Thành công có nghĩa là thoát khỏi những nếp nghĩ cũ kỹ và chọn cho mình một hướng đi độc lập.

Keith DeGreen

 
 
 
 
 
Tác giả: Jon Redfern
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 11
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1362 / 14
Cập nhật: 2016-07-02 00:21:20 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 9
hứ bảy, NGÀY MÙNG 6 THÁNG BẢY
Ánh sáng đỏ rực từ đèn hiệu của xe cảnh sát, xe cứu hỏa lấp loáng chiếu lên rèm cửa và khăn trải bàn trong phòng khách của người đàn bà trung tuổi. Bên ngoài, mặt trời buổi sớm đang tỏa ra những tia nắng ban mai ấm áp, bầy chim sẻ nhảy nhót và líu lo hót trong tán cây dương. Billy ngồi đối diện với người phụ nữ, kiên nhẫn lắng nghe. Khi ông và Butch xuất hiện trước cửa, bà đã bắt tay hai người rồi hỏi tại sao họ lại đến đây.
o O o
"Khi tôi nghe tên các ông," bà nói, "tôi biết ngay là có chuyện."
Một cái xác đã được tìm thấy, có thể là một vụ giết người.
Người phụ nữ mặc áo váy gọn gàng ngồi thẳng trước mặt Billy. Bà nói chậm và rõ ràng với một phong cách lịch sự.
'Tôi không có gì để nói nhiều, ông thanh tra ạ. Tôi nghe thấy con Spencer sủa, nó là một con chó ngoan. Buổi tối, bà Aileen thường để nó bên ngoài và Spencer luôn sủa mỗi khi nhìn thấy một sinh vật sống. Tôi nhìn thấy gì ư? Hình như có hai người đàn ông đi qua cánh cổng sau, cái cổng giữa nhà Moore và tòa nhà của Marion Bartletr. Tôi không nhìn thấy mặt họ vì lúc đó tôi để kính ở tầng dưới, nhưng có lẽ một trong hai người đang say rượu. Anh ta đang ôm...không, anh ta đang choàng tay qua vai người kia. Họ đi vào cửa sau ngôi nhà. Tội nghiệp Sheree Lynn. Tôi không biết nhiều về cô ấy, nhưng tôi nghĩ cô ấy chẳng liên quan gì đến những chuyện tồi tệ xảy ra ở đó. Tất nhiên đó không phải là chuyện của tôi. Sau đó tôi thấy buồn ngủ nhưng phải dậy vì con Spencer lại sủa lần nữa. Tôi buộc phải xem sự thể thế nào. Tôi đi qua hàng rào và sang nhà Marion. Hai người say rượu đã gục xuống nền nhà. Tôi tự hỏi không biết cô Sheree Lynn có làm sao không. Con chó nhỏ Spencer từ cầu thang dưới tầng hầm chạy lên. Lúc đó tôi bắt đầu cảm thấy sợ. Tôi ngửi thấy mùi khói."
"Bà đang giúp chúng tôi rất nhiều."
"Ồ, ông thanh tra, tôi đã nhìn thấy cái gì đó rất lạ."
"Như thế nào?"
"Ít nhất là nó lạ lùng đối với tôi. Dù không có kính tôi vẫn nhìn thấy một người đàn ông không mặc quần dài. Vẫn biết giờ đang là mùa hè, nhưng buổi tối liệu ông có mặc quần soóc không?"
"Có ai trong số họ đội mũ hay..."
"Không. Tôi chắc chắn là như thế. Nghĩ lại tôi thấy thật lạ. Người say rượu thường gây ồn ào cãi vã, nhưng họ rất lặng lẽ như thể không muốn ai nhìn thấy thì phải."
"Khi bà nhìn thấy con chó nhỏ màu trắng, bà nhận ra ngay chủ của nó là ai phải không?"
"Chắc chắn rồi. Quanh đây chỉ có một con chó như vậy thôi."
"Con chó Spencer đó là của ai?"
"Nó là của Justin Moore, ông thanh tra ạ. Con trai bà Aileen Moore."
o O o
Khi Butch đi xuống bậc thềm Ngôi nhà của quỷ Sa tăng, Billy bỗng nhiên có một cảm giác ngờ ngợ. Nó giống như cảm giác vào sáng thứ bảy tuần trước khi ông bước chân vào đây, cũng những bật thềm đầy bụi này, cũng căn phòng u ám nơi Darren Riegert treo cổ. Butch chỉ vào đống bụi đất ở bậc dưới cùng.
"Cẩn thận đấy ông bạn. Dodd, anh đã lấy mẫu đất này chưa?"
"Rồi, thưa sếp. Tôi để chúng trên tầng, ở trong bếp ấy."
"Hiện trường có bị xáo trộn bởi lính cứu hỏa không?"
"Tôi không biết. Ông đội trưởng đội cứu hỏa vẫn còn bàng hoàng khi gọi điện đến trực ban. Lính cứu hỏa giẫm cả bùn từ ngoài vườn vào đây nhưng vẫn còn dấu bùn bẩn khác màu ở trên các bậc thềm giống như đất sét hay bụi đỏ. Tôi nghĩ chúng ta phải lấy mẫu."
Butch tránh ra một bên nhường Billy vào trước. Ánh nắng từ cửa sổ phía trên rọi xuống nền tầng hầm thành một khoảng sáng vuông vắn.
"Chào ông, Billy."
"Chào Johnson, chào Tommy. Lúc đầu nạn nhân đã ở tư thế này à, Johnson?"
"Vâng, thưa thanh tra. Nạn nhân hơi nghiêng về bên trái một chút. Tôi vừa tiến hành chụp ảnh hiện trường. Đây, mời ông xem bản phác thảo này, ông có thể thấy toàn cảnh ban đầu khi chúng tôi phát hiện ra nạn nhân lúc 7 giờ 30 phút."
"Chúng tôi đã đi một vòng quanh tất cả các tầng trong khi đợi ông tới, thanh tra Billy ạ."
"Cảm ơn Dodd. Thòng lọng vẫn nguyên như thế kia, không ai động tới chứ?"
"Vâng. Chúng tôi đoán là nút buộc hơi lỏng nên cái xác đã rơi xuống."
"Nó rơi từ từ, thanh tra ạ. Nút thắt kiểu đầu bò, giống như trên cổ tay. Cái xác ở đúng tư thế này, phần thân ngả về phía trước, đầu gối khuỵu xuống, có vẻ là nút thắt được nới lỏng từ từ làm cái xác trượt nhẹ nhàng xuống nền nhà. Nhưng điều chúng tôi không thể lý giải được là..."
"Đó là vết bầm dập trên thái dương. Màu sắc tím tái tự nhiên của da cho thấy nạn nhân đã chết được một thời gian."
"Và thêm nữa, Tommy, sao cái xác lại rơi xuống sang bên trái mà không ngả sang phải? Còn cái gì trên môi anh ta vậy?"
"Một vết máu tụ nhỏ và vết rạch. Môi sắp cứng lại rồi." "Johnson này, cô nhấc đầu nạn nhân lên để tôi xem nào.
Thắt đầu bò: Kiểu thắt nút dùng hai sợi dây mà đầu thắt vòng của mối dây đi lên trên rồi đi xuống dưới hai sợi của dây kia (như kiểu đan quạt nan). Đây là kiểu thắt nút dễ tuột nên không hay được dùng trong các công việc nặng.
Ngửa mặt lên rồi kéo mí mắt lên một chút, tốt rồi. Đúng là Justin Moore."
"Chàng trai tội nghiệp, Chúa ơi!"
"Vậy là hàng xóm không nhìn thấy xác chết?"
"Không. Bà ta ngửi thấy mùi khói và gọi ngay cho lính cứu hoả."
"À, con chó nhỏ đâu rồi? Chuyện gì đã xảy ra với nó? Bà hàng xóm nói nó đã sủa suốt đêm."
"Lúc chúng tôi tới đây chẳng có con chó nào cả. Lính cứu hoả cùng đèn xe của họ chắc đã làm cho nó hoảng sợ và bỏ đi rồi ",
"Có dấu hiệu nào cho thấy nó đã ở đây không, Johnson?"
"Thực tế là có mùi khai ở góc tường gần chiếc máy sấy, thưa thanh tra. Chắc là con chó đã đánh dấu ở đó."
"Cô có chắc đó là nước tiểu chó không?"
"Không chắc lắm, thưa ông. Nhưng ở đó còn một vài giọt, tôi sẽ lấy đem về xét nghiệm."
"Con chó đã vào đây. Tôi đánh cược là như vậy."
"Và nó cũng có thể sủa một xác chết!"
"Ông có muốn đi xem xét xung quanh không, ông Billy?"
"Tôi đợi anh làm xong đã, Tommy ạ. Nhiệt độ cơ thể có cho chúng ta biết được thời gian chết không?"
"Tôi đang kiểm tra. Ông có phỏng đoán nào về những vết sơn đen trên bộ phận sinh dục và trên ngực không?"
"Chắc chắn là do cố tình sơn lên chứ?"
"Vâng, Johnson đã tìm thấy hộp sơn ở phòng bên cạnh."
"Nó giống như loại sơn mà chúng ta đã tìm thấy vào thứ bảy tuần trước. Cũng có một biểu tượng trên tường ở đằng kia. Kẻ bôi sơn lên dương vật đã làm rất cẩn thận. Có một vài giọt rơi trên sàn nhà ngay bên dưới thòng lọng, nơi biểu tượng mới vừa được vẽ."
"Không có sách hay nến hả Johnson?"
"Không, thua ông."
"Các bạn đã làm gì với chiếc áo bị xé rách, chiếc quần soóc và quần lót bị kéo xuống mắt cá chân?"
"Có vẻ như chiếc áo bị cắt bằng dao chứ không phải là bị xé rách. Phần còn lại không nhiều, chỉ nhìn sơ qua cũng có thể nhận thấy."
"Hai mảnh áo được tìm thấy bên trái của cái xác, chúng tôi đã gói lại để đem đi giám định, thưa thanh tra."
"Có dấu máu nào trên áo không?"
"Không, thưa ông."
"Hầu như không có vết máu nào, thưa thanh tra. Ngoài vết rạch trên môi máu đã bị đông lại, trên người anh ta không có vết rạch hay chỗ nào chảy máu nữa."
"Thế còn vết bầm trên cổ do dây buộc?"
"Ồ, ông thanh tra, nếu nạn nhân bị treo lên và chết vì ngạt thì không phải do sợi dây thừng này gây ra. Theo nhận định của tôi từ những gì thu thập được thì vết bầm này quá nhỏ và những chấm ở cổ khiến tôi thiên về khả năng nạn nhân đã bị giết chết trước khi bị treo lên."
"Ôi, Chúa oi. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Không lẽ trong thành phố có kẻ giết người hàng loạt đang..."
"Đừng vội suy luận vậy, Butch. Chúng ta hãy đi ra hiên sau và khu vườn xem sao. Johnson, cô đi với chúng tôi. Cô đã thu thập dấu vết bụi đất chưa?"
"Rồi, thưa ông. Nhanh thôi mà."
"Dodd, anh hãy đi gặp những người hàng xóm nhé."
"Bolling đã đi gặp họ rồi, thưa ông."
"Vậy thì tôi muốn anh tìm kiếm thật kỹ trong vườn. Hãy soi xét từng tí một trong đám cỏ, hàng rào phía sau và trong các bụi cây cạnh ga-ra. Hãy tìm kiếm cả trên nóc ga-ra và bên trong nó. ai nói đến một con dao hay hung khí khác, nhưng lần trước chẳng phải chúng ta đã tìm thấy một con dao cắt bánh mỳ được vùi dưới lớp bùn cạnh hàng rào hay sao? Và còn một điều nữa, sao lại không thấy chiếc chổi sơn nhỉ? Ta cần phải tìm ra nếu chúng còn ở hiện trường."
Billy tìm thấy một khoảng trống không bị vạch phấn hay chăng dây bảo vệ. Ông đứng đó, dựa người vào bức tường xi măng màu xám. Ngoài ô cửa nhỏ, ánh nắng như thiêu như đốt đang chiếu xuống đám cỏ xanh rậm rạp. Bên cạnh ông là một xác chết có những vết bầm tím, bị sơn vài chỗ và quần áo thì như đang cởi dở dang. Tommy đang quỳ xuống nhét nhiệt kế vào hậu môn của nạn nhân để kiểm tra nhiệt độ và dự đoán thời gian tử vong. Billy chăm chú theo dõi Tommy lấy gạc lướt qua toàn bộ nền nhà, dương vật, miệng và các ngón tay nạn nhân để tìm ra dấu tinh trùng hay mồ hôi theo giả thuyết nạn nhân đã bị cưỡng ép quan hệ tình dục vì quần áo bị xé thành từng mảnh. Ngoài ra dương vật của xác chết còn bị sơn đen nữa. Thật sự thì Billy cũng bị sốc trước tình trạng thi thể nạn nhân và cách giết người kỳ lạ của hung thủ.
