là nhân vật trung tâm, nó làm cô ta vui, và chắc hẳn cô ta đã nếm trải thành đạt. Nhưng nụ cười chỉ thoáng hiện trên gương mặt mịn màng. Và cô ta lướt nhanh. Những hàng rào dây kẽm gỉ cứ thế trải dài. Những thân cây lòa xòa chập choạng lùi xa.
Con bé thắc mắc không hiểu người đàn bà đẹp lạ mặt kia có mở lời không, nhưng mẹ nó không mong điều đó. Nụ cười của người đàn bà trôi trên đầu đứa bé yếu đuối, cô ta không liếc nhìn người mẹ, dẫu trông có vẻ uy nghiêm, dáng con nhà gia giáo lắm. Cô ta tiếp tục đánh ngựa đi. Rõ ràng không định tạo lập những mối quan hệ không cần thiết, cho dù chỉ trong phút chốc. Cô ta cứ thế đi thoáng qua. Khua cái roi da có cán bằng ngà trên không thành những đường lượn sóng. Cái thân hình với những đường cong tinh tế cũng đã đi qua. Trong ánh sáng xa xăm, bộ tóc cô lấp lánh màu đồng óng ả.
- Ồ, cô ấy đi rồi, mẹ a. Chúng ta đứng đây làm gì? - Con bé ca thán. - Không biết tên cô ấy là gì.
Sau hai mẹ con mới biết tên người đàn bà đó nhờ chị O’Dowd.
Chị O’Dowd nói người đó là một cô gái, là một người đàn bà thì đúng hơn, nhất quyết không phải là cô gái, thế thì, là đàn bà, nếu ta thích gọi thế, và tên người đó là Madeleine. Còn họ là gì thì chị ta chịu. Cũng chẳng sao, chị O’Dowd nói, vì biết thì cũng chẳng để làm gì. Dẫu sao, cô Madeleine này là một người đẹp nổi tiếng như ta thường đọc trong sách, đi chu du khắp nơi, đua ngựa, đủ các cuộc đua ngựa, đua ngựa dạo chơi, luôn được yêu chuộng, đặc biệt ở những cuộc đua ngựa dạo chơi. Cô Madeleine này từng đến nước Úc, và nhiều nước khác, nhìn ngắm khắp nơi, đáng lẽ cô ta phải lấy một vị lãnh chúa, không phải là vì không cố gắng, mà chỉ vì không may mắn. Người ta nói vậy. Nhưng vẫn còn quyến rũ. Giờ đây dường như - mà đó là phần quan trọng theo lời bà Frisby đầu bếp nhà Armstrong, người có chồng làm thủy thủ không bao giờ quay về - giờ đây dường như cái anh chàng Armstrong đang đổ của vào cô nàng Madeleine đó, lao tâm khổ tứ lấy lòng cô ta, bằng tặng phẩm và những con ngựa, nhưng người đàn bà đó có lúc lạnh lùng, có lúc nhiệt tình, nhưng chủ yếu là lạnh lùng, vì cô ta đâu có phải là đứa ngốc nghếch. Biết bao gã đàn ông giàu có lẽ ra đã chiếm được Madeleine. Cô ta chỉ cần nói một lời, là sẽ có ngay những hạt kim cương nằm trong cái hộp nhung đen, cùng những bàn chải ngà khắc chữ lồng. Nhưng đó là điều thứ yếu. Cô ta đang chơi cái trò ỡm ờ. Chính cái nhẫn cưới và cơ ngơi mới quan trọng đối với nhiều người, và với cả Madeleine này nữa, đó là lẽ đương nhiên.
Nói xong, người bạn láng giềng lại giật dây cương cho xe đi như thường lệ. Còn Amy Parker vẫn đứng nguyên tại chỗ.
Mọi hành động của chị sau sự việc đó trở nên bí mật. Chị nghĩ về Madeleine. Chị rút bàn tay ra khỏi đống bọt xà phòng. Người chị trở nên uể oải.