Ngôi nhà của quỷ Sa tăng một lần nữa lại bị đột nhập và xảy ra án mạng. Cánh cửa bị đạp tung, khoá đồng bị đập tan và có một xác chết trong tầng hầm. Liệu có mối liên hệ nào với cái chết của Darren Riegert bảy ngày trước hay không?
Billy mặc quần jean, áo phông trắng và đi đôi giày màu nâu như thường lệ. Sáng sớm nay, Billy đã đào các hố trồng cây mới, thỉnh thoảng ông dừng lại để quan sát sự thay đổi của bầu trời. Ông nội Naughton từng nói rằng hình ảnh những đám mây và ánh sáng luôn tượng trưng cho người đàn ông trên thảo nguyên. Khi Butch gọi điện tới thông báo lại có một xác chết trong Ngôi nhà của quỷ Sa tăng, Billy đã quang cái xẻng ở mái hiên và biết rằng một điều tồi tệ nữa lại xảy ra, một tội ác nữa lại vừa được thực hiện.
Lúc này, đầu óc ông đang xoay quanh vô số những những câu hỏi mà cảnh tượng trước mắt đem lại. Butch đã nói đúng, những lần phát hiện nạn nhân tại đây đều tương tự nhau: cùng trong một căn phòng, cùng những ký hiệu và cùng tình trạng trần truồng của nạn nhân. Nhưng còn quá nhiều điều bí ẩn. Tại sao cái xác lại được treo lên sau khi chết như Tommy đã nhận định khi xem vết bầm trên cổ? Và cả vết sơn trên dương vật nữa? Không những thế, Justin Moore cũng lớn tuổi hơn so với những nạn nhân trước. Liệu Sherée Lynn Bird có dính dáng gì đến vụ này không? Nhìn lướt qua một lượt hiện trường thì thấy có quá nhiều mâu thuẫn. Billy biết rằng mình lại phải đương đầu với một thử thách nữa.
"Chúng tôi sẽ chuyển cậu ta cho ông Hawkes, thưa thanh tra."
Billy quay lại nhìn Tommy và Johnson, hai người đang đi đôi găng tay cao su màu trắng và đưa chân, lưng, rồi đầu của Justin Moore vào trong một túi ni-lon lớn. Khi họ kéo khoá túi lại, Billy vẫn còn kịp nhìn thấy nước da đã tái xám của nạn nhân.
o O o
Khi cái xác được đưa lên tầng trên, Butch và Dodd ra ngoài vườn kiểm tra, Billy đứng một mình quan sát căn phòng trống. Như đã từng làm trước đó trong vụ Darren, Billy đứng tập trung xem xét. Ông chắp tay sau lưng và lẩm bẩm một mình: "Hãy quan sát tất cả. Không được hướng theo một giả thuyết nào." Mặc dù trong đầu ông đã nảy ra đủ loại giả thuyết, Billy vẫn quyết định để hiện trường "tự lên tiếng." Ông rút cuốn sổ ra khỏi túi, tay cầm bút đưa lên. Trên sàn nhà có vết sơn hình biểu tượng, cùng loại sơn trên dương vật của nạn nhân. Bùn và phân chuột lạo xạo dưới giày của Billy. Ông đi tới bồn rửa, cúi xuống ngửi ống nước thải rồi lại quỳ xuống và nhìn sát mặt đất. Ánh nắng chói chang của buổi sáng đã làm cho bức tường trắng lóa thêm. Những giọt sơn rớt theo một đường dài từ chỗ biểu tượng ở giữa phòng đến bên rìa tường khiến Billy nghĩ đến nơi thủ phạm có thể giấu sơn. Một đoạn dây bện cùng loại với dây treo cổ và dây trói cổ tay Justin Moore bị vứt lại trên sàn trông như một búi cỏ khô. Billy ghi chép nhanh rồi hít một hơi thật sâu và đi lên cầu thang vào bếp.
Johnson vẫn đang đợi ông ở đó. Billy nhìn ra ngoài cửa sổ, Butch và Dodd đang xem xét ngoài vườn, họ vừa đi vừa nhìn xuống lớp bùn đất và đám cỏ cây nghiêng ngả.
"Tôi và cô cùng đi ra cửa sau nhé, Johnson. Người phụ nữ nhà bên nói bà ta nhìn thấy hai người đàn ông đi vào đây từ phía đó. Cô có mang bộ dụng cụ đi không?"
"Có ạ."
"Bolling đã đi hỏi những người hàng xóm về chưa?"
"Anh ta vẫn chưa về, thưa ông."
Ra cửa sau, Billy cầm lấy đôi găng tay cao su và một ít túi bóng trong bộ đồ nghề của Johnson. Hai người đứng một lúc dưới mái hiên, Billy cúi đầu nhìn lại chiếc khoá đồng bị vỡ. Mảnh vụn của những chiếc đinh vít gắn chiếc khoá với bản lề rơi lung tung quanh cửa và cả bên ngoài thềm gỗ.
"Có lẽ chiếc khoá này đã bị ghè bằng đá. Có thể thủ phạm đã dùng một trong những hòn đá xám ở ngoài vườn."
Johnson bước xuống khoảng đất bên cạnh bức tường phía sau nhà. Lẫn trong đám cỏ dại rậm rạp là những viên đá nhỏ được xếp thành một lối đi bằng phẳng, cùng với đó là những viên đá cuội xám to bằng củ khoai tây, rồi cả những phiến đá granite mọc đầy địa y được mang về từ mỏ đá của dãy Crowsnest Pass.
“Từ đây tới cổng khoảng hai mươi thước. Hai người đàn ông đã bước hoặc dìu nhau từ kia tới đây. Hầu hết đoạn đường đều khô nên tôi nghĩ khó có dấu chân để lại, Johnson ạ. Nhưng chúng ta cứ tìm kiếm xem có còn dấu vết nào không?"
Billy đi tới cổng, ông bước lệch về bên trái khoảng ba mươi phân so với lối đi mà ông cho rằng hai người đàn ông đã đi trong đêm. Tại cánh cổng phân chia ranh giới giữa nhà Moore và Ngôi nhà của quỷ Sa tăng, Billy thấy ga-ra nhà Moore trông thẳng ra hàng rào. Một cửa sổ nhỏ từ ga-ra nhìn sang sân sau Ngôi nhà của quỷ Sa tăng. Tấm kính của khung cửa bị bụi phủ dày đến nỗi nó như được sơn một lớp sơn màu trắng đục.
Đi qua cổng, Billy nhận thấy đám cỏ dẫn đến sân sau Ngôi nhà của quỷ Sa tăng bị xéo nát vài chỗ. Ông cúi xuống xem xét thật cẩn thận rồi đứng dậy. Sân của nhà Moore khá hẹp, ngôi nhà lớn với hàng hiên phía sau vuông vắn. Bậc thang dẫn ra cửa sau được bố trí ở cả hai phía của hiên, có thể đi ra sân sau hoặc đường phố phía sau rất thuận tiện. Ga-ra được làm bằng gỗ, lớp sơn màu đỏ đã bạc màu. Cánh cửa kính cũng bám đầy bụi như ô cửa ở bức tường phía sau. Mái nhà bị võng xuống ở giữa, bên trong ga-ra sặc mùi dầu xe, mùi bụi bẩn và gỗ mục. Cánh cửa phía bên phải hé rộng, Billy liếc mắt nhìn vào bên trong.
"Ai đó vẫn để đèn trong này," ông nói với Johnson.
Một chiếc Oldsmobile đậu gần tường bên trái. Billy nhìn thấy những túi đất trồng cây, một chiếc ghế dài, một chậu trồng cây bằng đất nung và một dãy dụng cụ làm vườn được xếp gọn gàng song song với sườn phải chiếc xe.
"Chúng ta phải có lệnh mới được khám xét nơi này. Tuy nhiên tôi thấy lạ là tại sao ngọn đèn kia vẫn sáng. Trừ khi là gia đình Moore bật lên suốt đêm vì lý do an ninh."
Billy bước tới bậc thềm ở hiên sau.
"Tốt hơn là chúng ta nên gọi bà Moore ngay bây giờ. Tôi biết điều này không dễ dàng chút nào."
Vịn tay vào lan can bằng kim loại, Billy đang đinh bước lên bỗng dừng lại. Ông nhìn xuống những luống hoa cải gió được trồng trên các ụ đất cách đều nhau ngay bên dưới bậc thềm. Cây hoa gần bậc thềm nhất đã bị giẫm nát.
"Nhặt nó lên, Johnson."
Billy cúi xuống kiểm tra đất đá xung quanh rồi nhìn ra bãi cỏ bao quanh nền xi măng của hiên nhà. Ông đứng dậy đi nhanh đến chỗ bãi cỏ rồi lại quỳ xuống.
"Xem này Johnson, cái gì đây nhỉ?"
Johnson đến bên Billy và cúi người xuống. Trên nền cỏ có những mảnh nhỏ lấp lấnh. Có phải một chiếc bóng đèn nào đó bị vỡ không? Billy ngẩng đầu lên nhìn vào bóng đèn đang sáng trong nhà. Chụp đèn hình cầu được làm từ thủy tinh có hoa văn, bên trong là bóng đèn trắng đục. Johnson lấy ra một túi ni-lon, dùng nhíp gắp vài mảnh cho vào trong túi gấp lại rồi giơ lên phía ánh sáng.
"Có lẽ đây là thuỷ tinh, hoặc những mảnh đá phiến sét..."
"Có rất nhiều mảnh như thế xung quanh bậc thềm. Mảnh vỡ nhẹ đến nỗi có thể nằm trên ngọn cỏ. Lấy càng nhiều càng tốt, Johnson nhé, ta sẽ đưa chúng đến phòng thí nghiệm."
Từ trong nhà, một tiếng chó sủa vang lên cắt ngang câu chuyện của họ. Rồi từ lỗ vuông phía dưới cánh cửa gỗ, một con chó nhỏ màu trắng chạy ra, vừa sủa vừa vẫy đuôi.
"Spencer," Johnson vừa nói vừa đưa tay đến gần chú chó. Con chó sủa nhẹ, rũ lông rồi không ngần ngại nhảy vào lòng Johnson, nó bắt đầu đưa mũi ngửi ngửi.
"Spencer!", Johnson dỗ dành. "Nhóc ngoan."
Đuôi con chó vẫy rối rít, sau đó nó bỗng dựng đứng hai tai lên, đứng yên nghe ngóng rồi chạy vụt vào trong nhà qua lỗ vuông lúc đầu.
Billy tiếp tục trèo lên các bậc thềm, vừa đi vừa cởi găng tay nhét vào túi quần. Ông bấm chuông cửa, chờ đợi. Tiếng bước chân to dần và cửa được mở ra, một người đàn bà khá cao mặc bộ đồ ở nhà màu trắng nổi bật trong ánh nắng.
"Xin lỗi đã làm phiền bà," Billy nói và giơ phù hiệu cảnh sát Butch đã đưa cho ông.
"Tôi là Billy Yamamoto, thanh tra của lực lượng cảnh sát thành phố. Còn đây là cảnh sát Gloria Johnson."
Người phụ nữ phải mất mấy giây ngỡ ngàng mới hiểu những gì đang diễn ra. Billy đoán bà ta vừa bước từ trên giường xuống. Bà ta nói bằng giọng ngái ngủ:
"Có chuyện gì vậy ạ? Tôi xin lỗi..."
"Bà có phải là Aileen Moore không?" Billy hỏi và nhét chiếc phù hiệu vào trong áo.
"Vâng, hai người có cần vào trong nhà không? Có chuyện gì đã xảy ra à?" Aileen Moore xoa xoa lên mặt và dường như lúc đó bà ta mới tỉnh ngủ hẳn. Giọng bà chuyển sang lo lắng: "Tối qua tôi bị mệt và phải dùng thuốc ngủ. Tôi vừa mới dậy. Có chuyện gì vậy thưa ngài?"
Billy quay sang nhìn Johnson rồi lại nhìn Aileen Moore.
"Tôi rất xin lỗi, thưa bà Moore. Tôi có một tin xấu."
o O o
Butch đưa bà Aileen Moore ra xe tuần tra trong khi Dodd báo cáo với Billy là không tìm được dao hay chổi sơn giấu ở khu vườn và sân sau Ngôi nhà của quỷ Sa tăng. Billy ra lệnh cho Dodd đi kiểm tra chứng cứ ngoại phạm của Blayne Morton và bạn gái của Justin Moore tên là Karen Kreutz. Bà Aileen đã cung cấp cho ông tên của cô gái này.
Khi Billy bước xuống bậc thềm phía sau nhà, Bolling đang chăng dây bảo vệ hiện trường trước lối vào nhà Moore. Viên thượng sỹ trẻ bỏ dở đoạn cuối của sợi dây, rút sổ tay của mình ra và đến bên Billy.
"Cậu có tìm được gì không, Bolling?"
"Hình như tất cả những người hàng xóm quanh đây đều đi nghỉ hè hết rồi, thưa ông thanh tra. Tôi đã kiểm tra tất cả những ngôi nhà tiếp giáp với ngôi nhà này và cả những nhà trên đường Baroness. Tôi cũng tìm kiếm trong một số ga-ra nữa. Không có chiếc ô tô nào cả, không ai trả lời hay xuất hiện dù tôi đã ấn chuông cả cửa trước và cửa sau. Một phụ nữ nói bà ta nhìn thấy ít nhất bốn gia đình đã chất đồ đạc lên xe vào tối thứ sáu. Rất nhiều người quanh đây có những ngôi nhà gỗ ở St.Mary hay quanh khu thiên nhiên Waterton."
"Bà ta có nói là nghe thấy tiếng chó sủa không?"
"Tôi đã hỏi nhưng bà ta nói không."
"Có ai nhìn thấy một chiếc xe tải nhẹ, xe con hay một phương tiện lạ nào trên đường vào thời gian gần đây không?"
"Tôi cũng đã hỏi điều đó rồi. Cũng không có. Hai người hàng xóm ở phía nam hôm qua nửa đêm mới về đến nhà, nhưng họ đều không nhớ nổi là đã nhìn thấy những gì."
"Chúng ta có khoảng bao nhiêu hãng taxi trong thành phố?"
"Ông hỏi gì cơ? Bao nhiêu cái gì ạ?"
"Hãy lấy tên tất cả những tài xế đã lái taxi đêm qua. Hãy kiểm tra lộ trình và hỏi xem họ có nhìn thấy điều gì bất thường trên đường phố hay không." Billy cảm thấy rối bời vì thời gian đã gấp lắm rồi. "Hãy tìm người lái xe nào đi qua
khu vực này vào lúc nửa đêm hoặc muộn hơn. Chắc chắn không chỉ có một phụ nữ cô đơn nhìn thấy hai gã đàn ông say rượu đi vào Ngôi nhà của quỷ Sa tăng đâu. Dodd, cậu hãy lái xe đến chỗ ở của Randy Mucklowe và Sheree Lynn Bird. Hãy nói với họ chuyện gì đã xảy ra và đưa Randy đến trụ sở. Chúng ta cần tên, chứng cứ ngoại phạm của tất cả những người cùng đi khai quật."
"Vâng, tôi sẽ đi ngay lập tức".
"Hỏi cả Sheree Lynn nữa nhé, xem cô ấy có nhận được cú điện thoại nào không. Còn nhớ lần trước không? Có ai đó đã gọi điện cho cô ấy cảnh báo về cái chết của Darren Riegert. Sự việc này cũng có thể lặp lại."
"Tôi sẽ cố gắng hết sức."
Con Spencer sủa vang khi Billy và Johnson tạm biệt Dodd. Bolling đã hoàn thành việc chăng dây bảo vệ hiện trường khu vực ga-ra nhà Moore. Billy đi đến và dùng lại ở trước cửa ga-ra. Có cái gì đó thật lạ. Ông nhìn vào bức tường có các dụng cụ làm vườn treo ngay ngắn trên các móc. Còn thiếu một thứ nữa. Ông liếc nhìn xuống chỗ sàn nhà phía dưới những dụng cụ đang được treo, rồi lại nhìn một lượt toàn bộ ga-ra. Bên dưới chiếc xe Oldsmobile, một chiếc cán gỗ thò ra. Billy cúi xuống nhìn và nhận ra đó là một chiếc cuốc. Ông gọi:
"Johnson, lại lấy mẫu đất ở đây."
Johnson mang bộ dụng cụ đến rồi lấy ra một chiếc bàn chải nhỏ, một ít giấy mỏng và một hộp đựng bột trắng mịn. Johnson đi găng tay, lôi chiếc cuốc ra rồi chải nhẹ nhàng lên cán cuốc.
"Có lẽ chỉ có bụi trên đó thôi, nhưng tôi đang thắc mắc là tại sao nó lại được giấu dưới gầm xe."
Trong lúc chờ Johnson hoàn thành công việc của mình, Billy chắp tay sau lưng tiến lại gần chiếc ghế dài. Chiếc bóng đèn 40W chiếu sáng một khoảng hẹp với các loại chậu đất nung, lọ đựng đầy bút chì và những gói hạt giống. Bên cạnh chiếc ghế có một thùng rác bằng sắt. Billy đeo găng tay vào rồi bắt đầu lôi từ đó ra những cành cây gãy và giấy lộn.
"Hãy đến đây nào, Johnson. Tôi nghĩ là mình đã tìm được thứ gì đó."
Một lát sau, Johnson và Billy cùng nhau xem xét ba đôi quần lót cotron và một chiếc áo phông có dính đầy đất, một đôi quần ka-ki ngắn và một bộ cạo râu bằng nhựa màu xanh da trời.
"Những thứ này của ai nhỉ?"
Johnson chỉ vào chiếc áo phông: "Màu vết đất trên chiếc áo này giống màu của vết bùn mà chúng ta thu được ở cầu thang trong tầng hầm."
"Đây có thể là quần áo của Justin Moore không nhỉ?"
Bỗng một mảnh sáng màu trắng rơi ra từ trong nếp gấp của chiếc áo phông khi Johnson đặt nó lên trên chiếc ghế dài.
"Cô có một cái 'Sherlock' trong bộ dụng cụ của cô không?"
"Cái gì cơ, thưa ông?"
"Một cái kính lúp ấy mà, chúng tôi hay gọi vui thế."
Johnson cười, cô lục lọi ngăn bên cạnh của bộ dụng cụ và lấy ra một cái kính lúp hai inch. Khi cô đưa nó cho Billy, ánh sáng từ ngọn đèn 40W xuyên qua thấu kính và hội tụ lại thành một điểm trắng phía dưới. Billy đặt mảnh trắng trên chiếc ghế dài và bắt đầu quan sát.
"Tôi thấy nó giống một mảnh xương hay mảnh vỏ sò đã được mài nhẵn. Cô đến đây xem này, Johnson."
"Vâng, nó giống như vậy, thưa ông."
Johnson tiếp tục dùng kính lúp xem xét phía đầu kia của chiếc ghế gỗ dài. Cô rút chiếc nhíp ra khỏi túi áo và gắp lên một mảnh nhỏ từ bề mặt thô ráp của chiếc ghế. "Có một mảnh nữa này, thanh tra."
Billy giơ cao vật vừa tìm được về phía ánh đèn. "Xem này, ánh đèn chiếu xuyên qua được nó. Hãy gói nó lại, ta sẽ kiểm tra xem nó có liên hệ gì với những mảnh vụn vừa tìm thấy trên bãi cỏ ngoài kia hay không."
Hai người mất năm phút để gói ghém những vật vừa thu được: mấy bộ quần áo, bộ cạo râu, những mảnh vụn, rồi đi quanh ga-ra một vòng nữa trước khi bước ra khoảng sân đầy nắng. Ông bước qua dây chăng hiện trường rồi đi lang thang trong sân, không biết mình đang tìm kiếm gì nữa. Nhưng đôi khi những kẻ phạm tội trong lúc căng thẳng nhất sẽ giấu nhầm hoặc đánh rơi một thứ gì đó, ông hy vọng vậy. Billy bước sang bên kia đường và nhìn chăm chú vào mặt tiền của ngôi nhà, sau đó quay lại chỗ Johnson. Cô đang cất đồ nghề đi, đóng cửa ga-ra lại rồi niêm phong nó bằng một đoạn dây băng màu vàng. Lúc này bầu trời thật trong xanh, hàng dương đang đu đưa trong ánh nắng dịu dàng, và Billy tự hỏi làm thế nào để tất cả những mảnh ghép nhỏ kia có thể ghép thành một bức tranh hoàn chỉnh.
"Johnson, cô có cầm mảnh giấy trên bàn bếp nhà Moore ra đây không? Mảnh giấy có ghi địa chỉ của Cara Simonds ấy?"
Johnson đưa mảnh giấy cho Billy.
'Tôi sẽ đến nhà cô gái này. Hãy gọi cho Hawkes và bảo ông ấy tiến hành khám nghiệm tử thi nhé. Tôi và Butch cần kết quả càng sớm càng tốt."
"Vâng, thưa ông. Tôi cũng sẽ chuyển những thứ này đến phòng thí nghiệm, và lấy dấu vân tay trên bộ đồ cạo râu luôn nữa."
"Khi nào gặp Butch, cô hãy nói là tôi sẽ gọi cho ông ấy từ nhà của Cara Simonds."
o O o
"Cậu ấy..." Cara Simonds thổn thức, giọng cô khản đặc vì khóc.
Cô ấy chẳng bao giờ nghĩ sẽ phải nói ra những điều đau đớn như thế, Billy nghĩ. Bên chiếc bàn ăn cạnh đó, mẹ Cara đứng lặng nhìn con gái.
"Nói với tôi, Cara!" Billy khẽ nói. "Cố gắng lên!"
"Cậu ấy..." Một lần nữa cô òa lên nức nở, như thể hai chữ ấy tự nó trở thành một rào cản ngăn không cho cô thổ lộ lòng mình.
Billy kiên nhẫn chờ đợi. Cara duỗi thẳng chân ra định nói, bỗng mẹ cô cắt ngang: "Cậu ta là bạn trai con gái tôi, thưa ông thanh tra. Tôi nghĩ chúng nó yêu nhau từ đợt đi khảo cổ vừa rồi."
"Phải vậy không, Cara?"
Cara gật đầu và chùi mắt.
'Tôi rất tiếc."
Cara lại cất tiếng, nhưng lần này bằng một giọng đều đều vô cảm: "Tất cả là do gã Yianni gây ra. Yianni Pappas. Hắn đã theo dõi Justin, cậu ấy rất sợ hắn. Justin nợ hắn tiền. Yianni đã tìm đến tận Waterton để đe dọa Justin. Trong cái đêm cuối cùng chúng tôi ở bên nhau, Justin đã nói chắc giờ cậu ấy không thể tin ai được nữa, kể cả thầy Randy. Thầy ấy không có tiền, và quá nửa thời gian khai quật thầy chỉ uống rượu hoặc ném mấy hòn đá với gã bạn thổ dân tên Sam. Tôi không thích gã ấy. Gã ta luôn gây gổ với thầy Randy. Cái hôm khai quật cuối cùng gã còn dọa đánh Justin nữa. Lúc Justin dỡ đồ khỏi xe tải, cậu ấy vô tình làm rơi chiếc xẻng gần chân Sam, thế là gã nổi điên lên. Gã chửi thề và gào toáng lên là Justin không tôn trọng gã. Thầy Randy phải chạy đến can thiệp. Tôi nghĩ... Tôi còn biết Justin đang mong cô giáo của cậu ấy là bà Patsy Hanson có thể cho cậu mượn ít tiền. Nhưng cậu ấy cũng không chắc mình có thể tin bà ấy hay không."
Cara ngừng lại và nhìn trân trân xuống nền nhà. Billy ghi nhanh mấy chi tiết quan trọng vào trong sổ. Cara tiếp tục kể lại câu chuyện bằng giọng nói đã có phần bình tĩnh hơn.
"Tôi biết... tôi biết là Justin đang vô cùng tuyệt vọng. Thật ra chẳng ai có thể giúp cậu ấy cả. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra sau đó. Nhưng tối hôm thứ năm, chúng tôi thức rất khuya, và khi từ phòng tắm đi ra, tôi thấy có một chiếc túi nhựa màu đen thò ra dưới gầm ghế sofa. Justin và tôi đã mở nó ra và phát hiện trong đó có những chiếc mặt nạ khảm vàng đẹp mê hồn. Justin thắc mắc không biết chúng từ đâu ra. Chứng rất xinh xắn và hình như được làm từ vỏ ốc khảm vàng, tôi cũng không biết nữa. Justin nói rằng: 'Mình cá với cậu đây là cả một kho báu! Nhiều tiền lắm đấy!' Và tôi nói: 'Nhưng sao thầy Randy lại phải giấu chúng đi? Sao thầy ấy không treo chúng lên tường như các đồ cổ khác trong căn nhà gỗ này?'. Trong căn nhà đó treo đầy những chuỗi hạt của dân Anh điêng và sừng hươu cổ. Nhưng Justin nói chúng có thể là đồ giả. Thầy Randy cứ mua những thứ đồ nhựa ấy về rồi tích lại đấy. Chứ còn những thứ trong chiếc túi nhựa đen, nếu là đồ giả thì thầy giấu trong đó làm gì. Thế là đến hôm thứ sáu, ngày khai quật cuối cùng, chúng tôi tiếp tục đào, và tôi..." Giọng Cara trở nên yếu ớt. Trông cô mệt mỏi và tái nhợt đi, dù cái nắng trong những ngày làm việc trên núi đã làm làn da cô sạm lại.