Cho đến khi lũ con, lúc đó đang xin phép chị làm việc gì đó, gào lên vì bực tức.
- Cho phép chúng con đi, mẹ? Mẹ… ẹ… ẹ!
Đôi mắt chị lóe lên vẻ buông thả khi chị trả lời:
- Được, được thôi. Sao lại không?
Hai đứa kinh ngạc trước sự dễ dãi đến lạ lùng đó của chị, và chúng đi ra một cách lặng lẽ và đầy tư lự, không còn nôn nóng làm cái việc chúng vừa được phép, trong khi đó người mẹ tiếp tục nhìn chăm chăm vào nội tâm mình trong ánh sáng ngời của những viên kim cương.
Hôm trời tạnh mưa, chị nói mấy mẹ con sẽ đi dạo qua những cánh đồng. Điều đó là một sự thay đổi, nhưng thay đổi gì thì chị không thể trả lời được. Chị đội một cái mũ cũ, màu nâu, xấu xí. Hai đứa con đến, mặt phụng phịu vì thấy cuộc đi chơi thật vô lý. Chúng bám theo chị qua bãi cỏ héo, ẩm ướt. Suốt những cánh đồng họ đi qua đượm mùi cỏ ướt và nhựa thông. Gió nhẹ thổi làm lá cây rung rinh, cho đến khi chúng sáng màu bạc và vui mắt. Lòng người xốn xang vào cái thời tiết êm ả này, vốn chỉ là khoảng thời gian tạm lắng trong cái chói chang của mùa hè. Những cơn gió nhẹ ẩm ướt và những chiếc lá mát mẻ chạm vào khi ta đi qua mời mọc ta hồi tưởng và mơ màng. Cho đến lúc Amy Parker như đang trôi lềnh bềnh, còn hai đứa con chị, nhận ra tâm hồn chị đang bay bổng, trở nên háo hức mà rầu rầu.
- Mẹ ơi, - thằng bé nói, - con trèo cây nhé?
Chẳng qua vì nó thích leo trèo và chuyền từ cành này sang cành kia, cho đến khi chính nó biến thành cái ngọn cây được uốn cong, và giờ cái cảm giác đó vô cùng bức bách. Được chạm vào lớp vỏ cây dày cộm. Được vật lộn và cuối cùng chinh phục nó.
- Làm như thế có gì hay cho con không nào? - Người mẹ hỏi một cách vất vả như thể chị đang leo lên đồi, mặc dù con dốc hãy còn thoai thoải. - Lần trước con đã làm rách quần. Đầu gối con sứt sẹo ra.
- Có chứ, con xin mẹ! - Nó thở dài, nắm lấy tay chị và ép người vào chị như một con vật. - Cho con trèo đi.
- Em không muốn trèo những cây đã già cỗi, - con bé nói.
Nó lắc bộ tóc sáng màu thẳng đuột.
- Em không trèo được đâu, - thằng bé nói. - Em yếu lắm. Em là con gái.
- Không phải, - cô bé gào lên, mếu máo.
- Chẳng con gái thì là gì nào? - Nó hỏi. - Là con bê cái sao?
- Nếu em là con bê cái thì anh là con bò đực. - Cô bé khóc. - Người ta nuôi bê cái. Nhưng lại giết bò đực.
- Không phải tất cả, - thằng bé trả lời. - Không phải là con cừ nhất.
- Thôi. Chạy đi mà leo với trèo, - người mẹ nói.
Chị vẫn chậm rãi đi tiếp, rồi ngồi lên một khúc gỗ cạnh lùm cây keo, tựa lưng vào lớp vỏ cây đen, tay vân vê những cuống lá chết, còn con bé thì nhòm cái hang thỏ, hái được một bó hoa, rồi quẳng đi, nhặt một hòn đá đẹp lên, rồi bực tức muốn đi chỗ khác.
- Tại sao cứ phải ở mãi một chỗ thế này, mẹ? - Con bé hỏi.