"Cô nhìn thấy Justin lần cuối khi nào Cara?"
Mẹ Cara bước về phía trước và nhẹ nhàng đặt tay lên vai con gái.
"Vào thứ sáu, khoảng 11 giờ đêm, tôi nhớ thế, tôi lái xe đưa Justin và David về thành phố. Chúng tôi đều muốn về nhà thật nhanh vì Sam lại say xỉn và thầy Randy bảo chúng tôi không cần phải dọn dẹp gì hết. Thêm nữa chúng tôi muốn nhận được tiền thù lao của mình tại trường vào sáng hôm thứ hai. Tôi đưa David về nhà trước, rồi Justin bảo tôi đưa cậu ấy đến nhà bà Patsy trên đường Parkside Drive. Cậu ấy nói muốn thử một cơ hội cuối cùng. Justin gọi điện trước cho bà ta nhưng không ai nghe máy. Tôi nhìn thấy Justin lần cuối cùng là lúc cậu ấy bước lên những bậc cửa và vẫy tay chào tôi, nói rằng sẽ gọi điện cho tôi ngay sau khi gặp bà ta. Giờ thì cậu ấy chẳng bao giờ làm thế được nữa. Tôi vẫn nhớ lúc ôm Justin khi cậu ấy ra khỏi xe, bàn tay cậu ấy lạnh toát."
Cara gục đầu xuống. Bà Simonds vòng ra trước mặt Billy giúp con gái đứng dậy và đưa cô vào phòng khách. Khi bà trở lại bếp, Billy cảm ơn và nói rằng Cara sẽ phải đến trụ sở cảnh sát để lấy lời khai. Nếu cô ấy cần giúp đỡ hay chăm sóc đặc biệt thì bà có thể gọi cho cảnh sát trưởng Butch theo số Billy ghi trên danh thiếp.
Nửa tiếng sau, Butch và Billy đã gặp nhau trên đường Parkside Drive, ngay trước nhà Patsy Hanson. Butch mua cho Billy một cốc cà phê từ căng tin của trụ sở. Ông mặc áo sơ mi trắng, thắt cà vạt màu xanh, khuôn mặt mệt mỏi như thể đã không ngủ từ nhiều ngày nay.
"Cara chắc đau đớn lắm?"
"Ừ, cô ấy bị sốc nặng. Cũng dễ hiểu thôi, nghe tin dữ thì ai chả thế. Những kí ức chẳng khác gì lưỡi dao cứa vào lòng!"
Mặt trời tỏa ánh nắng gay gắt lên thảm cỏ và những phiến đá lát đường trước lối vào nhà Patsy. Billy cùng Butch đi đến cánh cửa gỗ sồi và bấm chuông. Trước khi đến đây, Billy đã gọi về trụ sở của Butch để lấy số điện thoại của Patsy. Ông gọi trước cho người phụ nữ này xem bà ta có nhà không thì thấy một người hàng xóm nghe máy. Và lúc này người hàng xóm ấy ra mở cửa, đó là một người phụ nữ ăn vận chải chuốt với mái tóc nâu bóng mượt và bộ quần áo đắt tiền.
"Chào các ông, tôi là Dodie. Mời các ông vào."
Dodie giải thích rằng Patsy hơi mệt nhưng sẽ ra gặp hai người ngay. Ngồi trong phòng khách, Billy hỏi Dodie rằng trong 24 giờ qua bà ta đã làm gì, có nhìn thấy gì không và tại sao bà ta phải chăm sóc Patsy lúc này. Người phụ nữ nói rằng đêm hôm quá có nhìn thấy một chàng trai trẻ đập cửa nhà Patsy rồi gào thét. "Tôi đã định gọi cảnh sát, nhưng ông biết đấy, thực lòng mà nói Patsy hay bỏ rơi các chàng trai trẻ giữa đêm khuya. Thế nên tôi chẳng nghĩ ngợi gì nữa. Cậu ta không ở lại lâu. Cậu ta vòng ra cửa sau, sau đó lại trở lại cửa trước rồi đi về phía tây qua cửa nhà tôi. Tôi không thể nhìn rõ mặt chàng trai đó. Trời tối quá. Nhưng hình như cậu ta mặc quần soóc, áo phông và khoác ba lô sau lưng. Nhìn dáng đi cũng đoán được cậu ta còn rất trẻ. Patsy luôn thích những chàng trai trẻ." Dodie nói rồi đưa tay lau nhẹ viền môi đỏ mọng.
Butch liền hỏi mấy giờ sáng nay bà ta sang nhà Patsy. Dodie nói khoảng 1 giờ sáng Patsy đã gọi điện cho bà khi đang say mèm, sau đó sáng sớm lại gọi lần nữa. Patsy có vẻ bị rối loạn nên muốn nói chuyện với ai đó ngay lập tức. Khoảng 8 giờ 30 hay 8 giờ 45 phút gì đó thì Dodie sang. Cửa trước nhà Patsy không khóa, bà ta đang nằm trên giường, xung quanh là đống chăn đệm bừa bãi và vô số tờ 100 đô la nhàu nát trải tung tóe trên mặt giường.
"Khoảng một tiếng sau thì ông gọi. Tôi pha chút cà phê cố ép Patsy uống nhưng bà ấy không chịu."
Bỗng có tiếng rên rỉ vang lên từ phòng phía trong. Dodie đứng dậy và vuốt phẳng những nếp gấp trên chiếc quần soóc màu lính thủy. "Patsy sẽ gặp các ông bây giờ đấy." Nói rồi bà dẫn Butch và Billy đi qua mấy căn phòng rộng thênh thang được trải thảm trắng muốt đến một phòng ngủ lớn rèm buông kín mít. Patsy Hanson đang nằm trên giường trong bộ đồ lụa mềm mại, tay cầm một cốc đựng đầy thứ nước gì đó màu nâu. Bà ta chỉ vào hai chiếc ghế lót nệm màu hồng cạnh giường và bảo hai người đàn ông ngồi xuống.
Billy bắt đầu hỏi Patsy về chuyện xảy ra tối qua. Patsy kể lại thỏa thuận với Justin Moore, về những tờ 100 đô mà bà ta vừa rút ở ngân hàng, về chai sâm-panh bà đã làm lạnh cho một đêm vui vẻ bên nhau. "Nhưng tôi bỗng thấy lo," Patsy nói. "Tôi có cảm giác Justin sẽ không đến, dù lúc ấy cậu ta đang hoàn toàn bế tắc và tuyệt vọng. Vì thế, tôi bắt đầu uống và say mê man. Điều duy nhất tôi còn nhớ được lúc này là khi bừng tỉnh dậy, tôi thấy giường nệm lộn tung lên, tóc tai rũ rượi và vô số tờ 100 đô vung vãi khắp nơi. Đấy, chuyện chỉ có thế. Tại sao các ông lại đến đây? Jnstin bị làm sao à?"
Billy kể cho Patsy nghe về cái xác trong Ngôi nhà của quỷ Sa tăng.
Patsy đánh rơi chiếc cốc xuống thảm rồi úp tay vào mặt khóc.
“Là Yianni Papas!" Bà ta thổn thức. Rồi Pasty hạ tay xuống, ngẩng mặt lên nhìn thẳng vào Billy, miệng run run vì giận dữ: "Xin ông hãy thiến con lợn bẩn thỉu ấy đi!"
Dodie hắng giọng và cúi người lau vết đồ uống rớt trên thảm bằng một miếng vải mềm.
"Để đấy, Dodie, vì Chúa!"
Dodie trở nên lúng túng.
Billy bắt chéo chân lại.
"Thỏa thuận giữa Justin và Yianni là gì?" Ông hỏi.
Patsy ngồi thẳng dậy. "Justin mượn tiền hắn. Yianni chuyên cho vay nặng lãi. Nhưng Justin không có tiền trả. Hắn đã gọi cậu ấy tới để đòi nợ và gợi ý có thể trả bằng hiện vật. Hiện vật ở đây đồng nghĩa với sex hoặc có khi còn tồi tệ hơn."
"Bà biết rõ Yianni Pappas đến mức nào, Patsy?"
"Ý ông là gì, thanh tra?"
"Hãy trả lời câu hỏi đi bà Patsy," Butch nói, giọng trầm xuống.
"Một lần tôi mượn tiền của hắn. Và, vâng, tôi đã phải phục vụ nhu cầu tình dục cho hắn để trả một phần lãi."
"Trời ơi, Patsy!" Dodie la lên.
"Im đi Dodie.”.
Dodie sững người.
"Dodie," Butch hỏi, "bà có nhớ rõ thời điểm Patsy gọi cho bà sáng sớm nay không? Lúc nãy bà nói khoảng..."
"Khoảng 1 giờ sáng, hoặc có thể sớm hơn, vì tôi nhớ khi đó tôi chuyển sang xem phim tình cảm trên kênh Seatrle nhưng nó chưa chiếu. Kênh Seatrle thường chiếu phim tình cảm lúc 1 giờ."
"Vậy có thể tìm Yianni ở đâu, bà Patsy?"
"Ý ông là ông không biết thằng cha này sao, cảnh sát trưởng?"
"Tôi e là không, thưa bà." Butch thoáng ngượng ngùng khiến Billy ngạc nhiên.
"Bề ngoài thì Yianni luôn tỏ ra tử tế, hắn có một cửa hàng bán đồ thể thao trên phố Dowell. Nhưng suốt 20 năm nay hắn đã bán cần sa và chuyên cho vay nặng lãi, trong số đó có Justin Moore. Tôi ngạc nhiên là cảnh sát lại chưa từng để mắt đến hắn."
"Thật đáng tiếc, thưa bà Patsy, tôi không biết gã này."
"Vậy thì bây giờ các ông có hứng thú rồi đấy. Hai ngày trước tôi vẫn nhìn thấy Yianni trên phố, có lẽ hắn chỉ quanh quẩn đâu đây thôi. Nếu là ông, tôi sẽ đến ngay mấy khu buôn bán và hỏi chuyện mấy người ở đó. Tiếng tăm Yianni cũng chẳng tốt đẹp gì. Người ta đồn rằng hắn từng dùng đèn hàn để thiêu một người nợ hắn có 500 đô la gì đó. Vì thế các ông hãy cẩn thận."
Billy và Butch đứng lên gần như cùng một lúc. Họ cảm ơn Patsy rồi rời khỏi phòng ngủ. Ngôi nhà vẫn chìm trong im lặng.
Dodie tiễn hai người ra ngoài tiền sảnh. "Cảm ơn các ông," bà gượng gạo nói: "Chắc Patsy không dễ dàng gì mà vượt qua được chuyện của Justin đâu."
"Ý bà là gì?" Billy hỏi.
"Ồ, tôi nghĩ là Patsy luôn phát cuồng lên vì cậu trai này, còn cậu ta lại bỏ rơi bà ấy. Chắc hẳn bà ấy đang vào khóc trong phòng tắm rồi. Tôi ngạc nhiên là tại sao Patsy có thể kìm lòng lâu như thế, đến tận khi các ông rời đi..."
Billy rút một tấm danh thiếp và đưa cho Dodie. "Nếu bà còn nhớ ra điều gì đã xảy ra trong 24 giờ qua, hãy gọi ngay cho chúng tôi theo số này nhé." Rồi ông cùng Butch bước ra cửa và băng qua thảm cỏ đến chiếc xe tuần tra.
"Tôi cần phải gọi cho Podd, Butch ạ."
Nói rồi ông quay số gọi cho viên thượng sỹ. "Anh có thu thập được gì ở nhà Randy không, Dodd?"
"Cô Sheree bảo anh ta vẫn đang ở vùng núi. Randy phải thu dọn và hoàn thành nốt nhật ký khai quật nên có thể chiều muộn hôm nay mới về."
"Hãy triệu tập Randy đến trụ sở để thẩm vấn sơ bộ. Anh có khai thác được điều gì từ Sheree không?"