Amy Parker không biết, ngoài việc ngồi tư lự, ngoài việc chỉ có ở đây chị mới tha hồ mộng tưởng mà ít cảm thấy mình có lỗi hơn là trong ngôi nhà kiên cố của mình.
- Ta đi được không? - Thelma nói.
- Ngay thôi, - người mẹ nói.
Chị bắt đầu thắc mắc không biết liệu mình có cưỡng lại những lời tán tỉnh của một lãnh chúa nếu như anh ta đánh xe đến đây, còn chị thì mặc một chiếc áo màu hoa cà chị chưa từng có bao giờ. Chị sẽ nói gì, chị cũng chưa nghĩ ra, mà chỉ cảm thấy, chỉ biết thế. Khi nhà quyền quý mang đôi ủng sáng bóng xuống ngựa trên bãi cỏ và mỉm cười, đôi môi dày phả hơi thở vào chị, khi chị bước lên bậc thềm của cửa hàng. Có thể chị sẽ có con, cả những viên kim cương của người ấy, người luôn mang những đường nét không thể cưỡng lại của anh chàng Armstrong. Chị rùng mình nhận ra cả túm lông đen ở cổ tay anh ta. Nhưng đôi mắt anh ta dịu dàng, tử tế, khác hẳn thân hình hừng hực dâm tình, đó cũng là thân hình của chồng chị.
Chị ngồi thẳng lưng tựa vào thân cây rắn chắc.
- Sao không đi hả mẹ? - Thelma hỏi.
Nó tiến lại và đứng đó. Nó là con của vợ chồng chị.
- Ừ, đi đây, - Amy Parker nói. - Ray đâu? Bảo nó đến giờ rồi.
Vì còn có nhà, có cây cối chung quanh, và những nhà kho, cùng những con đường mòn dưới bàn chân họ, tất cả nói lên thực tế và sự vĩnh hằng. Và ở cái cốt lõi của thực tế đó là, chồng chị, người thậm chí sẽ không ngước mắt nhìn lên khi chị tiến lại trên một con đường tỏa ra từ căn nhà, vì anh biết chị sẽ đến. Chị là vợ anh. Hoặc anh sẽ ngẩng lên, và chị không thể lúc nào cũng biết chắc là anh đã nhìn thấy. Anh sẽ không để chị đọc được đôi mắt mình, thậm chí vào những phút giây trìu mến và âu yếm nhất, thậm chí khi chị ôm anh trong vòng tay và anh áp người vào chị.
- Anh Ray ơi! - Thelma gọi, bực dọc chạy quanh mấy cái cây. - về nhà thôi! Anh Ray ơi! Anh ở đâu đấy?
Lúc này nó đang chót vót trên mấy cành cây. Mọi vết xước sẹo trên da thịt đều thôi thúc nó trèo tiếp. Nó khinh khỉnh nhìn một cái tổ chim cũ, giá mà có đầy chim non chắc nó đã bắt trộm, nhưng vì không có nên nó giựt ra khỏi cành và vứt xuống đất. Nó trèo tiếp, vòng quanh, trèo xuống leo lên. Nó lạnh lùng nhìn một con ác là non lông bóng mượt, lúc ấy mà có cái gì trong tay chắc nó đã giết chết con chim. Rồi khi cảm thấy khoeo chân dớp dáp mồ hôi, nó đã leo được đến tận ngọn cây, người nghiêng ngả, gió thổi lạnh khiến mặt nó đỏ bừng. Tinh thần phấn chấn làm thằng bé nom thật đẹp. Nó ngồi chót vót trông rất vô tư. Nó mơ màng nhìn những sóng cây dào dạt và cảm thấy thỏa mãn trong khoảnh khắc.
- Anh Ray! - Thelma gọi khi thấy tổ chim làm bằng cỏ đã mốc meo và những lông chim cũ gớm guốc, rồi nó ngước lên và nhìn thấy anh.
- Em mách mẹ! Ai cho anh trèo cao thế. Xuống ngay. Ta về thôi.