"Tôi đã kể cho cô ấy nghe về cái xác. Sheree có vẻ đau đớn. Sheree nói cô ấy ở một mình và chẳng nhận được cuộc gọi nào cả. Có vẻ cô ấy không muốn nói chuyện cho lắm, thưa thanh tra. Hai người hàng xóm nhà Randy xác nhận đã thấy đèn sáng và nghe thấy tiếng nhạc vọng ra từ nhà anh ta, một người còn nhìn thấy Sheree xách túi rác ra vứt ở bãi rác công cộng vào khoảng nửa đêm. Lúc đó cô ấy chỉ mặc quần áo ngủ."
"Thế còn những người cần kiểm tra chứng cứ ngoại phạm khác?"
"Tôi đã đến nhà bạn gái cũ của Justin là Karen Kreutz. Cô ấy và mẹ ở trong bệnh viện. Bố Karen bị đột quỵ vào sáng sớm hôm thứ sáu nên cần phải chăm sóc ngày đêm. Karen nói cả tuần rồi cô ấy chưa gặp Justin. Khi nghe tôi nói về cái chết của cậu ta, hai mẹ con cô ấy đều bị sốc. Karen không nghĩ ra ai có thể giết bạn trai mình, tuy nhiên cô biết Justin luôn sợ một kẻ tên là Yianni Pappas. Ông ta cho Justin vay tiền."
"Anh biết Yianni không?"
"Ông ta có một cửa hàng bán đồ thể thao ở khu buôn bán. Thế thì sao ạ?"
"Hãy kiểm tra hồ sơ của cảnh sát thành phố xem hắn đã từng phạm luật giao thông như lái xe vượt quá tốc độ hay chưa. Giờ tôi và Butch sẽ đến chỗ của hắn, có gì tôi sẽ gọi lại sau."
"Ông nghi Yiani có liên quan đến cái chết của Justin Moore à?"
"Chưa gặp hắn thì tôi chưa kết luận điều gì cả."
o O o
1giờ 30 phút, Butch và Billy có mặt trước cửa hàng của Yianni Pappas. Hơi lạnh toả ra từ điều hòa khiến Billy nhớ đến hình ảnh cái xác Justin lúc sáng - đầu gục xuống, dương vật bị sơn đen. Đôi giày đi bộ nặng nề và được đặt một cách bất thường trong căn phòng tối tăm bẩn thỉu.
"Ông ấy ra ngoài rồi ạ." Người bán hàng trả lời khi Butch hỏi về Yianni. Cậu ta dẫn Butch và Billy đến văn phòng của Yianni ở sau cửa hàng. "Ông Yianni nói sẽ đến nhà anh trai Pete ạ. Mỗi khi có công việc ở thành phố Calgary, ông ấy thường ghé qua nhà anh trai. Các ông thử tìm ông ấy ở đó xem."
"Yianni đến Calgary có việc gì vậy?" Billy hỏi.
"Việc gì ấy ạ?" Chàng trai bán hàng ngừng lại vài giây. "Chắc là ông ấy mua mấy dụng cụ hay trang phục thể thao gì đó."
"Anh quen Yianni lâu chưa?"
"Tôi ấy ạ?" Cậu ta ngập ngừng trong giây lát rồi nhìn ra ngoài cửa. "Cũng chưa lâu lắm. Mà tôi xin lỗi, giờ tôi không thể tiếp chuyện hai ông được. Mấy ngày cuối tuần này chỉ có mình tôi bán hàng ở đây thôi." Cậu ta khoảng 18 tuổi, mái tóc ngắn xù lên, mũi đeo khuyên và thân hình thì mảnh khảnh như một đứa trẻ. "Các ông lấy số điện thoại của anh trai ông Yianni nhé. Ở ngăn kéo trên cùng bên phải ấy." Cậu ta ngập ngừng nói rồi rời khỏi văn phòng.
Billy lôi một quyển sổ bìa da ra khỏi ngăn kéo rồi lật giở tới những trang vần P, tìm tên Peter Pappas và số điện thoại nhà ở Calgary. Ông đưa quyển sổ cho Butch để Butch quay số gọi. "Lại là trả lời tự động," Butch càu nhàu rồi xé một mảnh giấy và ghi số điện thoại vào đó.
Billy kiểm tra đống hóa đơn và những giấy tờ khác trong văn phòng của Yianni. Ông nhặt một chiếc huy hiệu bằng đồng lên rồi lật mặt sau của nó lại - một biểu tượng hình dương vật. Một cuốn sổ cái đang mở sẵn để trên tủ hồ sơ, Billy lướt mắt qua trang giấy thì thấy vài cái tên cùng số điện thoại được ghi trên đó. Có một cột riêng ghi tên J. Moore, bên cạnh là một từ được ghi nguệch ngoạc bằng bút chì. "Butch, anh có hiểu được điều này không?" Butch lúc ấy đang định nhấc ống nghe lên gọi điện để tìm kiếm thông tin từ phía thành phố Calgary. "Nhìn này, cái tên J. Moore có trong sổ cái. Có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên không nhỉ?"
"Có thể. Có lẽ hắn ta muốn đánh dấu vào đấy cho nhớ, nhưng tôi không hiểu cái từ được viết nguệch ngoạc kia là gì, anh bạn ạ," Có tín hiệu từ đầu dây bên kia. "Các anh có thông tin về Peter Pappas chứ hả? Vâng, được rồi." Butch chờ đợi, rồi chộp lấy cây bút định viết, nhưng sau đó lại dừng lại. "Vâng, cảm ơn anh." Ông gác máy, "vẫn số đấy." Nói rồi Butch đẩy ghế ra và đi ra phía cửa dẫn tới kho hàng phía sau. Billy đi theo ông, họ nhìn một lượt kho hàng, từ chiếc ghế dài xếp đầy dụng cụ và hàng tá thùng hộp cho đến trần nhà. "Có vẻ như hoàn toàn trong sạch nhỉ," Butch nói. Cạnh cửa ra vào treo một tờ lịch in hình một người đàn ông trẻ khỏa thân có ánh mắt đầy khêu gợi. Butch dừng lại và nhìn chằm chằm vào bức ảnh.
"Chắc hắn mê những cái ảnh như này lắm," Billy nói. "Đây là lịch của năm 1991."
Trở về trụ sở, Billy giở quyển Những trang vàng để tìm địa chỉ nhà Yianni ở khu Lakeside Estates. "Đi với tôi một lúc đi Butch. Chúng ta sẽ xem có ai ở nhà số 15 lúc này không."
o O o
Người quản lý của khu nhà năm tầng là một người đàn ông thấp đeo chiếc kính râm che kín nửa khuôn mặt.
"Ông ta luôn trả tiền nhà đúng hạn, đầu tháng nào cũng để lại cho tôi một tấm séc. Nhưng tôi chẳng mấy khi nhìn thấy ông ta. Yianni gặp rắc rối gì à?"
"Chúng tôi chỉ kiểm tra theo thủ tục thôi," Butch lẩm bẩm. "Ông Pappas có chỗ đỗ xe trong tòa nhà này không?"
"Có, ở ô số 6, tầng 1 ấy."
Cầu thang đầy bụi được thắp sáng bởi những bóng đèn hàng trăm Watr, xung quang là dây rợ chằng chịt. Trong ga- ra, tiếng bước chân của Butch và Billy vang vọng trên nền và tường xi măng bẩn thỉu. Ô đỗ xe số 6 trống rỗng.
"Nếu anh là Yianni," Butch nói, "anh đang tức phát điên với Justin và muốn trả thù cậu ta, liệu anh có tự ném mình vào rắc rối bằng cách kết liễu đời cậu ta, mang cái xác đi cả một chặng đường đến Ngôi nhà của quỷ Sa tăng rồi treo nó lên trong tầng hầm và sơn đen dương vật không? Tôi không thiên về giả thiết này."
"Anh không phải một kẻ tâm thần bất ổn, Butch ạ. Sự điên cuồng đôi khi dẫn một kẻ đi vào những con đường hết sức lạ lùng, ví như hắn có thể hành động như một kẻ đồi bại, tin tôi đi. Có thể Yianni không việc gì phải làm thế, nhưng chắc hẳn hắn là một mắt xích trong vụ này."
Trong ánh đèn xanh mờ mờ của phòng khám nghiệm tử thi, Hawkes xuất hiện trong chiếc áo choàng trắng như một bóng ma. Tay ông đeo đôi găng tay cao su màu be, chiếc mic nối với máy ghi âm được gắn vào ve áo. Xác Justin Moore nằm úp xuống dưới bàn tay của Hawkes, nó lạnh cứng và bắt đầu xuất hiện những chấm màu tía. Hawkes mở báo cáo khám nghiệm ra, gắn bức ảnh chụp xác Justin vào góc biểu đồ rồi kiểm tra lại sợi dây buộc vào cổ tay tử thi. "Justin Moore, 19 tuổi, da trắng, 72 kg, cơ thể không bị rạch hay bị thương, xác đã chuyển sang màu xám,..." Hawkes kí tên vào đầu trang và đặt bản báo cáo lên chiếc bàn xác gần với khay đựng dụng cụ mổ tử thi. Dodd và Billy mặc tạp dề, đeo khẩu trang và găng tay bước vào. Toàn thân viên thượng sỹ đầm đìa mồ hôi, gương mặt xanh xám.
"Thời điểm chết khoảng 1 giờ sáng," Hawkes nói. "Tôi đã kiểm tra mẫu máu và dấu vết của quan hệ tình dục, nhưng không thấy có ma túy trong máu hay dấu hiệu quấy rối nào, không có chất dịch từ cơ thể khác, không vết thâm tím nơi hậu môn. Vết máu khô và vết thương ở môi dưới được gây ra trước khi chết, có lẽ là từ cú đánh bằng một vật mềm, một cú đấm chẳng hạn."
Hawkes hắng giọng. Hôm nay ông đeo chiếc nơ màu vàng bơ, đi đôi giày bóng loáng sang trọng, mái tóc bạch kim được vuốt keo óng mượt và chải kỹ lưỡng thành từng nếp dày bao quanh vầng trán hói. "Các quý ông, tôi đã xem xét bức ảnh chụp hiện trường và cũng đã nghe những gì các ông mô tả, đặc biệt về cái thòng lọng bị lỏng xuống. Nhân viên cứu thương của các ông đã phán đoán hơi vội vàng. Cậu trai này không chết theo cách đó. Cổ tay cậu ta bị trói như trường hợp của Darren Riegert - ở một góc độ rất lạ. Tôi dám khẳng định là bị trói sau khi chết." Quay lại cái xác, Hawkes nâng cổ Justin dậy và khẽ nghiêng đầu cậu về bên phải. Ông kéo môi dưới ra: hàm răng nghiến chặt. "Trong miệng nạn nhân có máu, lưỡi bị cắn và thè ra ở chỗ này, các ông xem, ở chỗ hàm trên. Môi hơi sưng do bị chết ngạt. Nhưng không có vết bầm nào ở ngoài lớp biểu bì."
Dodd lùi lại và lấy tay day day trán. Mặt anh ta giờ còn xanh xao hơn lúc trước.
"Có lẽ anh nên ra ngoài trời hít thở một chút, Dodd ạ." Billy nói.
"Không sao đâu thưa ông. Tôi sẽ ổn thôi."
Nhiều năm điều tra án mạng, Billy hiếm khi trải qua một cuộc khám nghiệm tử thi nào mà không có ít nhất một sĩ quan mắc chứng buồn nôn do thần kinh yếu. Thậm chí cả người đồng nghiệp đã mất của ông, Harry Stone, cũng từng bị chóng mặt khi chứng kiến cảnh mổ xác của một đứa bé bị cưỡng hiếp. Ai cũng phải đeo khẩu trang, không chỉ để tránh những mầm bệnh mà còn để tránh mùi tử khí. Billy nhớ lại ông đã từng phải luyện cái mũi nhạy cảm của mình bằng cách đứng thật lâu trong những mùi thật khó chịu cho đến khi mũi trở nên tê liệt. Từ đó, ông không còn cảm thấy mùi xác chết hay bất cứ mùi ghê tởm nào nữa.
Tám phút tiếp theo, Hawkes cầm dụng cụ mổ xác lên. Ông bắt đầu giải thích về lớp da và lớp cơ quanh cổ chỗ ông chuẩn bị giải phẫu.
"Dodd," Hawkes gắt lên, "nếu anh cần thư giãn một chút, hãy ra khỏi đây trước khi tôi bắt đầu."
Dodd lấy tay bụm miệng.
"Nghe này, vì Chúa, bỏ cái tay xuống. Hãy tập quen với việc này đi. Nó không làm anh đau đớn gì đâu."
Billy thấy mặt Dodd đỏ bừng sau tấm mặt nạ. Anh ta hạ thấp tay xuống và đứng tập trung nghiêm chỉnh theo những lời nói sắc lạnh của Hawkes. Vị bác sĩ pháp y vừa cầm con dao mổ trên tay vừa tiếp tục giải thích vì sao cổ nạn nhân lại thiếu vết bầm của dây thòng lọng.