Nhưng Ray tiếp tục nhìn ra xa, dù có nghe thấy tiếng cô em hay không. Ngôi nhà mà nó sống trông như một món đồ chơi từ đằng xa. Những con đường chỉ toàn bụi và đá lổn nhổn, nhìn tổng thể cũng không đến nỗi gớm guốc. Đó đây cuộc sống trì trệ trôi đi, đàn bò nhẩn nha bên bờ suối, một bóng người cưỡi ngựa chạy dọc theo con đường phía bên khu đất của họ.
- Mẹ và em đang đợi đây, - tiếng gọi cuốn theo làn gió thổi mạnh đến sợ.
- Được rồi, anh xuống đây, - nó thì thầm.
Chỉ vì nó nhìn chán rồi.
- Con nhìn thấy gì, hả Ray? - Người mẹ gợi chuyện, khi hai anh em đến bên chị.
- Mọi thứ, mẹ ạ, - thằng bé nói.
Giọng nó nghe uể oải, hậu quả của chiến tích ban nãy.
- Nhà này, cánh đồng này, bò này, - nó nói, - và có người cưỡi ngựa trên đường.
- Ai nhỉ? Chắc là Peabody, - người mẹ nói.
Những lời của chị nghe tàn hơi như cỏ úa.
- Không phải. Đó là một người đàn bà, - thằng bé nói.
- Thế à? Con có chắc không? - người mẹ hỏi.
- Đúng. Thật vậy mà. Rõ ràng con nhìn thấy cái váy.
Nghe thế Amy Parker nhận ra, chị bèn rẽ một chút xuyên qua bụi cây keo dẫn tới con đường chạy dọc theo khu đất nhà họ. Vì vậy chị giục lũ con đi nhanh hơn. Chị không biết mình sẽ nói gì hay làm gì, ngoài việc đứng bên hàng rào, bó mình trong sự nhếch nhác mà chờ người cưỡi ngựa tiến đến. Vì chỉ có một lý do do nhất. Giờ chị biết mình đến vì Madeleine.
- Có lẽ đấy là người đàn bà ta nhìn thấy hôm nọ, - Thelma nói.
- Nhanh chân lên nào, các con - Amy Parker nói.
Thelma bắt đầu rên rỉ, vì cảm thấy có điều gì đó bất công.
Nhưng ngay lúc đó mẹ con chị đã ra tới con đường nhỏ cắt ngang rặng cây keo. Chúng mọc dày đặc hai bên đường, thẳng tắp và tối om, thế là bất cứ thứ gì xuất hiện trên đoạn đường đó đều lập tức nổi bật. Chính ở chỗ này Madeleine đã cưỡi con ngựa bóng lộn đi qua.
- Mẹ thấy chưa? - Ray nói. - Con đã nói là con nhìn thấy váy cô ấy mà.
Ngoài cái đó ra, nó không quan tâm đến gì khác. Chỉ là một người đàn bà trên lưng ngựa.
Hôm đó con ngựa của Madeleine không gây hứng thú lắm. Nó đã “ngựa” hơn. Hoặc họ đã đi khá xa, trông con ngựa có vẻ hơi khập khiễng. Có cái gì đó xấu xí và bất định trong dáng dấp của nó khi cất bước. Nó vấp vào một cái hố, và cổ chân nó nom yếu ớt. Song nó vẫn là một con ngựa đẹp, Amy Parker khẳng định là thế. Con ngựa đi nước kiệu lại gần, lúc lắc cái bờm, để lộ tròng mắt trắng dã. Chị có thể nhìn thấy mạch máu nổi lên trên đôi vai ẩm ướt của nó và xương nó chuyển động. Chị nhìn con ngựa chăm chú đến mức chị biết chính xác khi chạm vào nó sẽ có cảm giác gì.
Nhưng chị cũng phải nhìn người cưỡi ngựa, không phải lúc này, một chốc nữa, trong giây lát. Đúng lúc vó ngựa vấp, chị phải nhìn. Tim chị đang nặng trĩu.