"Vậy, thưa ông," Dodd cố gắng cất tiếng, "chúng ta có thể bác bỏ giả thuyết đây là vụ tự tử, đúng không ạ?" Giọng anh ta có vẻ cứng cỏi hơn nhưng vẫn có phần luống cuống.
"Có thể," Hawkes đáp rồi lách con dao mổ vào cái cổ trắng bệch của tử thi. Hướng mũi dao về phía mình, ông rạch một đường hoàn hảo ngay dưói sụn thanh quản và bắt đầu rạch đến chỗ nếp gấp của biểu bì.
Billy luôn thấy hứng thú với những lần mổ xác thế này. Từng lớp cơ thể dưới da, từng bộ phận thân thể, các phân tích chính xác về dấu hiệu giết người được tìm thấy ở cả những vết châm nhỏ nhất lẫn những vùng tổn thương nhiều nhất của da và xương... lần lượt hiện ra trước mắt ông. Nhưng đúng lúc ấy mặt Dodd chuyển sang tái mét. Khi anh ta vừa khuỵu xuống, Billy vội chạy đến đỡ lấy và nhẹ nhàng đặt anh ta lên sàn nhà. Nghe tiếng Hawkes gọi Bolling ngoài cửa, ông nới rộng cổ áo Dodd và bắt mạch cho anh. Hawkes đến bên ông: "Anh ta sao rồi?"
"Anh ta sẽ ổn thôi," Billy đáp.
Dodd chớp chớp mắt rồi thở hổn hển, mồ hôi đọng thành từng giọt trên trán. Bolling bước vào phòng khám nghiệm tử thi, mang theo một cốc nước. Anh ta quỳ xuống cho Dodd nhấp một ngụm nước rồi giúp đồng nghiệp đứng đậy đi ra phía hành lang. "Khi Dodd ổn hơn," Billy nói với Bolling, "hãy đưa anh ta trở lại đây. Đây là công việc hàng ngày và anh ta phải quen với nó."
"Rõ, thưa rlgài.".
Hawkes đợi Billy đeo khẩu trang vào và quay trở lại bên bàn xác. Ông kéo lớp biểu bì trên cổ nạn nhân ra, để lộ lớp hạ bì.
"Ông thấy không? Một sợi dây thừng mềm không thể gây ra vết thương kiểu này được. Đây này."
Billy cúi xuống để nhìn gần hơn.
"Những vết bầm sâu này là do bị ngón tay, chủ yếu là ngón giữa ấn vào. Chàng trai này đã bị siết cổ bằng tay. Lực của bàn tay tác động trực tiếp lên tuyến giáp. Đây này."
Billy nhìn theo tay Hawkes ấn vào khí quản của xác chết, ngón tay đèo găng lướt dọc trên mảng da thịt xanh xám.
"Khi ấn xuống," Hawkes nói; "móng tay và sụn thanh quản bị ép chặt vào nhau."
Rất nhanh, vị bác sĩ luồn tay xuống dưới vai Justin và lật xác nạn nhân nghiêng về bên trải! 'Tới đây và xem này." Hawkes đã tách xong lớp biểu bì sau gáy để lộ vết bầm do tay gây ra ở lớp hạ bì. "Đây là những vết ngón cái." vết xanh tía ở đây thuôn dài, rộng hơn và nằm sát nhau một cách lạ lùng. "Chàng trai này đã bị siết cổ từ phía sau."
Hawkes chầm chậm đặt cái xác xuống. Ông tháo găng tay ném vào chiếc thùng rác bằng kim loại cạnh bàn xác rồi tháo khẩu trang ra. Sau đó Hawkes lấy một đôi găng mới, chất bột khử trùng bay lên như một đám mây nhỏ bao quanh tay ông.
"Dodd thế nào rồi?" Hawkes hỏi.
"Dodd?" Billy gọi to. Ông nghe thấy tiếng ho từ phía hành lang.
Cánh cửa nhà xác mở ra, Bolling thò đầu vào và cười khúc khích: "Dodd vừa cho ra tất cả những thứ trong bụng, thưa ông. Tôi đã phải đi tìm cái chậu đấy."
"Chúng ta gần xong rồi, thanh tra ạ. Ông có muốn làm điếu thuốc giải lao không?"
"Không, tôi bỏ thuốc 5 năm nay rồi"
'Tôi cũng thế, dù chẳng muốn tẹo nào." Mắt Hawkes lấp lánh, đôi lông mày nhướn lên kiểu cách. Ông đi về cuối chiếc bàn xác để xem xét gan bàn chân của nạn nhân, rồi nâng hai chân lên để kiểm tra bẹn và bìu dái. Bước lùi lại, ông lôi một cuộn dây bọc sáp trắng từ chiếc hộp dưới bàn xác ra và buộc cổ tay nạn nhân lại. "Ông biết đấy, những vết quầng có thể xuất hiện ở những giai đoạn khác nhau của quá trình xác cứng lại." Sau khi buộc cả cổ chân nạn nhân, Hawkes cắt dây và nhét cuộn dây cùng cái kéo bằng thép không gỉ vào trong hộp.
Có tiếng gõ cửa, một viên hạ sĩ thò đầu vào: "Bác sĩ Hawkes, vợ ông gọi điện."
"Chúa ơi, tôi đang phải khám nghiệm tử thi. Bà ta muốn cái quái gì vậy?"
"Bà nhà bảo tôi nhắn lại rằng nếu ông không về nhà trong vòng một tiếng nữa thì trà sẽ bị hỏng đấy.!'
"Cảm ơn anh, Briggs. Nói với bà ấy là tôi vẫn còn ý thức về thời gian. Tôi sẽ gọi lại cho bà ấy ngay kèm theo một lời xin lỗi như thường lệ."
Cánh cửa đóng lại. Hawkès nhìn Billy, mặt ông đỏ bừng. Ông vừa kéo khẩu trang lên vừa thở gấp.
Cuộc khám nghiệm mất đúng 45 phút, chỉ là khám nghiệm bao quát nhưng Billy khá hài lòng với những đánh giá ban đầu của Hawkes. Trong khi vị bác sĩ mô tả chi tiết những kết luận vừa rút ra trong quá trình khám nghiệm, Billy lấy sổ ra và ghi lại tóm tắt nhưng lời lẽ của ông. Sau đó, Billy thêm một số ghi chú và nhận định của mình rút ra từ việc quan sát hiện trường.
Dodd đang nằm trên chiếc ghế dài trong phòng đợi ở tầng dưới, anh ta mở mắt và rên rỉ: "Tôi xin lỗi.”
"Mọi thứ cũng xong rồi, Dodd ạ."
"Tôi không thể chịu được cái mùi đó, ông Billy."
"Tôi muốn hỏi anh vài câu. Anh ngồi dậy được không?"
Dodd ngồi thẳng dậy.
"Anh tìm được tài liệu gì liên quan đến Yianni Pappas chưa?"
Dodd đứng dậy. "Ông đi theo tôi." Hai người đi về phía phòng thường trực và bước lại chiếc bàn. Trên đó có một chiếc phong bì. "Toàn bộ dữ liệu tôi đã in ra trong đó."
"Chúng tôi không tìm thấy bất cứ dữ liệu nào về Pappas trong hồ sơ của thành phố, nhưng Johnson từng nghe nói tên này là một kẻ chuyên cho vay nặng lãi. Chỉ là những lời đồn chứ không có bằng chứng rõ ràng vì Papas luôn giữ cho cửa hàng của mình làm ăn trong sạch. Vì thế Johnson đề nghị kiểm tra hồ sơ của Cảnh sát Hoàng gia. Thoạt tiên chẳng có gì cả, nhưng rồi chúng tôi thấy một dấu ghi chú, người ta chỉ đánh dấu này khi có một cái tên nào đó được đưa vào hồ sơ của cảnh sát Hoàng gia. Chúng tôi gọi điện cho họ và đã gặp may mắn. Tối qua, Yianni Pappas đã ở Calgary. Hắn đã bị bắt lúc 11 giờ 30 phút vì hành hung một người đàn ông ở quầy bar của khách sạn Palliser. Gia đình người đàn ông đó đã khởi kiện. Yianni có một người anh trai ở Calgary, nhưng ông ta không thể đến để bảo lãnh. Yanni đã đánh người đàn ông kia rất dã man. Phiên tòa sơ thẩm sẽ được mở vào thứ hai tới."
"Đó chính là chứng cứ ngoại phạm của hắn!",
"Có lẽ là vậy, thưa ông."
Billy và Dodd quay trở lại phòng đợi, Dodd trông đã khá hơn. Anh ta đi lấy hai tách cà phê rồi ngồi xuống đối diện với Billy, Billy đang nghiên cứu những nhận định vừa rút ra sau lần khám nghiệm tử thi vừa rồi. "Justin bị siết cổ từ đằng sau," ông nói, "bằng một đôi tay cực khỏe."
"Vậy chắc chắn phải là giết người có chủ đích.
"Giết người?"
"Vậy sao dương vật cậu ta lại bị sơn đen? Sợi dây thòng lọng để làm gì?"
"Thủ phạm muốn đánh lạc hướng chúng ta. Hắn cho rằng chúng ta sẽ tập trung vào tình tiết treo cổ. Nhưng vụ án lần này có liên quan gì đến những vụ treo cổ trước?"
Đầu Billy đau như búa bổ, đầu gối ông cũng sưng lên và nhức nhối. Một cảm giác bồn chồn và thất vọng quen thuộc lại trào lên. Một bức tường khác. Một khúc ngoặt khác. Billy đi về phía phòng thường trực, thư ký nói có một người vừa gọi cho ông và yêu cầu ông gọi lại. Billy cầm điện thoại lên và quay số. Đó là Dodie, hàng xóm của Patsy.
"Ôi, ông thanh tra, thật may là ông gọi lại. Patsy phải vào viện rồi."
"Chuyện gì xảy ra vậy?"
"Bà ấy đã cố rạch nát cổ tay mình. Khoảng một giờ trước. Tôi đã đưa bà ấy đến đó. Lúc các ông đi khỏi tôi chợt nhớ ra một điều."
"Điều gì?" Billy nôn nóng hỏi.
"Mấy hôm trước Patsy say rượu và đã nói với tôi rằng bà ấy rất giận Justin và muốn giết cậu ta."
"Patsy nói vậy hôm nào?"
"Vào đêm thứ tư."'
"Trước đây bà ấy có bao giờ nói những điều như thế không?"
"Không. Tôi nghĩ Patsy thực sự rất giận Justin và bị sốc. Bà ấy thường quá coi trọng mọi chuyện của mình. Xin lỗi đã làm phiền ông. Tôi đã làm cho mọi thứ trở nên lộn xộn."
"Patsy Hanson hiện ở khu cấp cứu hay ở trong khoa nào?"
"Khu cấp cứu. Tôi nghĩ lúc này bà ấy sẽ không làm gì có hại cho bản thân nữa đâu, hãy tin tôi."
Cần phải xử lý chuyện này thế nào nhỉ? Billy tự hỏi sau khi gác máy. Dường như lúc này thời gian càng trở nên gấp gáp. Rất nhiều mối liên hệ đã được xác định nhưng câu hỏi mấu chốt của vụ án vẫn chưa được trả lời. Nhiều giả định được đặt ta nhưng vẫn mông lung khó hiểu. Ông trở lại phòng máy tính và ngồi xuống bàn ghi chép lại những thông tin Dodie cung cấp. Trong khoảnh khắc, ông chợt nghĩ đến việc Sheree Lynn ở nhà một mình. Khốn kiếp thật. Thế còn Randy? Anh ta đang ở đâu? Justin Moore và Darren Riegert có mối liên hệ như thế nào?
Một lúc sau Dodd, Johnson và Bolling đều có mặt ở phòng thường trực. Một nhân viến trực ban đến thông báo cho Billy:
"Chiều nay sếp Bochansky muốn đưa tất cả các vị đến khách sạn El Rancho để dùng bữa và trao đổi kết quả công việc."
Gần 3 giờ chiều, Billy lái chiếc Pontiac bám sau xe tuần tra của Butch đi qua đại lộ Galt tới đường Magrath, nơi khách sạn El Rancho tọa lạc. Khách sạn này được xây dựng vào năm 1952, là chuẩn mực cho kiểu kiến trúc hiện đại của những năm đầu thập kỷ năm mươi. Hành lang được lát đá màu đỏ, mái vòm ở mặt tiền trông như một cái đĩa khổng lồ, ở giữa võng xuống và được lắp nhiều bóng đèn nhỏ giống như các sòng bạc ở Las Vegas. Tấm biển cũng mô phỏng theo kiểu cách của Las Vegas với hình ảnh một chàng cao bồi sáng rực, mũ được chăng những dây đèn nê-ông màu trắng, quần jean, áo 0sơ-mi được chăng đèn màu xanh còn cặp kính thì được viền bởi những dây đèn màu đỏ.
Ngồi vào chiếc bàn hình bán nguyệt bọc da màu đỏ sang trọng, Butch không xem thực đơn mà gọi ngay rượu whisky và món thịt bò thăn nướng cho cả bàn.
"Chúc sức khoẻ!" Butch nói và nâng cao ly rượu. Họ lặng lẽ thưởng thức hương vị thơm ngon của món thịt bò nướng. Trong phòng, ban nhạc đang biểu diễn những giai điệu du dương mà chàng ca sĩ nổi tiếng Garth Brooks từng hát. (Nam ca sĩ nhạc đồng quê người Mỹ sinh ngày 7 tháng 2 năm 1962, ở Tulsa, Oklahoma, là một trong những nghệ sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử với hơn 100 triệu album được bán hểt trong suốt thập kỷ qua). Sau khi uống cà phê, Butch yêu cầu mọi người báo cáo về vụ án, đầu tiên là Dodd. Anh rút cuốn sổ nhỏ trong túi, hắng giọng rồi nhấp một ngụm nước như thể chuẩn bị đọc một bài diễn văn trịnh trọng.
"Dấu vết bùn trên các bậc tầng hầm được lấy lúc..."
"Dodd, hãy cắt phần đó đi. Dấu bùn ấy đến từ đâu?" Billy ra lệnh.
Dodd có vẻ hơi tự ái khi bị ngắt lời đột ngột. Billy biết rằng mấy ngày nay họ đã rất mệt, hết điều tra vụ việc này đến xác minh vụ việc khác. Butch thì hơi đỏ mặt vì rượu whisky. Nhưng ông muốn họ tập trung hơn nữa vào vấn đề càng ngày càng làm ông lo lắng - kẻ giết người có thể không bao giờ bị bắt.
'Tôi đã gọi đến đến trung tâm nghiên cứu đất trồng ở Coaldale. Tiến sỹ Gore nói sẽ gửi mẫu đến vùng Alberta trong sáng thứ hai tới. "Cậu nghĩ chúng đến từ đâu?" Billy nhắc và gõ gõ ngón tay lên mặt bàn.
"Tôi đoán chúng có nguồn gốc từ vùng Pincher hoặc Waterton. Ở đó có nhiều hẻm núi có đá phiến sét đỏ và đá cuội."
"Tiếp tục đi," Billy ra hiệu.
Dodd nhấp một ngụm nước trước khi tiếp tục.
"Blayne Morton đang bị giữ tại trại giam dành cho trẻ vị thành niên. Từ thứ ba, thằng bé đã được giám sát chật chẽ. Tối thứ sáu nó vẫn bị giữ trong đó dù bà Mortón đã đến xin cho con trai được ra ngoài vào kỳ nghỉ cuối tuần.
"Cứ cho là cậu ta ngủ ở đó đi," mắt Billy nặng trĩu vì rượu whisky và bữa ăn no nê.
"Vâng, thưa ông."
"Còn Randy thì sao?"
"Tôi đã gọi điện đến căn hộ..."
"Vì Chúa, Dodd!" Billy đấm xuống bàn và đứng dậy. "Tại sao Randy không có mặt trong thành phố?"
"Nào, ông bạn!", Butch xoa dịu Billy.
"Tên giáo sư đó là mắt xích chủ chốt trong vụ án này. Hắn ta là kẻ tình nghi. Chúng ta đang phí thì giờ. Chúng ta không ngồi đây để cãi nhau. Lệnh triệu tập tôi đã yêu cầu đâu rồi? Đó là một công việc cần phải được ưu tiên. Tôi cần gặp hắn ta từ ba tiếng trước, vậy mà giờ tôi chỉ có mấy người đang ngồi đây để ăn một bữa tiệc chết tiệt!" cổ họng Billy khô đắng vì mệt mỏi, ông uống nhanh một ngụm nước.
Những người khác ngồi như hóa đá. Butch định nói thì Billy tiếp tục.
"Chúng ta phải khẩn trương lên. Chứng cứ quan trọng nhất, ví dụ như quần áo của Darren Riegert, vẫn chưa tìm ra. Chúng ta cũng thấy là Randy đang trốn trên núi hoặc định rời bỏ đất nước này. Johnson, tôi muốn cô đến ngay trụ sở cảnh sát Hoàng gia nhờ họ thông báo đến các đợn vị ở Waterton và các nơi khác trọng khu vực, yêu cầu họ đến căn nhà gỗ của Randy và bắt giữ hắn ta nếu cần thiết."
Johnson đứng ngay dậy, cô cầm mũ, điện thoại và rời khỏi bàn.
"Những người còn lại giữ liên lạc 24/24 giờ. Không được tắt máy và sẵn sàng hành động ngay khi có lệnh. Các anh có thể tranh thủ ngủ vài tiếng nhưng phải dậy thật sớm."
Butch đứng dậy, mặt ông trắng nhợt vì kiệt sức.
"Được rồi, anh bạn. Tôi sẽ là người đầu tiên thức để trực. Dodd, anh và Bolling tranh thủ về nhà ngủ một chút đi."
"Bolling, anh đã thu thập được những gì?" Giọng Billy vẫn còn căng thẳng.
"Một người lái taxi tên là Myron Monk làm việc ở hãng taxi Thảo Nguyên nói anh ta đã ở khu vực Ashmead và Baroness vào khoảng nửa đêm hay muộn hơn một chút. Anh ta nhìn thấy một chiếc xe tải nhỏ đỗ ở trước cửa nhà Justin Moore. Myrori nhớ rõ vì rào chắn của chiếc xe bị bẹp móp lại và anh ta nghĩ nó không phải là xe của những gia đình quanh đó. Nó không có biển số, hình như được sơn màu trắng. Đèn đường Baroness bị những tán lá rậm rạp che khuất nên anh ta nói rất khó để nhìn vào trong nhà dưới ánh sáng lờ mờ như thế."
Johnson đã trở lại. "Cảnh sát Hoàng gia đã nhận được cuộc gọi của Dodd sáng nay. Họ không thấy Randy ở căn nhà gỗ của hắn. Họ đang cử một người khác đến để xem xét và hỏi những ngườỉ hàng xóm quanh đó xem họ có nhìn thấy Randy không: Đơn vị cảnh sát ở Cardston cũng đã được đặt trong tình trạng báo động."
Billy gật đầu. Johrison rút cuốn sổ tay của mình ra và nói một mạch:
"Chúng tôi đã tìm thấy nước tiểu chó trong tầng hầm và một dấu vân tay ngón cái trên nắm đấm cửa sau, phát hiện tóc, dấu vân tay cùng một chút máu trên lưỡi dạo cạo của bộ cạo râu. Máu đó cùng loại với máu trên thi thể Justin Moore. Về những mảnh vỡ chúng ta tìm được ở bậc thềm sau nhà, đó là những mảnh sò trắng rẩt hiếm tại miền Nam nước Mỹ, những mảnh vỡ tìm được trong ga-ra là những mảnh xà cừ."
Billy dừng lại ngẫm nghĩ
"Giữ liên lạc nhé. Bolling, hãy về trụ sở soạn lệnh bắt Randy, Sheree Lynn và những người có liên quan đến vụ khai quật vừa rồi. Tìm xem nhà David Home ở đâu và thông báo cho cảnh sát Hoàng gia. Chúng ta cần xác định nơi ở của một nguời đàn ông nữa tên là Sam Heavy Hand. Randy có thể biết gã đó ở đâu. Sáng mai gọi ngay cho Sharon Riegert, có thế bà ta biết nhiều hơn những gì đã khai báo. Và, vì Chúa, chú ý không được để Sheree Lyhn rời khỏi thành phố. Butch, anh hãy gọi cho Royce và yêu cầu anh ta giám sát căn hộ của Ranđy. Tối nay cần phải cử một cảnh sát đến Ngôi nhà của quỷ Sa lăng nữa."
Tất cả họ đều đứng dậy, bỏ một vài đô la tiền boa xuống bàn rồi đi qua không gian đầy khói thuốc của quán bar ra bãi đỗ xe bên cạnh.
"Nghe này, anh bạn!", Butch nói, "tôi thấy anh có vẻ mệt mỏi, anh nên tranh thủ chợp mắt một lát đi. Tôi sẽ cử một người gác ở Ngôi nhà của quỷ Sa tăng. Đích thân tôi sẽ đến căn hộ của Randy xem tình hình ở đó thế nào trước khi cử Royce đến giám sát. Sáng mai chúng ta gặp nhau nhé."
"Anh có nhớ Cara Simonds đã nói gì về những chiếc mặt nạ mà cô ấy và Justin cùng nhìn thấy không?" Billy nói, những ý nghĩ đến dồn dập. "Tại sao Randy lại có được chúng? Tôi đã đọc về vụ trộm những chiếc mặt nạ khảm vàng và vỏ sò rất quý tại trường Đại học Montana. Và tôi nghĩ những mảnh xà cừ chúng ta thu được trong nhà Justin Moore là từ những chiếc mặt nạ đó rơi ra.
Bụtch chăm chú lắng nghe.
"Justin đang cần tiền!", Billy tiếp tục. "Đó là hướng điều tra của chúng ta. Quần áo của cậu ta được giấu ở trong thùng rác của ga-ra và chúng ta tìm thấy những mảnh sò vỡ bên trong những nếp gấp. Randy và Justin đã cùng nhau đi khai quật. Chắc chắn Randy có dính dáng. Còn Sam Heavy Hand thì sao?"
Butch xoa xoa khuôn mặt cho tỉnh ngủ rồi thốt lên: "Lạy Chúa!" Ông vỗ nhẹ vào vai Billy rồi bước ra chiếc xe tuần tra của mình.
Billy bước về phía chiếc Pontiac, những đám mây phía tây bầu trời trông hệt như những mảnh vải màu hoa cà rực rỡ vắt ngang nền trời hoàng hôn đỏ rực. Một làn gió ấm khẽ thổi qua, Billy nhìn về phía đường Cutbill, những hàng cây đang đu đưa nhè nhẹ rủ bóng xuống vỉa hè hoang vắng. Lái xe qua sông Oldman, ông thấy một giờ vừa qua thật hữu ích. Nhưng lúc này, ông mệt mỏi đến mức không muốn làm gì khác ngoài việc trở về nhà. Chợt một cảm giác lạ giống như linh tính xuất hiện trong Billy, ông không lái xe lên đường cao tốc mà quay lại phía trường đại học.
Những ánh đèn vẫn thấp thoáng trên thư viện khi Billy lái xe xuống một con dốc hẹp dẫn vào khoa Khảo cổ học. Đậu ở lối vào là một chiếc xe tải nhẹ sáng màu, rào chắn bảo vệ đã bị móp lại, cửa sau mờ bụi và loang lổ vết bùn đất. Billy kiểm tra giờ, bảo vệ nhà trường khóa cửa khi nào? Nếu là mười một giờ như ngày xưa thì ông còn khá nhiều thời gian.
Hành lang phía trước tối và yên ắng. Billy bước nhanh qua những cánh cửa văn phòng khóa im ỉm. Ở một góc hành lang, ông thấy một bảng danh sách các giảng viên và ông tìm được số phòng của Randy là 43. Năm phút sau, Billy bước nhẹ nhàng về phía căn phòng đó. Căn phòng đã bị khóa, qua lớp kính ở cửa ra vào, Billy nhìn thấy bên trong có một chiếc bàn, hai giá sách chứa tài liệu và hàng tá hộp đựng giầy bẹp gí.
Ông tiếp tục đi rón rén qua một cánh cửa nặng nề xuống một hành lang. Dọc hành lang là các cửa ra vào ghi Phòng thí nghiệm 1; Phòng thí nghiệm 2,... Billy nhìn về phía cuối dãy, có một tia sáng yếu ớt lọt qua khe hở của cánh cửa phòng thí nghiệm cuối cùng. Ông lặng lẽ nép sát vào tường rồi dừng lại. Một sinh viên học muộn chăng? Hay là ai đó đang nghiên cứu đề tài? Billy đút tay vào túi áo, bước tới cửa và thấy nó không khóa. Ông dùng khuỷu tay đẩy nhẹ cửa ra. Bên trong là một phòng học với những chiếc bàn được xếp thành hàng ngay ngắn.