Amy Parker ngước lên nhìn người cưỡi ngựa mà tâm trí chị hằng thân thuộc, nhưng chị không giấu nổi vẻ e thẹn, thậm chí lố lăng của mình. Trong một giây lát, chị nhìn vào Madeleine. Hôm nay người cưỡi ngựa không mỉm cười. Cô ta mệt mỏi hoặc nhức đầu, hoặc bị cuốn vào những mối quan hệ trần tục. Miệng cô ta trông mỏng đi trên nước da mịn màng, như thể nó đang cắn vào cái gì đó. Đôi mắt cô không nhìn xuống đường. Có lẽ trừ có giây phút cô ta nhíu mày và giật cương. Cô ta đi tiếp. Người đàn bà khỏe mạnh với hai đứa con tiếp tục đứng giữa hàng cây. Không có sự pha trộn. Chẳng có lý do gì mà phải có.
- Sao cô ấy lại đi ngựa quanh quẩn thế? - Thelma hỏi khi họ lê bước qua cánh đồng cỏ.
- Mẹ không biết. Có lẽ để làm cái gì đó, - Amy Parker nói.
- Cô ấy không thể làm việc gì khác sao? Đi mua sắm chẳng hạn?
- Cô ta có chó không? - Ray hỏi. - Con mà thế con sẽ nuôi chồn sương.
- Cô ấy là một bà quý tộc. - Thelma nói rít lên. - Bà quý tộc nuôi chồn sương làm gì?
- Thế làm quý tộc có gì hay? - Thằng Ray nói.
Nó liền nhặt cành cây keo nhỏ quất vào bắp chân cô em.
- Ôi, thôi đi! - Con bé kêu lên. - Mẹ ơi, bảo anh Ray thôi đi, mẹ!
- Nào, cả hai anh em hư quá! Ray! - Người mẹ nói. - Có yên đi không nào. Mà đừng hỏi han gì nữa đấy. Mẹ không quen cô này, nên không trả lời được đâu.
Chị nói, hy vọng mọi việc như vậy sẽ chấm dứt được.
Nhưng khi nằm thẳng đơ người trên giường, chị lại nghĩ đến Madeleine. Chiêm bao tuôn trào từ vành mũ của họ khi hai người cưỡi ngựa bên nhau qua bóng đêm lộng gió. Họ đang trao gửi những điều bí mật. Tôi chẳng có lấy một điều gì bí mật, Amy Parker thì thầm, mà thực sự quan trọng với bất cứ ai. Đây, Madeleine nói, là một bí mật. Amy Parker xòe tay ra. Đó là một mảnh thủy tinh, hay đúng hơn là một viên kim cương khá lớn. Những tiếng líu ríu như chim phát ra từ cổ họng chị làm chị nói không rõ. Madeleine cười. Họ lại cưỡi ngựa đi tiếp, những bàn đạp kề sát bên nhau. Không còn lấy một kẽ hở. Họ thật gần gũi.
- Cái gì thế? - Stan Parker hỏi.
- Em nằm mơ, - người vợ thở dài. - Đến buồn cười. Mơ về một con ngựa.
Anh hắng giọng và lại ngủ liền.
Chị nằm im, hy vọng nếu mình ngủ từ từ, thế nào cũng mơ lại giấc mơ dịu dàng đó. Nhưng những con ngựa đã đi rồi. Đến sáng tỉnh dậy, chị thấy giấc mơ thật là buồn cười, chưa nói là ngớ ngẩn. Chị cài cặp tóc và búi thành một búi bóng mượt. Nằm mơ thấy bóng người cưỡi ngựa mặc đồ đen suốt mấy ngày nay, chị không rõ mình mong mỏi được đứng chung với cô ta trên bờ vực thẳm nhiều đến thế nào. Nếu họ có thể gặp nhau, mà thật ra là không thể. Cuộc sống của họ quá khác biệt. Chị đặt chiếc bàn chải xuống, những sợi lông trên đó đã mòn vẹt, rồi đi ra ngoài nhà lấy mấy cái xô.