Trong ánh sáng xanh kỳ quái, một chiếc bàn dài làm bằng thép không gỉ án ngữ giữa phòng. Một ngươi đàn ông tóc ngắn, mặc chiếc quần ka-ki ngắn để lộ hai đùi khá to đang cúi người xuống chiếc bàn. Billy nhìn kỹ hơn thấy trên bàn có bảy chiếc ntặt nạ vàng xếp lần lượt cạnh nhau, trông chúng vô cùng tinh xảo. Người đàn ông tay đeo găng đang cầm nhíp lúi húi gắn gì đó vào một chiếc mặt nạ bị vỡ. Vì mải làm nên anh ta không nhận thấy Billy đã bước vào trong. Anh ta ngẩng đầu lên và giật mình đánh rơi chiếc nhíp xuống sàn. Không ai khác, đó chính là Randy.
Nhặt chiếc nhíp lên, Randy ngồi thẳng dậy và gật đầu chào Billy, đôi lông mày nhướn lên.
"Ông làm tôi ngạc nhiên đấy, thanh tra Yamamoto."
"Chào buổi tối, anh Randy."
"Ông đến đây xem tôi có gì này."
Billy bước tới gần hơn. Trông Randy có vẻ mệt mỏi, mắt anh ta có vằn đỏ của máu, cổ bị cháy nắng và người đầy bụi đất. Có một vết sẫm màu trên má phải anh ta, Billy không xác định được đó là bùn đất hay là cái gì. Randy lấy tay phủi phủi lớp bụi trên một chiếc mặt nạ, nó sáng lấp lánh đến lạ kỳ.
"Cả một kho báu", anh ta nói giọng khô khốc.
"Anh tìm thấy những thứ này trong cuộc khai quật vừa qua à, giáo sư?"
"À, ồ, vừa đúng, vừa không đúng. Những món đồ tìm được trong cuộc khai quật tôi vẫn để trong cabin,. nhưng những thứ này tôi được một người tặng cho trong chuyến đi vừa rồi. Tôi muốn làm cho chúng sạch sẽ hơn. Viện bảo tàng ở đây chắc hẳn rất quan tâm đến chúng. Randy nói dè dặt.
Billy tự hỏi không biết người đàn ông này đã bao nhiêu đêm không ngủ, trông anh ta rất hốc hác. Bảy chiếc mặt nạ này chính là những thứ Billy từng đọc được trong thông báo tại cửa hàng đồ cổ của Lorraine - vợ Butch. Billy quyết định chờ cơ hội để hỏi về chúng. Ông nhìn thấy một chiếc mặt nạ bị vỡ, con mắt vàng của nó được gắn vào phần màu trắng nham nhở còn lại.
"Cái này bị làm sao đây?" Billy hỏi và chỉ vào chiếc mặt nạ đó.
"Tiếc quá, khi tôi nhận chúng cái này đã bị thế rồi. Chắc nó đã bị vỡ trong quá trình vận chuyển. Thật khó mà phục hồi lại vì có quá nhiều mảnh vỡ."'
"Các mảnh của nó nhỏ cỡ nào?" '
"Ông có thích ngành khảo cổ học không, thanh tra?" Randy đánh trống lảng.
"Khảo cổ học luôn nghiên cứu tìm ra sự thật theo phương pháp của riêng mình. Tôi ngưỡng mộ nó."
"Ông nói rất hay. Nhưng đôi khi sự thật không dễ dàng khám phá, giống như trường hợp những chiếc mặt nạ này. Chúng tôi cũng không chắc chúng được mang đến từ Mexico qua Pueblo, hay từ người Apache rồi tới người Blackfoot. Hoạt động buôn bán thường xuyên diễn ra ở lục địa Bắc Mỹ giữa các bộ lạc và tộc người, đá vỏ chai đổi lấy vỏ sò, ngô đổi lấy đồng,... Căn cứ vào cấu tạo con mắt, tôi tin là những chiếc mặt nạ này được làm từ đầu thế kỷ 18, khả năng là bởi một nghệ nhân ở New Mexico."
"Anh đang dùng loại keo gì vậy?"
"Một loại keo đặc biệt để gắn xà cừ. Ông hãy xem chỗ này, một nửa là vỏ sò, một nửa là xà cừ." Tay Randy run lên khi chỉ vào chiếc mặt nạ.
"Anh có chắc vậy không?"
"Tôi khá am hiểu việc này."
"Anh trở về thành phố từ khi nào?"
"Khi nào à? Ồ, khoảng một hai tiếng trước đây. Không, có lẽ khoảng một tiếng thôi. Sheree Lynn đang ở căn nhà gỗ của tôi. Cô ấy đang rất buồn. Tôi trở lại đây để làm lại những chiếc mặt nạ này chuẩn bị cho việc trưng bày ở bảo tàng. Tôi biết đáng lẽ mình phải ghé qua đồn cảnh sát, tôi biết các ông cần gặp tôi. Lần cuối cùng tôi thấy Justin là lúc cậu ấy lên xe cùng Cara Simonds sau khi kết thúc khai quật. Tôi bảo các em có thể về sớm và tiền thù lao đến thứ hai chắc chắn sẽ có. Ông cần tìm tôi có việc gì?",
"Tôi cần gặp anh để nói chuyện về Justin. À, có phải chiếc xe tải đậu bên ngoài tòa nhà này là của anh không?"
Randy dừng lại một lát, anh ta đảo mắt rồi húng hắng ho. "Cái xe nào?"
"Cái xe trắng, rào chắn phía sau bị bẹp, trông như chiếc Chevrolet ấy?"
"Đó không hẳn là của tôi. Tôi chỉ dùng tạm nó một lúc thôi, trong cuộc khai quật ấy mà. Nó là của..."
"Randy, tối qua anh từ Waterton về đây lúc mấy giờ?"
"Gì cơ? Ý ông hỏi là tối nay ấy à? Tôi về cách đây một tiếng."
"Đêm khuy hôm qua, khoảng một giờ sáng, một chiếc xe tải nhẹ giống xe của anh đã đậu bên hàng rào nhà Moore. Một người lái taxi đã nhìn thấy nó khi ông ta đưa khách về nhà ở đường Baroness."
"Không thể.... thật vậy à? Nhưng tối qua tôi còn làm việc ở căn nhà gỗ mà?"
"Sam có thể xác nhận việc đó với chúng tôi không?"
"Tại sao lại không? Chắc chắn rồi."
"Anh là người duy nhất lái chiếc xe tải đó đúng không Randy?'
"Tôi ư? Vâng. Hầu như là thế."
"Hầu như? Còn có ai sử dụng nó nữa à?"
"Sam."
"Tồi hiểu. Sam là người như thế nào?"
"Tốt." Randy cười gượng gạo.
"Quan hệ của hai người tốt chứ?"
"Ông thanh tra, tôi và Sam cùng hợp tác. Chúng tôi là bạn tốt của nhau."
"Cara Simonds nói với tôi rằng hai người đã đánh nhau và say xỉn thường xuyên trong chuyến khai quật."
"Cara Simonds đã nói thế?"
"Cô ấy còn nói Sam là một kẻ ưa bạo lực, anh ta đã vài lần đấm anh, lại còn đe dọa cả Justin nữa."
“Ồ, vâng, anh ta đã làm thế. Khi Sam say thì anh ta thường cư xử tồi tệ. Anh ta có ác cảm với Justin. Không phải ông cho rằng Sam có liên quan đến vụ việc đấy chứ?"
"Anh định nói gì?"
"Sam có thể đã nói dối tôi. Sam nói rằng tối qua anh ta đi ra ngoài để uống một chút gì đó. Tôi thì đi ngủ sớm vì quá mệt. Anh ta chắc đã... Ông nói là có người nhìn thấy chiếc xe tải trong thành phố tối qua? Chắc chắn là Sam rồi. Anh ta rất hay lấy trộm chìa khóa của tôi. Anh ta nói "cái gì của anh cũng là của tôi", người da đỏ một khi đã coi nhau là anh em bạn bè thường hay nghĩ thế. Vâng, có lẽ đó là Sam. Anh ta không thích Justin chút nào, ông thanh tra ạ. Ông có nghĩ Sam đã hại Justin không?".
"Tôi không biết, Randy, Tôi không chắc chắn một điều gì vào lúc này. Chúng tôi đã có một số dấu vân tay ở hiện trường. Đó là lí do tôi yêu cầu anh ở lại trong thành phố, trong ngày mai không được đi đâu xa. Tôi biết anh đã lên kế hoạch đi du lịch từ trước, nhưng tôi muốn anh có mặt ở trụ sở vào sáng mai để lấy lời khai. Anh có thể nói với chúng tôi chuyện về Sam."
"Rất sẵn lòng."
"Vậy Sam bây giờ ở đâu, anh Randy?"
"Bây giờ ư?"
"Tôi có thể tìm Sam ở đâu? Để thẩm vấn ấy mà."
Randy thở dài, anh ta cầm chiếc nhíp lên ngẫm nghĩ một lát rồi nói: "Tôi không biết. Sam bỏ đi từ tối qua như tôi đã nói với ông. Anh ta lấy chiếc xe tải đi và tôi không nhìn thấy anh ta từ lúc đó."
"Vậy anh lấy chiếc xe tải về bằng cách nào?"
"Gì cơ? Ồ... à, Sam bỏ nó lại... Không, đợi đã, anh ta về rất muộn, vẫn say như mọi lần, đi ngủ luôn và sáng nay đã trở về Montana. Anh ta đến từ Browning. Ông có thể gọi cho Sam hay Rita - chị gái anh ta thông qua Trung tâm Bạn bè ở đó. Họ không hoạt động vào ngày Chủ nhật, nhưng biết đâu đấy"
"Anh ta đi xe bus đường dài hay đi nhờ xe?"
"Tôi không biết, thưa ông. Sam thức dậy bỏ đi và chửi chúng tôi biến đi. Anh ta có lẽ đã phát chán với công việc nghiên cứu của tôi. Tôi không biết tại sao Sam lại tức giận như vậy. Ông thấy đấy, anh ta được trả lương khá hậu hĩnh với vai trò là người dẫn đường nhưng rồi lại cầm túi và bỏ đi. Thú thực là tôi mừng vì điều đó. Đã mấy lần tôi suýt phát điên với anh ta." Randy nói xong ngáp dài một cái.
Billy đứng yên lặng ngắm khuôn mặt của Randy, cằm anh ta lởm chởm râu chưa cạo, đôi mắt mệt mỏi vì thiếu ngủ.
"Sáng mai gọi cho tôi nhé, Randy."
"Vâng, tôi hứa."
Nói rồi Randy trở lại công việc gắn những mảnh vỡ của chiếc mặt nạ lại với nhau. Billy bước ra ngoài nhưng không rời khỏi đó ngay. Ông bước tới chiếc xe tải màu trắng - đó là một chiếc xe Chevy - rồi quỳ xuống xem xét bánh trước. Ông gạt một ít bùn khô màu đỏ dính ở mép trong của vành xe vào trong chiếc khăn giấy ông mang theo rồi nhét vào túi. Phía sau chiếc xe tải tối om. Ghế của tài xế được phủ giấy báo, còn ghế ngồi của khách bỏ trống, các ô kính của cửa trượt đều bị bụi bám mờ.
"Tốt rồi," Billy nhủ thầm. Ông biết mình phải thật khẩn trương. Ông lấy điện thoại ra và gọi cho Butch, bảo Butch là mình đã tìm thấy Randy cùng với bộ mặt nạ khảm vàng, một trong số chúng bị vỡ. Billy bảo Butch không còn thời gian chần chừ nữa, ông phải cùng Johnson và hai cảnh sát nữa đến trường Đại học bắt ngay Randy với lý do tàng trữ đồ cổ bị mất cắp. Những chiếc mặt nạ này có thể cũng liên quan đến những mảnh vỡ thu được ở ga-ra và trong quần áo của Justin. Ông cũng bảo Butch gọi cho Lorraine để bà fax cho tờ thông báo mất trộm cổ vật mà bà nhận được từ những người bảo vệ biên giới. Dodd có thể kiểm tra lại thông tin trên Internet.
Billy nói gần như không kịp thở. "Tôi sẽ đợi trong xe của tôi cạnh chiếc xe tải trong bãi đỗ. Nếu Randy ra ngoài và chuồn đi, tôi sẽ bám theo hắn. Bảo Dodd đến căn hộ của hắn, cần phải giữ Shéree Lynn ở đó. Nếu không thấy cô ta thì phải gọi ngay cho cảnh sát Hoàng gia, bảo họ tới ngôi nhà gỗ ở Waterton. Sheree có thể ở đó. Và thông qua Clive Erdmann, chúng ta có thể đưa Sheree Lynn về thành phố sớm nhất có thể."
"Chúng tôi sẽ tiến hành ngay đây." Butch nói.
Cậu Bé Phải Chết Cậu Bé Phải Chết - Jon Redfern Cậu Bé Phải Chết